













Preview text:
lOMoAR cPSD| 61432759
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUÓC DÂN ĐỀ TÀI
QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ PHƯƠNG THỨC CỦA SƯ PHÁT
TRIỂN VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM ĐÓ TRONG
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN Họ và tên : Phạm Hoàng Diệu Mã số sinh viên : 5
Lớp tín chỉ : LLNL1105(222)_13 Giảng viên
hướng TS. Lê Thị Hồng : dẫn
Hà Nội, tháng 6 năm 2023 lOMoAR cPSD| 61432759 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
A. QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ PHƯƠNG THỨC CỦA SỰ PHÁT
TRIỂN........................................................................................................................2
1. Khái quát chung..................................................................................................2
2. Các khái niệm cơ bản..........................................................................................2
2.1. Khái niệm chất:.............................................................................................2
2.2. Khái niệm lượng:..........................................................................................3
2.3. Các khái niệm về độ, điểm nút, bước nhảy:..................................................3
3. Nội dung quy luật lượng chất..............................................................................4
4. Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất..............................................................5
4.1. Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất........................................................5
4.2. Ví dụ về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất...................................5
5. Ý nghĩa phương pháp luận..................................................................................6
B. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM ĐÓ TRONG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN.......................................................................................................7
1.Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học..........................7
2. Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ..................................7
3. Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung
thực.........................................................................................................................8
4. Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt
cháy giai đoạn.........................................................................................................8
5. Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan.......................9
6. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên...............................................................9
7. Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên........10
PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... lOMoAR cPSD| 61432759 MỞ ĐẦU
Sự phát triển là một hiện tượng khách quan, phổ biến và đa dạng, diễn ra ở mọi lĩnh
vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự phát triển làm cho sự vật, hiện tượng có những
thay đổi về lượng và chất, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ
chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Đây là một vấn đề quan trọng trong triết học,
có ảnh hưởng lớn đến việc nhận thức và thực tiễn của con người. Tuy nhiên, sự phát
triển không phải là một quá trình đơn giản, đều đặn, mà là một quá trình phức tạp, gian
nan, có những bước nhảy vọt, những biến chuyển chất lượng. Vậy sự phát triển diễn ra
theo cách thức nào? Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển? Có những khuynh
hướng nào của sự phát triển? Để giải quyết những câu hỏi này, ta cần có một quan điểm
khoa học về phương thức của sự phát triển..Hiểu được điều đó triết học chủ nghĩa Mác-
Lênin đã khái quát các quy luật, trong đó có quy luật “Chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” - đây là một trong ba quy luật
của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động và phát triển.
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển khi cho thấy sự
thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã có những thay đổi về lượng đạt đến
ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển khi cho
thấy sự thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi
nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa tiến bước tuần tự vừa có những bước
đột phá vượt bậc. Việc nhận thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng
ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Muốn cho sự vật, hiện tượng phát triển cần đề ra
phương hương, cách thức, áp dụng hiệu quả quy luật này.
Đặc biệt đối với đối với sinh viên đại học - đây là giai đoạn có nhiều thay đổi về môi
trường sống, sinh hoạt và học tập, đòi hỏi sự thích nghi là cần thiết. Việc nhận thức và
vận dụng đúng đắn quy luật lượng – chất sẽ có ý nghĩa rất lớn, thông qua đó xây dựng
cho mình phương pháp học tập và rèn luyện phù hợp với bản thân và điều kiện sống. Đó
cũng là lý do em chọn đề tài “Quan điểm biện chứng duy vật về phương thức của sự
phát triển và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong học tập của sinh viên”
để nghiên cứu. Do đề tài nghiên cứu rộng, kiến thức còn hạn hẹp cũng như lần đầu làm
bài tập lớn nên khó tránh khỏi sai sót, kính mong cô thông cảm và góp ý để bài viết của
em được hoàn thiện hơn lOMoAR cPSD| 61432759 NỘI DUNG
A. QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ PHƯƠNG THỨC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN 1. Khái quát chung
Quy luật lượng – chất hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật trong triết học Mác – Lênin, chỉ cách thức của sự vận động,
phát triển, theo đó sự phát triển được tiến hành theo cách thức thay đổi lượng trong mỗi
sự vật dẫn đến chuyển hóa về chất của sự vật và đưa sự vật sang một trạng thái phát
triển tiếp theo. Ph.Ăng-ghen đã khái quát quy luật này:
“Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành
những sự khác nhau về chất”— Ph.Ăng-ghen.
2. Các khái niệm cơ bản
2.1. Khái niệm chất:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc, tính yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng làm cho sự vật là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.
VD: Con người biết lao động, có ngôn ngữ, tư duy,... làm cho chúng ta trở nên độc
lập và khác biệt so với động vật.
Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng;
nghĩa là khi nó chia chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa
thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại, phát triển qua nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn lại có những biểu hiện về chất khác nhau. Do đó, một sự vật, hiện tượng
không chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất.
Chất của sự vật được thể hiện qua những thuộc tính của nó. Trong đó có thuộc tính
cơ bản và không cơ bản nhưng chỉ những thuộc tính cơ bản mới tạo thành chất của sự
vật. Tuy nhiên sự phân chia thuộc tính thành cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối.
VD: Đối với một người dùng cái ly để uống nước, thì sự lành lặn của thân ly, đáy ly
là thuộc tính cơ bản. Song, đối với người dùng cái ly để giữ cho tài liệu, giấy tờ không
bị gió thổi bay thì độ nặng của cái ly là thuộc tính cơ bản.
Chất của sự vật, hiện tượng không những được quy định bởi các yếu tố tạo thành mà
còn bởi phương thức liên kết giữa chúng, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật.
VD: Nguyên tố Silic (Si) có hai dạng thù hình là silic tinh thể và silic vô định hình,
mặc dù chúng cùng cấu tạo từ một nguyên tố là Silic nhưng liên kết giữa các nguyên tử
Silic là khác nhau tạo nên sự khác nhau giữa chúng. Trong khi silic tinh thể có cấu trúc lOMoAR cPSD| 61432759
giống kim cương, có màu xám, có tính bán dẫn thì silic vô định hình là chất bột màu nâu.
2.2. Khái niệm lượng:
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
quy mô, trình độ phát triển, các yếu tổ biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các
bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, số lượng nhiều hay ít…
Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật. Lượng thường
được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con số chính xác nhưng cũng có
lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng tới khả năng trừu tượng hoá để nhận thức.
VD: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng của cơ thể
hay chiều cao của một con người…Có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng
chúng ta mới nhận thức được như lượng tri thức hiểu biết của một lớp học cao hay thấp….
Một sự vật có thể có nhiều loại lượng khác nhau. Có lượng biểu thị yếu tố bên ngoài
(VD: chiều cao, chiều dài của một vật,…), có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên
trong (VD: số lượng nguyên tử của một nguyên tố hoá học,…).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa mang tính tương đối: có cái trong mối
quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
VD: Trong mối quan hệ của một lớp học có học viên là đảng viên và học viên là đoàn
viên là nói đến lượng của một lớp học. Nhưng trong mối quan hệ lãnh đạo thì học viên
là đảng viên và học viên là đoàn viên khác nhau về chất.
2.3. Các khái niệm về độ, điểm nút, bước nhảy:
Mỗi sự vật và hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng
tác động biện chứng lẫn nhau. Trong quá trình ấy, xuất hiện các khái niệm độ, điểm nút,
bước nhảy. Sau đây là các khái niệm về chúng *Độ
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất
với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó sự thay đổi về lượng
chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành
sự vật, hiện tượng khác.
VD: Người sống lâu nhất thế giới từng được biết đến có tuổi thọ 146 tuổi. Nên với
dữ kiện này, ta có thể thấy giới hạn từ 0 – 146 năm là “độ” của con người xét về mặt
tuổi. Diễn đạt một cách chính xác hơn: Sự thống nhất giữa trạng thái còn sống và số tuổi
từ 0 – 146 là “độ tồn tại” của con người. (Thuật ngữ “độ tuổi” mà chúng ta hay dùng
cũng ít nhiều liên quan ở đây).
Ở một giới hạn về độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất thì tương đối
ổn định. Khi lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định sau khi đã tích lũy đủ thì nó sẽ lOMoAR cPSD| 61432759
đạt đến điểm nút, nếu có điều kiện phù hợp sẽ diễn ra bướcnhảy làm thay đổi chất của
sự vật. Sự biến đổi về lượng làm thay đổi chất có thể diễn ra ngay lập tức hoặc diễn ra
dần dần làm thay đổi chất cũ. * Điểm nút
Điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất
của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy
ra bước nhảy, gọi là điểm nút.
VD: Ở 0 độ C là điểm nút để nước tinh khiết chuyển sang trạng thái rắn, ở 100 độ C
là điểm nút để nước tinh khiết chuyển sang trạng thái khí (bay hơi).
Khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút thì sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Khi
chất mới và lượng mới đạt được sự thống nhất thì sẽ tạo ra lượng mới và điểm nút mới.
Mà muốn chuyển từ chất cũ qua chất mới phải thông qua bước nhảy. * Bước nhảy
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật,
hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng.
VD: Khi đã ôn luyện đủ các chương của môn Triết học Mác-Lênin thì một kì thi kết
thúc môn là bước nhảy.
Bước nhảy là điểm kết thúc về một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một
giai đoạn phát triển mới sau này. Đó là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục
của sự vật, hiện tượng, đồng thời nó cũng tạo tiền đề cho quá trình tích lũy liên tục về
lượng ở những lần tiếp theo.
VD: Trong xã hội có giai cấp, sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng thay đổi)
tới mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp và cuộc
cách mạng xã hội (bước nhảy), làm cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
3. Nội dung quy luật lượng chất
Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định, trong
đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi này tạo ra mâu
thuẫn giữa lượng và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong những
điều kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải
quyết, chất mới được hình thành với lượng mới, nhưng lượng mới lại biến đổi và phá
vỡ chất đang kìm hãm nó. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng tạo
nên sự vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại biến đổi dần để chuẩn
bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. Cứ căn cứ thế, quá trình động biện chứng giữa chất và
lượng tạo nên cách thức vận động, phát triển của sự vật.
Nói ngắn gọn hơn, bất cứ sự vật nào trong quá trình phát triển đều là quá trình biến
đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất. Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn
đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến lOMoAR cPSD| 61432759
đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất.
Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và
lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
4. Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
4.1. Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Chất và lượng luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn
nhau một cách biện chứng. Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng tất yếu sẽ dẫn tới sự
thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng.
Tuy nhiên, không phải bất cứ sự thay đổi nào về “lượng” cũng dẫn đến sự thay đổi
căn bản về “chất” của sự vật, hiện tượng và ngược lại. Ở một giới hạn nhất định, sự thay
đổi về “lượng” chưa đủ để làm thay đổi căn bản về “chất” – giới hạn đó là “độ”. Trong
giới hạn của “độ”, sự thống nhất hữu cơ giữa chất và lượng chưa bị phá vỡ-sự thay đổi
về “lượng” chưa đủ để làm thay đổi căn bản về “chất” của sự vật, hiện tượng, khiến cho
sự vật, hiện tượng vẫn là nó mà chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
Sự thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng chỉ có thể xảy ra khi sự thay đổi
về lượng đã đạt tới “điểm nút”. Sự thay đổi về “lượng” khi đạt tới “điểm nút”, với những
điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của “chất” mới thông qua “bước nhảy”
căn bản về “chất” của sự vật, hiện tượng.
Như vậy: Mặc dù chất và lượng của sự vật, hiện tượng là hai mặt thống nhất hữu cơ
với nhau khiến cho bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng tất yếu dẫn đến sự thay đổi
nhất định nào đó về chất. Song, không phải bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn
đến sự thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi căn bản về chất chỉ
có thể xảy ra khi sự thay đổi về lượng đã đạt đến điểm nút. sự vật, hiện tượng chỉ thay
đổi căn bản về chất sau khi đã thực hiện xong bước nhảy về chất.
4.2. Ví dụ về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Chất và lượng của sự vật là hai mặt của cùng một sự vật, chúng tồn tại trong tính quy
định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và ngược lại.
VD: tương ứng với cấu tạo H – 0 – H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên
tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách
quan, vốn có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,…
Vì giữa chúng có mối quan hệ quy định lẫn nhau như vậy, nên những sự biến đổi về
lượng sẽ tất yếu có khả năng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại.
VD: quy định nên trạng thái thể lỏng của nước chính là lượng nhiệt độ của nó (chứ
không phải là số lượng nguyên tử hyđrô và ôxy); do vậy, khi lượng nhiệt độ này biến
thiên thì tất yếu có khả năng dẫn tới sự biến đổi về trạng thái của nước sang thể rắn hay lỏng.
Muốn hiểu biết đầy đủ về sự vật, cần phải nghiên cứu trên cả hai phương diện chất và lượng. lOMoAR cPSD| 61432759
VD: khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ, người ta không chỉ
nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó mà còn phải nghiên
cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng các nguyên tố nào với cấu tạo liên
kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.
Trong thực tiễn, muốn làm thay đổi chất của sự vật thì cần phải làm thay đổi được
loại lượng tương ứng với chất đó đến giới hạn điểm nút. Ngược lại, nếu không muốn
cho chất của sự vật thay đổi thì cần phải giới hạn sự thay đổi của lượng trong giới hạn của độ.
VD: để “tiền” có thể biến thành “tư bản” (k) thì cần phải có sự tích luỹ tiền đến một
lượng nhất định và trong các điều kiện xác định về mặt chế độ kinh tế, chế độ chính trị xã hội,…
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy về
lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Bước
nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự vận động, phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây
nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức là đến điểm nút, đến độ nên muốn
tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích lũy về lượng.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách
quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện ở chỗ
không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về lượng mà cho rằng sự phát triển của sự vật,
hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; ngược lại, tư tưởng bảo thủ thường biểu
hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về
lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học
và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội
chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy, khi thực hiện bước
nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan, nhưng cũng
phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Nói cách khác, trong hoạt động thực tiễn, không
những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học,
chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước
nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy
khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa
chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ
bản chất, quy luật của chúng. lOMoAR cPSD| 61432759
B. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM ĐÓ TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại, có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp
luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong môi trường Đại học như sau:
1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên một cách
đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ kéo dài trong một
năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn.
Trong khi ở Đại học một môn chỉ kéo dài khoảng 10 đến 16 buổi học (từ 2 đến 3 tháng).
Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó
khăn. Chính vì thế sinh viên cần phải chủ động tìm hiểu và sẵn sàng để thích nghi với
sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức, học đại học và phổ thông
còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập,
nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên lớp còn học đại học còn đi kiến tập, thực
tập,...Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là thách thức cho sinh viên. Ở đây là sự khác nhau
về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có thể nói sự chuyển đổi
từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính
vì vậy mà người sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ khi nào làm
được như vậy sinh viên mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá trình
học tập và nghiên cứu của mình.
2. Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng
cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất và việc học tập củasinh viên cũng không nằm ngoài điều đó. Để có một
tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học.
Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà điểm nút là các kỳ thi, thi
cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy kiến thức đã đủ dẫn tới sự chuyển
hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết
từng bước tích lũy về lượng (tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy
luật. Cần học tập đều đặn hàng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh
gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận thức được trong
quá trình học tập. Tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập và trong hoạt động
thực tiễn hàng ngày. Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu
những kiến thức mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để
làm việc ngay được vì kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để
ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh viên học tập và rèn luyện chăm chỉ để tích
lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua những lần đi thực tập...(lượng) và
tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường
làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất lOMoAR cPSD| 61432759 mới.
3. Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự tích
lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đánh đổi bằng sức
lao động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào khác. Để làm rõ ý kiến
trên, chúng ta cùng suy ngẫm về câu chuyện ngụ ngôn sau: “ Một người nọ tìm thấy cái
kén của con bướm. Anh ta nhận thấy cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt
đầu bò ra. Quan sát một hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết lách thân mình qua lỗ
hổng mà không được. Động lòng thương, anh ta lấy kéo cắt vết rách của cái kén để sâu
bướm ta vượt ra ngoài dễ dàng. Khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra nhưng
đôi cánh thì nhỏ lại. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển thêm ra không?
Mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi.Than ôi! Vô ích! Con
bướm đã trọn đời tàn tật, lê lết với cái cánh nhỏ bé không thể bay đi được”. Người nọ vì
lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời của con bướm. Anh không biết luật của tạo
hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để vượt qua khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong
lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh và sau khi
vượt ra khỏi cái kén, bướm ta mới có đủ sức vươn đôi cánh lớn ra mà bay bổng. Hãy trở
lại với việc học tập và rèn luyện của sinh viên. Trong một kỳ thi, nếu có sinh viên gian
lận để một kết quả tốt thì chẳng khác gì con sâu bướm bé nhỏ tội nghiệp kia. Bằng gian
lận, ta có thể qua được kỳ thi, nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về
chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ không tiếp thu được,
không đáp ứng được yêu cầu công việc sau này và nếu ta giúp đỡ bạn bè theo theo cách
của anh chàng trong câu chuyện kia thì không khác gì chúng ta đang hại họ.
4. Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
Trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên cần tránh tư tưởng tả khuynh, tức
là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy . Sinh viên khi học đủ
những kiến thức cơ bản có sự biến đổivề chất mới có thể học tiếp những kiến thức sâu
hơn, khó hơn. Học tập nghiên cứu từ dễ đến khó là phương pháp học tập mang tính khoa
học mà chúng ta đều biết nhưng trong thực tế, không phải ai cũng có thể thực hiện được.
Nhiều sinh viên trong quá trình đi học tập do không tập trung, còn mải mê vui chơi , dẫn
đến sự chậm chễ trong học tập, rồi “ nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ mới tập
trung cao độ vào việc học. Giai đoạn ôn thi là lúc ta củng cố lại kiến thức chứ không
phải học mới, do đó sinh viên học tập chăm chỉ trong thời gian này không thể đảm bảo
lượng kiến thức qua được kỳ thi. Ngược lại có nhiều sinh viên có ý thức học ngay từ
đầu , nhưng họ lại nóng vội, muốn học nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học cơ
bản đã đến nâng cao, “chưa bò đã lo học chạy”. Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức
ngày càng nhiều và đạt được kết quả cao, thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập,
học từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để có sự biến đổi về chất. lOMoAR cPSD| 61432759
5. Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Khi bước chân vào Đại học, có một bộ phận không nhỏ trong sinh viên tự mãn với
những gì đã đạt được, không tiếp tục nỗ lực và phấn đấu vươn lên, sống không có lý
tưởng, hoài bão. Nhưng bên cạnh đó một số sinh viên có ý thức rèn luyện và phấn đấu
học tập để có trình độ tri thức cao nhất. Xét theo quan điểm của triết học, chất thay đổi
sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động đó được thể hiện: Chất mới có thể làm
thay đổi kết cấu quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vật. Khi đã đỗ vào đại học, trở thành
sinh viên chúng ta được tiếp cận những tri thức cao hơn, sâu hơn. Nhiệm vụ của mỗi
sinh viên là phải tiếp tục học hỏi, trau dồi thêm những kiến thức (tích lũy về lượng), trở
thành những giáo viên, nhà quản lý văn hóa, họa sỹ...đóng góp cho xã hội, tránh tinh
thần thỏa mãn với những gì đã đạt được.
Trong quá trình học tập, sinh viên phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết quả tốt của các
kỳ thi đánh dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu cho ta sang một giai đoạn
mới đòi hỏi chúng ta có một trình độ cao hơn, lượng kiến thức nhiều hơn, chính vì vậy,
mỗi sinh viên cần phải không ngừng học tập phấn đấu để tiếp cận những tri thức mới ở
trình độ cao hơn. Nó giúp chúng ta tránh được tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong học tập rèn luyện.
6. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính
cách, gieo tính cách găp số phận” câu nói đó có ý nghĩa triết học của nó. Đó là quy luật
lượng- chất trong triết học, rõ ràng là, những thói quen mà chúng ta đang có được hình
thành từ sự tích lũy của nhiều hành vi được lặp đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày,
nhiều học thói hư như thế đến lượt nó lại quyết định đến tính cách của chúng ta, và số
phận của mỗi con người phụ thuộc vào tính cách của họ. Khi tích lũy hành vi (lượng)
dần dần sẽ tạo nên thói quen (chất), sinh viên cần rèn luyện cho mình tính chăm chỉ, tự
chủ năng động trong quá trình học tập, tích lũy tri thức giản đơn nhất từ những thói quen hàng ngày.
Trong cuộc sống cũng như trong quá trình học tập sinh viên phải rèn luyện hàng ngày
để hình thành những thói quen học tập, rèn luyện tốt, như: phải biết tiết kiệm thời gian,
làm việc nghiêm túc và khoa học,....tích lũy nhiều thói quen như vậy sẽ góp phần hình
thành nên tính cách, giúp chúng ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
7. Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên.
Một tập thể bao gồm nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân có phẩm chất tốt “lượng” sẽ góp
phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong lớp có nhiều cá
nhân có ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để phấn đấu đạt được thành tích cao. Một lớp
đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Có thể nói uy tín, thành tích
của một lớp phụ thuộc vào sự phấn đấu nỗ lực của mỗi sinh viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và
chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc học tập và lOMoAR cPSD| 61432759
rèn luyện của sinh viên trường Đại học hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống nhất
biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm
thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải
tích lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước
nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất. Những việc làm vĩ đại của con, bao
giờ cũng tổng hợp những việc làm bình thường, vì vậy mỗi sinh viên phải luôn tích cực
học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn luyện của mình cả đức và tài, để trở
thành một con người phát triển toàn diện, tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội mà không
chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Cũng như trong hoạt động của mình ông cha thường
có câu: “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”...đó sao. PHẦN KẾT LUẬN
Chung quy lại, việc hiểu rõ và vận dụng các quy luật lượng chất vào quá trình học
tập, nghiên cứu và phát triển của học sinh – sinh viên là rất cần thiết và quan trọng.
Chúng không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ tác động qua lại của hai
phạm trù “chất” và “lượng”, mà từ đó ta có thể vận dụng mối quan hệ giữa sự thay đổi
về lượng và sự thay đổi về chất để áp dụng vào thực tiên như các ví dụ đã nói trên. Vậy
sinh viên cần phải làm gì và làm như thế nào để áp dụng một cách hiệu quả nhất? Sinh
viên cần xác định rõ mục tiêu, định hướng đúng đắn trong học tập và làm việc, hiểu rõ
và vận dụng tốt các quy luật “khi lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”. Ngoài ra
việc thay đổi môi trường từ THPT lên Đại học cũng có nhiều sự khác nhau, để không bị
mất phương hướng trong việc học, sinh viên cũng cần phải có tính tự chủ, chủ động
thích nghi với môi trường, liên tục phấn đấu và rèn luyện tích cực trong học tập và công lOMoAR cPSD| 61432759
việc, không ngừng tích luỹ kinh nghiệm để có thể thành công hơn trong tương lai. Ngoài
ra, “lượng” không chỉ là những kiến thức mà sinh viên học trên ghế nhà trường, mà đó
còn là những kỹ năng cần thiết như “kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình, đàm phán,…”
và khả năng linh hoạt hoà nhập với môi trường khác nhau. Vì thế, trong quá trình học
tập, sinh viên cũng cần phải hài hoà, phối hợp giữa kiến thức và kĩ năng để có thể tăng
những tích luỹ về “lượng” mà các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm. Bởi vậy, ta lại càng
thấy rõ hơn được tầm quan trọng và sự tác động qua lại của quy luật “lượng” – “chất”,
từ đó sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc trang bị cho mình những chuyên môn kiến
thức và kĩ năng cần thiết và đó cũng là tiền đề, bước chân đầu tiên để phát triển sự nghiệp sau này. lOMoAR cPSD| 61432759
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học hệ
không chuyên lý luận chính trị), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học, 3 quyển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (Dùng trong đào tạo Thạc sỹ, Tiến sỹ
các ngành KHXH và NV không chuyên ngành Triết học), NXB Đại học Sư phạm Hà Nội,Hà Nội, 2014.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–
Lênin-phần thứ nhất, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.
5. Phạm Văn Đức, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, 2019.
6. Vận dụng quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại vào
quá trình học tập của sinh viên hiện nay ,http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuutrao-
doi/van-dung-quy-luat-tu-su-thay-doi-ve-luong-dan-den-thay-doi-ve-chat-vanguoc-
lai-vao-qua-trinh-hoc-tap-cua-sinh-vien-hien-nay-505.html,2022
7. Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất? Cho ví dụ? https://hocluat.vn/quan-hebien-
chung-giua-luong-va-chat/,2022
8. Hướng dẫn học, ôn thi: Quy luật lượng – chất, https://www.youtube.com/watch?
v=xu9CugMycy4&t=2057s,2021