-
Thông tin
-
Quiz
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến năm 1930 | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (tháng 01/2011) khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh... là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 69 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến năm 1930 | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (tháng 01/2011) khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh... là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 69 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài:
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 1890 ĐẾN NĂM 1930
Học viên: Ngô Vân Anh
Mã sinh viên: 2056160002
Lớp: Truyền thông Marketing A1 K40 Hà Nội, 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH......................................................................................4
I. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:.......................................................................4
II. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:....................................................6
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH....................................................................................11
I. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân và chí hướng cứu nước
(1890-1911):.............................................................................................................11
II. Thời kỳ nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành
người cộng sản (1911-1920)....................................................................................13 III.
Hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh (1921-1930).................................16
IV. Thời kỳ gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên định của Người về cách
mạng Việt Nam (1930-1941)...................................................................................18
V. Thời kỳ Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thời kỳ
phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh (1941-1969)..................................................19
KẾT LUẬN......................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................23 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (tháng 01/2011) khẳng định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh... là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi”. Theo đó, việc kiên trì, vận dụng sự sáng tạo và phát
triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính
nguyên tắc hàng đầu của Đảng. Do đó, việc nghiên cứu và học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh luôn được đặt ra với một yêu cầu bức thiết, nhằm mục đích
làm cho tư tưởng của Người thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và toàn dân tộc Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề
cơ bản thuộc lĩnh vực nghiên cứu lịch sử tư tưởng của Người, vì để trở
thành một hệ thống hoàn chỉnh, tư tưởng Hồ Chí Minh phải trải qua quá
trình hình thành và phát triển. Do đó, việc xác định rõ chính xác sự phân
chia các thời kỳ lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta “nắm được
những nội dung tư tưởng cơ bản của Người trong từng thời kỳ, phản ánh
khách quan hiện thực lịch sử và tài năng, trí tuệ của Hồ Chí Minh”.
Xuất phát từ tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng trên, em đã lựa chọn đề
tài nghiên cứu: “Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh từ năm 1890 đến năm 1930”, với mong muốn góp một phần nhỏ
nghiên cứu của bản thân trong lĩnh vực nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích:
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ:
Làm rõ khái niệm, nguồn gốc và quá trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của
tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến năm 1930.
4. Cơ sở lý luân và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Tiểu luận sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp.
- Kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các công trình
đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần làm rõ thêm quá trình hình thành và
sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Ý nghĩa thực tiễn: Những nghiên cứu được đưa ra trong tiểu luận có thể
làm tài liệu nghiên cứu phục vụ cho việc học tập và tìm hiểu về tư tưởng Hồ
Chí Minh cho sinh viên, học sinh trên cả nước.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái niệm, nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 2: Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. 3
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khái quát: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống
lý luận về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam... Đó là tư
tưởng cách mạng không ngừng, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa
xã hội, nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải
phóng con người. Nói ngắn gọn là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội; hay
nói ngắn gọn hơn: “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Hồ Chí Minh (19/5/1980-2/9/1969) là một nhà cách mạng, một trong những
người có vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam. Là người
đã viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Người từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước Việt Nam, trong
đó Người là Chủ tịch nước trong thời gian 1945-1969, Chủ tịch Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951-1969, kiêm Tôngt Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 10/1956 đến 1960.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo được nhiều người trong và ngoài
nước ngưỡng mộ và tôn sùng, Người còn là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với
nhiều tác phẩm nổi tiếng được viết bằng nhiều thứ tiếng như tiếng Việt, tiếng Hán,
tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Nga, những tác phẩm của Người vẫn được lưu
truyền để làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các thế hệ sau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là thuật ngữ dùng để bao quát những tư tưởng của Hồ
Chí Minh đã được đúc kết lại qua Đảng cộng sản Việt Nam, và được sử dụng như
là hệ thống tư tưởng chính của Việt Nam hiện nay, đi cùng với Chủ nghĩa Mác-
Lênin. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng 4
xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tăng cường công tác tuyên
truyền, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tất cả các tầng lớp xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện chủ yếu trong thời kỳ đấu tranh giải
phóng dân tộc chống thực dân Pháp, trước cách mạng tháng 8 và một số được
tổng kết sau đó trong suốt quá trình chiến tranh chống Pháp và Mỹ, xây dựng
Đảng Cộng sản và chính quyền cộng sản. Theo nhận định, đó là sự tổng hòa của
các luồng tư tưởng và văn hóa của Việt Nam, cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của
Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Mác-Lênin, tư tưởng văn hóa phương Đông. Hiến
pháp năm 1992 và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam lấy tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng định hướng cho sự phát triển của Việt Nam và Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đều khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại... Tư tưởng
Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài
sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”[1]
Như vậy, có thể tổng hợp định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh qua những nội
dung chủ yếu sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
kết tinh của sự vận dụng sáng tạo và phát triển dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin áp
dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự tổng hòa
giữa tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại, với mục đích giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ngọn cờ
chiến thắng của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm và tiếp tục dẫn lối
chúng ta tiến đến công cuộc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, 5
độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. II.
Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Bối cảnh lịch sử.
Mỗi học thuyết, tư tưởng đều được hình thành trong những hoàn cảnh và
điều kiện nhất định. Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người không chỉ là
sản phẩm của dân tộc và cách mạng Việt Nam, mà còn là con đẻ của thời đại, sự
tiến bộ của nhân loại. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi cùng với
nghiên cứu bối cảnh thế giới và trong nước.
a. Tình hình thế giới:
Nửa sau thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa phương Tây chuyển
nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền hay còn gọi là giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chỉ có chín nước đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế
giới. Các nước đế quốc với hành vi tàn bạo, bên trong thì bóc lột nhân dân lao
động hết mức, bên ngoài thì xâm chiếm và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Về cơ bản, cho đến năm 1914, lãnh thổ trên thế giới đã được các nước đế quốc
phân chia xong và phần lớn các nước ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đều
bị biến thành thuộc địa hoặc phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Điều này đã được
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh chỉ rõ trong tham luận của Người đọc tại diễn
đàn Đại hội V, Quốc tế Cộng sản (năm1924): 9 nước đế quốc (gồm Anh, Pháp,
Mỹ, Tây Ba Nha, Ý, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan) với tổng số dân
320.657.000 người, và với diện tích 11.407.600km2, bóc lột các nước thuộc địa
gồm hàng trăm dân tộc với số dân 560.193.000 người và diện tích 55.637.000
km2. Nhìn vào số liệu trên, có thể thấy rõ toàn bộ lãnh thổ của các nước thuộc địa
rộng gấp 5 lần lãnh thổ của các chính quốc, còn số dân của các chính quốc không
bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa [2]. Nhân dân các nước thuộc địa bị chủ
nghĩa thức dân tước đoạt hết những giá trị văn hóa, tinh thần, quyền lợi kinh tế và
địa vị xã hội.... Mạng sống của người dân thuộc địa được cho rằng “không đáng
một trinh”[3] Đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa xuất hiện và
phát triển có vai trò quyết định đến sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là sau
Cách mạng Tháng Mười Nga. Điều này dẫn đến sự hình thành mâu thuẫn mới đi
cùng với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với các nước tư bản chính 6
quốc đã được nảy sinh. Mâu thuẫn này đã trở thành điều kiện khách quan vừa cho
phép, vừa đòi hỏi không chỉ sự đoàn kết giữa công nhân trong các nước tư bản mà
còn cần sự đoàn kết giữa công nhân ở chính quốc với nhân dân các nước thuộc địa
trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Mâu
thuẫn ngày càng trở nên gay gắt. Do đó, từ đầu thế kỷ XX phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa ngày càng diễn ra rộng rãi, nhưng chưa giành được thắng lợi nào.
Giữa thế kỷ XIX, để đáp ứng nhu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận
khoa học dẫn đường cho các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
V.I.Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều
phương diện, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Sự
xuất hiện của chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố đặc biệt quan trọng trong việc ra
đời và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự tranh chấp thuộc địa giữa các
nước chủ nghĩa đế quốc là nguyên nhân gây ra cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1914-1918). Cuộc chiến tranh đã gây thiệt hại lớn về người và của đã khơi
sâu, làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa, khiến cho chủ
nghĩa tư bản thế giới suy yếu, lúc này Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
Nga được thời giành lấy thắng lợi. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra
thời đại mới cho lịch sử loài người, đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, sự ra đời của Nhà nước
Xôviet cũng làm nảy sinh ra một mâu thuẫn mới mang tính thời đại, đó là mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Tình hình quốc tế nói trên đã ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến hoạt
động thực tiễn cũng như sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
b. Tình hình trong nước:
Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Nam Á, một vùng đất được
hình thành từ thời cổ đại trong lịch sử. Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước
đã hình thành nên một dân tộc Việt Nam, là một dân tộc thống nhất, gồm nhiều
thành phần cùng chung sống trên một lãnh thổ. Với ý thức quốc gia, dân tộc, làm
chủ đất nước từ sớm, dân tộc Việt Nam đã tạo dựng nên những truyền thống tốt
đẹp như: truyền thống yêu nước, truyền thống nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, đoàn
kết... Sau khi bị thực dân Anh hất ra khỏi thị trường Ấn Độ (năm 1963), tư bản
Pháp lập tức triển khai âm mưu xâm lược Việt Nam. Giữa thế kỷ XIX (1858), 7
Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã bị chủ nghĩa tư bản Pháp xâm chiếm
và trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư
bản Pháp đã làm xã hội Việt Nam nảy sinh ra hai giai cấp mới: giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản. Chịu ánh thống trị của thực dân Pháp, mất đi độc lập tự do, nhân
dân ta không chịu khuất phục mà đã liên tục hình thành những phong trào chống
lại chúng. Đến năm 1884, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt (6/6/1884),
thừa nhận nước Pháp “bảo hộ” cả Trung Kỳ và Bắc Kỳ, đất nước rơi vào trạng
thái chia cắt bởi chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp. Kể từ đó, trừ một số ít
người dân cam tâm làm tay sai cho giặc, đại đa số nhân dân vẫn nung nấu ý chí
căm thù và chờ đợi cơ hội vùng lên tự giải phóng. Trong đó, hàng loạt sĩ phu và
đồng bào yêu nước liên tục đứng lên đấu trang giành lại độc lập dân tộc. Tuy
nhiên, các phong trào kháng chiến đều bị dập tắt, những kinh nghiệm lịch sủ
chống ngoại xâm không phát huy hiệu quả trước một kẻ thù hùng mạnh mới – chủ
nghĩa đế quốc. Sau thất bại của phong trào Cần Vương và các phong trào cứu
nước theo hệ tư tưởng tư sản, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng bế tắc, cả
dân tộc chìm đắm trong chuỗi ngày nô lệ, tưởng chừng như không có lối thoát.
Tình hình trên đã tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm của người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Nhớ đến giai đoạn lịch sử bi tráng này,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong suốt một thế kỷ thống trị của thực dân
Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát
triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu
nước ấy đã bị dìm trong máu”[4].
Từ những bối cảnh trong nước và quốc tế như trên, Hồ Chí Minh đã ra đi
tìm đường cứu nước và từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng những
đòi hỏi bức thiết của dân tộc và thời đại.
2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Những truyền thống tốt đẹp, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam ta qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
đã hình thành riêng cho mình một bản sắc dân tộc, văn hóa phong phú và bền
vững với những truyền thống tốt đẹp, cao quý. Trước hết, phải nhắc tới chủ nghĩa
yêu nước và ý chí chiến đấu kiên cường trong dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa
yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt giai đoạn lịch sử Việt Nam, là chuẩn
mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí 8
Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[5] Tiếp
đến là tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này phát
triển cùng với sự ra đời của dân tộc, bắt nguồn từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh
quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Dù trong bất kỳ thời đại nào, dù xã
hội Việt Nam có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng truyền
thống đó vẫn không thay đổi. Bên cạnh đó, dân tộc Việt Nam còn có tinh thần lạc
quan, là cơ sở cho niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, sự tất thắng của công lý và
chính nghĩa. Hồ Chí Minh chính là ví dụ tiêu biểu cho truyền thống lạc quan đó.
Cuối cùng, không thể không nhắc đến phẩm chất của nhân dân Việt Nam, với tính
cách cần cù, thông minh, dũng cảm, ham học hỏi và tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại. Từ xa xưa, người Việt Nam đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những
cái hay, cái tốt của người thành những giá trị của riêng mình.
b. Sự kết tinh của văn hóa phương Đông và phương Tây.
Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà Nho
yêu nước, Người đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực phù hợp
với nhiệm cụ cách mạng. Đạo đức Nho giáo thấm nhuần vào tư tưởng của Người
không phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” với mục đích bảo vệ
trật tự phong kiến, mà là tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, cùng sự ham học
hỏi, đức khiêm tốn và tính hòa nhã, cùng với cách đối nhân xử thế “có lý, có tình”.
Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai huynh đệ”, “dân vi quý,
xã tắc thứ chi, quân vi khinh” và phương châm “khắc kỷ phục lễ”,... của các nhà
hiền triết phương Đông được Người hết sức coi trọng. Tiếp thu, vận dụng những
yếu tố tích cực của Nho giáo nhưng vẫn không quên phê phán, loại bỏ những yếu
tố duy tâm, lạc hậu của nó.
Phật giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong tư duy, hành động và ứng
xử của con người Việt Nam. Là một trong những tôn giáo được du nhập vào Việt
Nam khá sớm, Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn,
thương người, hình thành nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, làm điều thiện,
đề cao tinh thần bình đẳng, dân chủ. Phật giáo khi đến Việt Nam, cùng với chủ
nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã tạo nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, 9
với chủ trương không xa rời đời sống mà gắn bó với nhân dân, đất nước, tham gia
cùng cộng đồng và cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù dân tộc của nhân dân. Từ đó,
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để
lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh những tiếp thu từ văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh còn đặc
biệt quan tâm tới những văn hóa phương Tây. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin, Người đã quan tâm, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, làm quen với
văn hóa Pháp, đam mê tìm hiểu, đặc biệt với lịch sử nổi bật là cuộc Đại cách mạng
Pháp 1789. Khi đến Pháp, Hồ Chí Minh đã có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với
tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ,
khế ước xã hội của Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh
hưởng lớn tới tư tưởng của Người, từ đó hình thành phong cách dân chủ của mình
từ trong cuộc sống thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách
sinh hoạt ở Câu lạc bộ Faubourg, hay trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội
Pháp. Người từng sang Mỹ, cùng lúc có những suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền
sống của con người... được ghi trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ.
Tóm lại, trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của mình, Hồ
Chí Minh đã đúc kết có chọn lọc tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây,
nâng lên một trình độ mới dựa trên cơ sở phương pháp luận Mạc-Lênin.
c. Chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hóa những nhân tố tích cực và tiến bộ của
truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng, văn hóa nhân loại để hình thành nên
hệ thống tư tưởng của chính mình. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư
tưởng Mác-Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh đều nằm
trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác – Lênin. Sự lựa chọn các nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển để hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh đều có nguyên do. Bởi, với vốn học vấn chắc chắn, trí
tuệ sắc bén, Người đã quan sát, phân tích và tổng kết một cách độc lập tự chủ sáng
tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn, tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin hiệu quả và sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. 10
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất của Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, cùng bản lĩnh kiên
định, lòng nhân ái rộng lớn và ý chí cứu nước được hình thành từ sớm. Có thể dễ
dàng nhận thấy tư chất thông minh, tư duy nhạy bén, độc lập, sáng tạo, ham hiểu
biết ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Những phẩm chất đó đã được phát
huy triệt để trong suốt chặng đường hoạt động cách mạng của Người. Do đó, đối
mặt với thực tiễn phong phú và sinh động , giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác
nhau, biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu, chọn lọc để hình
thành nên những luận điểm đúng đắn, sáng tạo, tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I.
Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân và chí hướng cứu nước (1890-1911):
1. Hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân:
Để làm rõ những yếu tố tạo nên sự hình thành tư tưởng yêu nước,
thương dân của chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời niên thiếu, trước hết cần tìm hiểu
ảnh hưởng từ những người thân xung quanh cụ thể là gia đình, hiện thân là người
cha – cụ Nguyễn Sinh Sắc, bởi lẽ trong khuôn khổ giáo dục phong kiến, người cha
có vai trò rất quan trọng.
Theo GS Song Thành, giai đoạn từ 1890 đến 1901 thì “tư tưởng yêu
nước của Nguyễn Sinh Sắc chưa có điều kiện bộc lộ, vừa chưa có cơ sở gì để kết
luận về tầm ảnh hưởng của ông đối với sự hình thành tư tưởng yêu nước của cậu
bé Nguyễn Sinh Cung”[6]. Các tác giả sách “Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử”
cũng xác định: “Khoảng năm 1901 – 1902, Nguyễn Tất Thành bước đầu tiếp thu
tư tưởng yêu nước của các bậc sĩ cha chú thông qua mối quan hệ giữa cha với các
sĩ phu trong vùng”[7]. Có thể nói, tư tưởng yêu nước, thương dân của Nguyễn Tất
Thành – Hồ Chí Minh hình thành từ rất sớm, khi mới chỉ 11, 12 tuổi, và không thể
phủ định tầm ảnh hưởng của người cha đầu tiên.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc, trong khoảng thời gian 1901 đến 1906 sau khi đỗ
Phó bảng đã không ra làm quan mà cụ dành thời gian cho việc dạy học, đến những
nơi phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi từ Trung ra Bắc để giao du, tiếp xúc, đàm
luận với các sĩ phu yêu nước. Đặc biệt, cụ thưởng đưa Nguyễn Tất Thành theo 11
cùng, để đi học, hoặc hầu giúp cha trong những cuộc đàm luận giữa cha và các sĩ
phu. Đó không chỉ là nhu cầu tự thân biểu hiện lòng yêu nước, quan tâm tới thời
cuộc của cụ, mà còn mang tính giáo dục, định hướng của người cha đối với người
con được ông yêu thương và kỳ vọng. Đây chính là điều kiện lý tưởng để mọi việc
làm, hành động, lời nói của cụ Sắc ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nguyễn Sinh Cung.
Chính từ đó, được tiếp thu những câu chuyện mà nhận thức xã hội và lòng yêu
nước của Nguyễn Sinh Cung đã được khơi nguồn.
Tư tưởng thương dân của cụ Nguyễn Sinh Sắc nổi bật trong thời kỳ
1901-1910, bởi lẽ cụ vốn xuất thân nghèo khổ, sống gần với nhân dân và từ nghèo
khó mà đi lên, chịu ơn sâu nặng của dân nên tư tưởng thương dân của cụ đã được
bén rễ sâu xa. Sự thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân, cụ luôn cưu mang giúp đỡ
dân nghèo. Ngay cả khi đôc Phó bảng, cụ từ chối ngồi kiệu trong lễ vinh quy, mà
bình dị gần gũi đi bộ cùng dân làng về quê ngoại; số tiền được xã cắt cho làm cỗ
ăn khao, cụ cũng đem chia cho người nghèo; trước khi vào Huế nhậm chức, cụ chỉ
lấy một ít ruộng đất cho người con gái, còn nửa cụ bán để lấy tiền giúp đỡ người
dân trong làng; đến khi làm quan trong triều, cụ vẫn kiên định trong giáo dục tư
tưởng con cái mình, đó là tư tưởng “Vật dĩ quan gia vị ngô phong dạng”, là đừng
lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình. Với điều kiện sống trong một
gia đình như vậy, cùng với sự chứng kiến những biến đổi lớn lao trong xã hội
nước ta những năm đầu thế kỷ XX, tư tưởng yêu nước, thương dân và lòng căm
thù giặc từng bước hình thành và phát triển trong tâm trí Nguyễn Tất Thành, thôi
thúc Người hành động và suy nghĩ theo con đường của riêng mình.
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở vùng đất Nghệ An có
truyền thống văn hóa, giàu tình nghĩa trong cuộc sống và bất khuất trước kẻ thù,
với bao di tích lịch sử vẫn còn tồn tại, cùng sức nóng của phong trào yêu nước
ngay tại quê hương, Nguyễn Tất Thành đã nhận thức được thế nào là tình làng
nghĩa xóm, tình yêu quê hương, đất nước. Đó cũng chính là những cơ hội rất tốt
để nuôi dưỡng, hun đúc tình cảm và tư tưởng yêu nước ở Người. PGS.TS Đức
Vượng nhận xét: “Nếu như truyền thống gia đình mà hiện thân là người cha đã
gieo những tư tưởng yêu nước, thương dân cho Hồ Chí Minh, thì truyền thống quê
hương đã góp phần nâng nhận thức của Người lên tầm cao hơn”[8]
2. Hình thành chí hướng cứu nước: 12
Sự hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân và chí hướng cứu nước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ từ 1890 đến 1911 đã chịu ảnh hưởng từ nhân
cách, tư tưởng và ý chí nuôi dưỡng, bồi đắp từ các bậc sĩ phu, thầy giáo nhà nho
đương thời mà Người đã tiếp xúc. Cùng với những trải nghiệm từ cuộc sống,
Người đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột tàn nhẫn của bọn
thực dân Pháp – một đất nước tiên tiến với nền khoa học kỹ thuật phát triển, và
cũng là quê hương của lý tưởng cao đẹp và hấp dẫn con người: Tự do – Bình đẳng
– Bác ái. Nhận thức được bối cảnh nước Pháp, về nước Pháp, Nguyễn Tất Thành
đã quyết định lên đường sang Pháp và các nước khác để khảo sát, học hỏi, và để
biết những gì ẩn giấu ở “nước Mẹ”, sau đó trở về giúp đỡ đồng bào ta.
Trong quá trình tìm ra con đường cứu nước, bên cạnh lòng căm thù
giặc và quyết tâm thì cần lý giải được nguyên nhân thất bại của các bậc tiền bối,
hiểu được điều kiện chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, dựa trên cơ sở
đó để đưa ra hướng đi của con đường cũng như những yếu tố đảm bảo thắng lợi.
Trưởng thành trong bối cảnh các phong trào yêu nước bùng nổ, diễn ra khắp nơi,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra những hạn chế và không tán thành với cách làm
của những người đi trước. Ngày 5/6/1911, Người quyết định sang phương Tây.
Đây là một sự lựa chọn, trăn trở, với quyết tâm lớn mang trong mình, nhằm giải
đáp những đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Qua đó, ta thấy vai trò
quyết định của “nhân tố chủ quan”, đó là nhân cách, phẩm chất của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, là người có hoài bão, có lý tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc, có bản
lĩnh kiên định, thông minh, nhạy bén với cái mới,.... ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng của Người. II.
Thời kỳ nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin,
trở thành người cộng sản (1911-1920)
1. Khảo sát, nghiên cứu thực tiễn:
Nhận xét về quyết định sang Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, GS
Nguyễn Khánh Toàn viết: “Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được
và nó dẫn Người đi đúng hướng là : Nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc
là ở ngay tại “chính quốc”, ở nước đế quốc thống trị dân tộc mình”[9]
Ngày 5/6/1911, người thanh niên 21 tuổi – Nguyễn Tất Thành – với
khát vọng cháy bỏng là tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của thực dân phong kiến. Người không đi bằng con đường vương giả hay 13
nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài, không đi bằng con đường bác học, Người đi bằng
con đường của riêng mình, là “làm bất cứ việc gì để sống và để đi”[10] Từ thàng 7
đến thàng 12/1911, Người theo hành trình của tàu đặt chân đến nhiều địa điểm
trên đất Pháp, đây là một điều kiện lý tưởng giúp Người hiểu rõ hơn về nước
Pháp, từ cuộc sống người dân đến những thành công của khoa học kỹ thuật.
Không chỉ dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho
một chiếc tàu đi vòng quanh bờ biển châu Phi, Người đã có dịp ghé thăm và tìm
hiểu thêm về một số nước đế quốc như Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha và nhiều thuộc
địa khác ngoài Đông Dương như: Angieri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây.... Tiếp tục
theo con tàu đi qua một số nước Trung Mỹ và Nam Mỹ, và dừng lại ở Mỹ vào
cuối năm 1912. Tại Mỹ, Người vừa đi làm thuê để kiếm sống, vừa tìm hiểu đời
sống của những người lao động Mỹ. Nguyễn Tất Thành có cơ hội tìm hiểu về
cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Bắc Mỹ chống chủ nghĩa thực dân Anh
và bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng năm 1776. Khoảng đầu năm 1913, Người
theo tàu rời Mỹ về Lơ Havơ, sau đó đến Anh. Đây cũng chính là lúc nổ ra cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), dù là nước tham chiến nhưng chiến
tranh không diễn ra trên đất nước Anh. Như vậy, trong thười gian đầu đi tìm
đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã đi qua và dừng chân tại nhiều quốc gia
thuộc châu Á, Âu, Phi và Bắc Mỹ. Trong đó, phần lớn thời gian, Người lưu lại,
sống và làm việc tại Pháp, Anh và Mỹ. Người không chỉ học hỏi, tìm hiểu mà còn
tham gia những hoạt động thực tiễn trong phong trào đấu tranh của công nhân
Anh, quan tâm đến tình hình quốc tế, có những dự đoán và sự chuẩn bị cho bản thân.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ.Từ bản Luận cương của V.I.Lênin được
đọc trên báo Nhân đạo, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối
cơ bản cho cách mạng Việt Nam. Tại đại Đại hội Tours vào tháng 12/1920, cùng
với những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Người đã bỏ phiếu tán
thành tham gia Quốc tế Cộng sản, sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là một sự kiện chính trị vô cùng quan
trọng trong sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong
lịch sử cách mạng nước ta,
2. Đến với ý thức hệ vô sản: 14
Khác với những người đi trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi xuất dương
không chịu ràng buộc bởi người khác. Nếu cụ Phan Châu Trinh sang Pháp nhừo
vào Hội Nhân quyền Pháp, cụ Phan Bội Châu sang Nhật nhờ vào lòng “hằng tâm
hằng sản” của nhiều người thì Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh lên đường bằng
chính sức lao động của mình, bằng còn đường “vô sản hóa”, Người đặt chân lên
hầu hết các lục địa – điều mà chưa nhà cách mạng nào có thể làm được lúc bấy
giờ. Người đã có được vốn kiến thức thực tế sâu rộng, tích lũy và làm phong phú
thêm kho tàng trí tuệ của nhân loại, Người từ ý thức dân tộc sâu sắc đến với ý thức
hệ vô sản, niềm tin vào sức mạnh của giai cấp công nhân và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trước khi trở lại Pháp năm 1917, trong chặng đường đầu của cuộc
hành trình vạn dặm , Người đã có được hai phát hiện quan trọng: Thứ nhất, Người
nhận ra không chỉ có riêng dân tộc Việt Nam là đói nghèo, bị áp bức bóc lột, mà
có cả một thế giới rộng lớn trải dài từ châu Á, Âu, Phi đến châu Mỹ, bao gồm các
dân tộc thuộc địa và những người khốn khổ. Thứ hai, Người nhận thấy cũng
không chỉ ở Việt Nam có những người Pháp thực dân cai rị “rất hung ác và vô
nhân đạo”, bóc lột nhân dân thuộc địa, mà có cả một thế giới những tên thực dân
“mẫu quốc” ở Pháp, ở Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha đến Mỹ, Anh... và “ở đâu chúng
nó cũng thế”. Người kết luận rằng: “Đối với bọn thực dân, tính mạng của người
thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”[11]
Tóm lại, nếu như ở thời kỳ trước, quá trình đến với ý thức hệ vô sản ở
Chủ tịch Hồ Chí Minh là từ tình yêu nước đến sựu đồng cảm với dân tộc thuộc
địa, thấy được lực lượng đồng minh với cách mạng với cách mạng Việt Nam đều
là những người cùng khổ ở khắp các châu lục và toàn nhân loại bị áp bức đều có
chung một kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc; thì đến khi Người trở lại Pháp, thông qua
các hoạt động thực tiễn, Người đã từng bước đứng vũng trên lập trường vô sản và
hình thành những phẩm chất, tính cách, lý tưởng của giai cấp công nhân. Người
nhận thấy sức mạnh đoàn kết của giai cấp công nhân, phát hiện họ có chung chí
hướng, cùng một kẻ thù với sứ mệnh lịch sử của mình là lật đổ ách thống trị chủa
chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới.
3. Trở thành người cộng sản:
Có thể nói, Luận cương của V.I.Lênin không phải là tác phẩm đầu tiên
về chủ nghĩa Mác-Lênin mà Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận, nhưng không thể phủ 15
định rằng sự tiếp thu, giác ngộ chủ nghĩa cộng sản của Người đến lúc này mới chỉ
ở giai đoạn cảm tính, như Người viết: “Tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là
theo cảm tính tự nhiên”, tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại
đã giải phóng đồng bào mình... Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xa
hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”[12]. Để hiều được những điều
này, phải cho đến khi Nguyễn Ái Quốc tiếp cận được bản Luận cương của
V.I.Lênin thì lập trường của Người mới hoàn toàn tin theo V.I.Lênin, tin vào Quốc thế thứ ba.
Song song và từng bước với quá trình nghiên cứu lý luận Mác-Lênin,
để trở thành người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn làm công tác thực tế của
một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Từ khi trở lại Pháp, Người đã đi
theo ba hướng hoạt động trong những người Việt Nam và những người dân các
thuộc địa đang sống trên đất Pháp, trong phong trào công nhân và các tầng lớp xã
hội và những người tiến bộ Pháp. Đặc điểm nổi bất trong quá trình tìm đường cứu
nước của chủ tịch Hồ Chí Minh là đã sớm gắn phong trào cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới, gắn các cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam
với phong trào giải phóng của tất cả các dân tộc bị áp bức khác. Do đó, vấn đề dân
tộc và vấn đề quốc tế đã kết hợp chặt chẽ trong mọi hoạt động của Người, cũng từ
rất sơm, Người đến với lập trường của giai cấp vô sản, lập trường của chủ nghĩa
Mác-Lênin để giải quyết mối quan hệ ấy. Thêm vào đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
trước khi trở thành người cộng sản đã tích cực tham gia các hoạt động quốc tế , và
khi đã trở thành người cộng sản thì đồng thời lại là chiến sĩ quốc tế với đầy đủ ý
nghĩa của danh hiệu cao quý đó. Người trở thanh nhà ái quốc kiểu mới, yêu nước
trên lập trường vô sản. Đối với Người, không thể phân biệt được đâu là nhà yêu
nước và đâu là người cộng sản, đâu là người chiến sĩ của phong trào giải phóng
dân tộc và đâu là chiến sĩ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. III.
Hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh (1921-1930)
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hinh thành ngay một lúc mà được hình
thành, phát triển suốt đời, phải qua một quá trình tìm tò, xác lập, phát triển và
hoàn thiện gắn với sự biến đổi của thực tiễn cách mạng, cùng với quá trình hoạt
động cách mạng phong phú của Người. Có thể nói, giai đoạn từ 1890 đến 1930 là
một trong những giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình hình thành và phát triển
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Giai đoạn từ 1921 đến 1930 vơi sự hình thành tư 16
tưởng về con đường, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, đối tượng, lực lượng lãnh
đạo và tiến hành cách mạng; về phương pháp tiến hành cách mạng, về mối quan
hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng quốc tế - là những tư tưởng gần như
xác lập toàn bộ nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ
của Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân,... Hồ Chí Minh
đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của chính mình về nước để chuẩn
bị cho việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Để giáo dục và định hướng
nhân dân Việt Nam, các bài viết của Người trên báo Người cùng khổ (1922), báo
Nhân đạo, Tạp chí Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),... là những
công cụ quan trọng từng bước khiến những người Việt Nam từ yêu nước truyền
thống thành yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản. Từ những năm 20 của
thế kỷ XX, nhờ việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh, phong
trào cách mạng Việt Nam đã có những khởi sắc. Bên cạnh những đảng theo xu
hướng tư tưởng tư sản xuất hiện ở nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ
nhất của đội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929), đã có ba tổ chức cộng sản
ở Việt Nam xuất hiện: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản
Đảng (9/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (1/1930). Trước tình hình này,
ngày 28/11/1929, Quốc tế Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương. Theo Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
chủ trì Hội nghị hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Hội
nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
soạn thảo. Các văn kiện này, cùng với hai tác phẩm của Người là Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927), đã đánh dấu sự hình thành cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng của Việt Nam. Ngay từ
khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, phân tích được đặc điểm xã hội và sắp xếp đúng vị trí của
từng giai cấp, tầng lớp, cá nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho
Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng. Ngày 3/2/1930 là cột
mốc lịch sử đánh dấu tư tưởng Hồ Chín Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. 17 IV.
Thời kỳ gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên định của Người về
cách mạng Việt Nam (1930-1941)
Những đường lối, chue trương mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra trong
bản Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam. Tuy nhiên vẫn có những vấn đề thuộc lý luận,
chiến lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế Cộng
sản có đề cập nhưng chưa đi sâu. Thêm vào đó vào cuối những năm 20 đầu 30 của
thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị chi phối bởi quan điểm
“tả” khuynh, tư tưởng biệt phái, hẹp hòi, thể hiện rõ nhất ở Đại hội VI (1928).
Cùng với đó, Quốc tế Cộng sản chưa nắm rõ tình hình các nước thuộc địa nên đã
phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh đưa ra trong Chánh
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất “nguy
hiểm”, vì “chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu”. Dẫn
đến việc Ban chấp hành Trung ương đã ra quyết định “thu tiêu Chánh cương, Sách
lược của Đảng” và phải dựa vào các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, chính sách
và kế hoạch của Đảng làm căn bổn mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng Bônsêvich hóa.
Tuy bị phê phán nhưng trên cơ sở xác định chính xác con đưingf cần phải
đi của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên định bảo vệ quan điểm của
mình về vấn đề dân tộc, giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và
cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng.
Và thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Người là đúng đắn. Là cơ sở để
Thường vụ Trung ương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18/11/1930),
tiếp đến là Chỉ thị về vấn về thanh Đảng ở Trung Kỳ (29/5/1931), những chỉ thị
này đã uốn nắn quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, khiến cho toàn Đảng thấy
được sức mạng của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ
mệnh đoàn kết đưa cách mạng đến thắng lợi. Đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế
Cộng sản (7/1935), đứng trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế
giới mới, khi Quốc tế cộng sản đã có sự tự phê bình về khuy hướng “tả”, cô độc,
biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong trào cộng sản. Tạo
cơ hội cho các đảng tư sản, tiểu tư sản và phát xít chống phá cách mạng. Khi đó,
những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn
kết lực lượng cách mạng, về việc tập trung mũi nhọn và chống chủ nghĩa đế quốc 18
là hoàn toàn đúng đắn và được Quốc tế Cộng sản thừa nhận. Dựa trên quan điểm
đó, năm 1936, Đảng ta đã đề ra chính sách mới, phê phán những biểu hiện “tả”
khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Cuối tháng 9/1939, Quốc tế Cộng sản đã
quyết định điều động Người về công tác ở Đông Dương. Ngày 28/1/1941, sau gần
30 năm xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt –
Trung về nước. Lúc này là điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của
mình thành sức mạnh quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi. V.
Thời kỳ Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, thời kỳ phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh (1941-1969)
Thời kỳ từ năm 1941 đến 1969, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của
Đảng về cơ bản là thống nhất. Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp
chỉ đạo Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên đầu, tạm thời gác lại khẩu hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn đề Liên bang
Đông Dương. Cùng lúc đó, ngày 19/5/1941, Hồ Chí Minh thành lập ra Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, với quan điểm không phân biệt
dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo... với mục đích đoàn kết những tâm hồn yêu
nước chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần
thứ 8 và Chương trình của Việt Minh cùng với Kính cáp đồng bào của Hồ Chí
Minh ngày 6/6/1941, là những đường lối chỉ dẫn đúng đắn, hợp lòng dân đã quy
tụ toàn dân dưới ngọn cờ Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, dẫn tới sự thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, đây cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta đã phải tiến hành
công cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam. Đây cũng chính là thời kỳ tư tưởng Hồ
Chí Minh được bổ sung, phát triển và trở nên hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, đó là: về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình”, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một
nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hôi không trải
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền với
hai chế độ chính trị khác nhau và có chiến tranh; về xây dựng Đảng với tư cách là
Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước kiểu mới “của dân, do dân, vì dân”; về 19