lOMoARcPSD| 48541417
Câu 12: : Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin giữa tất nhiên và ngẫu nhiên?
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên? Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu này.
* Khái niệm
-Tất nhiên là một phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong
của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định thì nó phải xảy ra
như thế chứ không thể khác được
- Ngược lại với phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên lại là cái không do mối liên hệ bản
chất, bên trong kết cấu vật chất, sự vật quyết định mà lại do các nhân tố bên ngoài, do
sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện có
thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc có thể xuất hiện như thế
khác.v.v..
*Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên luôn có một mối quan hệ với nhau. Và quan hệ đó được
thể hiện ở những điểm sau:
- Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định
đối với sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất nhiên đóng
vai trò quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình vận động không phải chỉ có tất nhiên
mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên cũng đóng góp một phần
đáng kể. Nếu mà cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái
ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự vật diễn ra nhanh hay chậm.
-Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất biện chứng với nhau.
Không có cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Cái tất nhiên bao giờ cũng
vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn ngẫu nhiên là hình thức
biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung cho tất nhiên.
¬-Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà
thương xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng có thể
chuyển hóa cho nhau *Ý nghĩa phương pháp luận
Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng với mối quan hgiữa chúng không chỉ góp phần xây
dựng lên phép biện chứng duy vật mà nó còn có ý nghĩa đưa lại cho chúng ta bài học
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống hàng ngày:
Một là, trong hoạt động tư duy và thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không
phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản chất của sự vật, cái
nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn
với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không.
Câu 13 Quan điểm của chủ nghĩa Mác về bản chất và hiện tượng ? Phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng ?
Rút ra ý nghĩa, phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này.
lOMoARcPSD| 48541417
Theo chủ nghĩa Marc Lenin thì quan điểm duy tâm không thừa nhận hoặc không
hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, họ cho rằng, bản chất
không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn
hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những cảm giác của con người, chỉ
tồn tại trong chủ quan con người.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện tượng có mối
quan hệ biện chứng như sau:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có nhận
thức được hay không
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham
gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những
mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của
sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở
bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên
hiện tượng cũng tồn tại khách quan. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ,
gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
-Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất k bản chất nào cũng được bộc
lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng
là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào tồn tại
một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng
nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Bản chất khác nhau sẽ
bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản
chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự
vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta
lOMoARcPSD| 48541417
có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của
những hiện tượng ấy.
Ý nghĩa
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài
mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức
đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô
hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”.
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải vạch ra
được bản chất của sự vật.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện
tượng.
Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm
ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó. Khi kết luận
về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
Câu 14 Quan điểm chủ nghĩa Mac về vị trí , vai trò của quy luật lượng chất ? Nội
dung quy luật biến hóa từ sự biến đổi về lượng dẫn đén những biến đổi về chất
và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này
Vị trí,Vai trò
Theo quan điểm của triết học Mac Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng trên trái đất đều
tồn tại hai vật là mặt chất và mặt lượng, trong đó:
Chất là một phạm trù của triết học, dùng để xác định tính quy luật khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng. Hiểu một cách đơn giản thì đó là sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính, những yếu tố cấu thành lên sự vật, hiện tượng.
Thông qua đó mà nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì? Các đặc điểm để phân biệt
với các sự vật, hiện tượng khác.
Theo triết học Mac Lênin thì chất được coi là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do
những thuộc tính hay những yếu tố khác cấu thành quy định. Và theo đó, mỗi sự vật
thì đều có rất nhiều các thuộc tính, trong mỗi thuộc tính thì lại biểu hiện ra một chất
khác nhau của sự vật.
Lượng cũng vậy, nó cũng được xác định là một phạm trù của triết học dùng để xác
định tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô cũng như là trình độ
của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính khác của sự vật khác.
NỘI DUNG
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cùng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay
đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về ehất của sự vật, hiện tượng.
lOMoARcPSD| 48541417
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.
Khi lượng thay đổi đền một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi
về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điếm nút, với
những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là
bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định
bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và
chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, V.V..
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát
triển liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong thế giới luôn luôn diễn ra quá trình biến
đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận. thể hiện
cách thức vận động và phát triển cùa sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát
tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ
chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất".
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới
lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra
những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo
thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất đem đến hai ý nghĩa cơ bản sau
đây.
Ý nghĩa trong nhận thức
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận
thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú
hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới
hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và
điểm nút);
lOMoARcPSD| 48541417
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau :
Thứ nhất, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ lực
để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không
muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
+ Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới
hạn độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải
được thực hiện một cách cẩn thận.
Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện
bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để
tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn
đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu.
Nói chung, từ quy luật lượng chất, ta hiểu được mọi sự vật đều vận động và phát triển
nhưng cần thời gian và sự tác động từ bên ngoài, từ đó chúng ta biết cách để bố trí
thời gian và nỗ lực hợp lý cho bất cứ một kế hoạch nào đó đã được bản thân đặt mục
tiêu.
Câu 15 Quan điểm của chủ nghĩa Mac về vị trí vai trò của quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập?phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập ? ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này Nội dung
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập, trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các
mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng
buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh
lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ những xung khắc, đối chọi
lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến
một mức nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung
đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển
Kể từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dụng, các mức xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nề
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì
trong một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là
các đối lập với nền kinh tế thị trường.
lOMoARcPSD| 48541417
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng
nhanh chóng bãi bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh
tế, xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn còn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
Thứ ba: tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt dối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
:Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả sự vật, hiện tượng đó lại luôn tồn tại mối
liên hệ phổ biến với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính
khách quan vì cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên
nó có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực
khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật hiện tượng không chỉ có một mức độ nào đó thì
mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đạt đến một mức độ nào đó thì mâu
thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra
đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận động và phát
triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kì quá độ là nền kinh tế thị trường vận động theo
cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều
thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì có thể giữ vững
được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp, nhất là
đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý của nhà
nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường đang ở giai đoạn mới hình thành
nên còn đang thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn tới môi trường sản xuất, kinh doanh
thiếu ổn định, an toàn. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương diện
kinh tế - xã hội dường như đang rất phổ biên, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền
kinh tế nước ta. Do đó, quá trình chuyển hóa này vấp phải khá nhiều mâu thuẫn nội
tại.
Ý nghĩa
-Vì sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập cho nên nhận thức sự vật là nhận thức
mâu thuẫn của sự vật
- Thống nhất là tương đối tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối, do đó phải đấu tranh n
thế nào để có thể thống nhất mới cao hơn. Chống hai khuynh hướng tả và hữu, tả
khuynh tàn phá tiêu cực, hữu khuynh là ngại đấu tranh.
lOMoARcPSD| 48541417
- Các hình thức đấu tranh cũng rất đa dạng phong phú, cho nên chúng ta phải phân
tích mâu thuẫn, phân tích các mặt đối lập, phân biệt các mâu thuẫn để tìm ra các giải
pháp phù hợp.
-Con đường đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn, đây là con đường duy nhất, đúng đắn
và đây cũng là lẽ sống.
Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiên tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu
nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên và khi dựa vào cái tất
nhiên thì ta cũng phải chú ý đến cái ngẫu nhiên
Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hóa lẫn
nhau. Vì vậy, ta cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự
chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất đinh, phù hợp với mong muốn của chúng
ta.
Câu 16. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-nin về phủ định biện chứng, Phân tích
nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của quy
luật này?
Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện
cho sự phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay
thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật,
hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện
tượng; là “mắt xích” trong “sợi dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng
mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định:
- Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do
mâu thuẫn bên trong của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu
tranh và chuyển hóa giữa những mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. Phủ định lần thứ
nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó;
phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội
dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ, nhưng cũng đã mang không ít nội dung đối
lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời
do phủ định của phủ định) sẽ lại trở về sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định
lần nào), nhưng về nội dung, không phải trở lại chúng giống y như cũ, mà chỉ dường
như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ sở cao hơn.
- Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển có thể nhiều hơn hai, tùy
theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải qua hai lần mới
dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, hoàn thành được một chu k phát triển.
- Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối liên hệ, sự kế thừa thông
qua khâu trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do có kế thừa nên phủ định
biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát triển, nó
lưu giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của
lOMoARcPSD| 48541417
cái ban đầu trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không
hẳn theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc.
Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật,
hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển
+ Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá
trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có
những bước thụt lùi.
+ Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới ra đời
phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. .
+ Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời
gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện
tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật.
Câu 17. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-nin về thực tiễn. Phân tích vai trò của
thực tiễn đối với quá trình nhận thức của con người? Ý nghĩa phương pháp
luận?
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật
chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức :
Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan,
buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức :
Những tri thức con người đạt được trong quá trình nhận thức phải áp dụng vào hiện
thực và cải tạo hiện thực, sự áp dụng đó thông qua thực tiễn. Đó là sự vật chất hóa
những quy luật, tính tất yếu đã nhận thức được. Do đó, thực tiễn là mục đích chung
của các ngành khoa học.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức :
Những tri thức mới, thông qua nhận thức con người có được, để kiểm tra tính
đúng đắn của nó, phải dựa vào thực tiễn. Thực tiễn chính là thước đo giá trị những tri
thức mới đó, đồng thời thực tiễn bổ sung, điều chỉnh,sửa chữa, phát triển và hoàn
thiện nhận thức.
-Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
lOMoARcPSD| 48541417
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác nin đã khẳng định: vấn đề tìm
hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý.
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện
chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để
kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nhờ có thực tiễn mà bản chất của nhận thức được làm rõ, thực tiễn là cơ sở
động lực mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý cho nên mọi nhận thức
đều xuất phát từ thực tiễn.
- Phải thường xuyên quán triệt những quan điểm thực tiễn luôn đi sâu đi sát thực
tiễn tiến hành nghiên cứu tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc để rút ra những kết
luận góp phần bổ sung hoàn thiện phát triển nhận thức lý luận.
- Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh
khỏi những chủ quan sai lầm như chủ nghĩa chủ quan, giáo điều bảo thủ, CN tương
đối.
Câu 18. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-nin về bản chất của nhận thức. Trình
bày quá trình nhận thức của con người? Phân tích mối quan hệ biện chứng của
quá trình nhận thức? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người, một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá trình tác
động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 giai
đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.
Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc
tính bên ngoài thông qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình
nhận thức. Đây là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử
dụng các giác quan để tác động vào sự vật, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc ấy.
Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của
các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi
sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người
lOMoARcPSD| 48541417
Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự
vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các
giác quan.
Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính
• Nhận thức lý tính hay còn gọi là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong,
bản chất của sự việc) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật,
được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. Các hình thức
của nhận thức lý tính bao gồm:
Khái niệm: là hình thc cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản
chất của sự vật.
Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Theo trình độ
phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất
(ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ
biến ( ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện ).
Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới
• Đặc điểm của nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện
tượng đồng thời cũng là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ
Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính càng phong phú đa dạng thì nhận thức lý tính càng sâu sắc.
Nhận thức lý tính càng sâu sắc thì nhận thức cảm tính càng nhạy bén.
- Đây là hai giai đoạn khác nhau của quá trình nhận thức nhưng chúng thống nhất với
nhau trong hoạt động nhận thức.
+ Nhận thức cảm tính đem lại cho con người những tri thức phong phú, đa dạng, sinh
động, trực tiếp, cụ thể của sự vật. Không có nhận thức cảm tính thì không thể có nhận
thức lý tính. Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề cho nhận thức lý tính
+ Nhận thức lý tính giúp cho nhận thức con người hiểu sâu sắc sự vật hơn, hiểu sự vật
đầy đủ hơn, đúng đắn bản chất sự vật hơn. Do vậy, cần phải chống chủ nghĩa duy cảm
(tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính) cũng như tuyệt đối hoá chủ nghĩa duy lý (tuyệt đối
hoá nhận thức lý tính).
Lưu ý: cả hai giai đoạn nhận thức này đều phải dựa trên cơ sở thực tiễn, lấy thực tiễn
làm tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng, sai của nhận thức.
Ý nghĩa:
lOMoARcPSD| 48541417
Từ sự nghiên cứu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chúng ta cần luôn
luôn quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động. Nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Học đi đôi với hành, lý
thuyết đi liền với thực hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới chủ quan, duy ý chí, giáo
điều máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào
chủ nghĩa thực dụng.
Câu 19 : quan điểm chủ nghĩa Mác -Lênin về Chân lý? Phân tích các tính chất và
tiêu chuẩn về chân lý? Ý nghĩa vấn đề nghiên cứu.
1.Quan điểm chủ nghĩa Mác –Lênin về chân lý:
1.1 Chân lý là một vấn đề được đề cập trong lịch sử triết học , tuy nhiên
chưa có đại biểu triết học nào trước và ngoài triết học duy vật biện chứng có
quan niệm hoàn chỉnh , đúng đắn về chân lý
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin , chân lý là tri thức phù hợp với hiện thực
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm . Chân lý phải được hiểu như một quá
trình , bởi lẽ bản thân sự vật có quá trình vân động , biến đổi , phát triển và sự nhận
thức về nó cũng phải được vận động , biến đổi , phát triển
=>Vì vậy nhận thức chân lý cũng là cả một quá trình
Khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng nhất
với khái niệm giả thuyết; đồng thời, chân lý cũng là một quá trình: “tư tưởng con
người không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức
tranh đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động
1.2 Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là
phải đạt đến chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện
thực khách quan; nhưng không phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận
thức đúng về hiện thực khách quan.
1.3 Chân lý cũng không phải bản thân hiện thực khách quan nói chung,
chỉ là hiện thực khách quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con
người. Không thể có chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách trừu
tượng thuần túy ở trong hiện thực khách quan như quan điểm của triết học duy
tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng cho rằng chân lý thuộc về số
đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận, hoặc nó thuộc về những
người có quyền lực, người giàu có v.v…
2.Các tính chất và tiêu chuẩn của chân lý
2.1 Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.
a.Tính khách quan
lOMoARcPSD| 48541417
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý
chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách
quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng
đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của
con người hoặc có sẵn trong nhận thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách
quan, do thế giới khách quan qui định.
=>Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân
biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm
Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là
ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời”.” là phù hợp với thực tế khách quan; nó không
phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có từ trước b.Tính tuyệt đối và tính
tương đối
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt
đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiên
tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá
trình phát triển là vô hạn.
Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác
nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian
của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.
Ví dụ, tính tuyệt đối của chân lý: trong mặt phẳng có độ cong bằng không thì tổng
các góc trong tam giác tuyệt đối bằng hai góc vuông; tính tương đối của chân lý: nếu
điều kiện thay đổi độ cong khác không thì định lý đó không còn đúng nữa
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh.
Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt
được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó
trong những điều kiện nhất định.
=>Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự
thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý
tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng
những yếu tố của tính tuyệt đối
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính
tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục
những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động.
- Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi
vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ.
lOMoARcPSD| 48541417
- Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính
tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ
nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri.
Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản
chất của ánh sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ
sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất
lưỡng tính là sóng và hạt c.Tính cụ thể
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với
một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có
nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định
Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn
gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian hay một
hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện
cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu
tượng thuần túy.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem
xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử
cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những lý luận
chung cho phù hợp.
Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình
hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của
quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định
Ví dụ, mọi nhà khoa học khi phát biểu định lý đều kèm theo các điều kiện xác định
nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc
trong của một tam giác là 2 vuông; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất
và áp suất 1 atmotphe,
2.2 Các tiêu chuẩn của chân lý
. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn
Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Chỉ nhờ vào thực tiễn và trên cơ
sở thực tiễn ta mới phân biệt được chân lý và sai lầm.
Thực tiễn có vai trò như vậy vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là hiện
thực trực tiếp. Nhờ đó, thực tiễn có thể “vật chất hóa” được tri thức, biến tri thức
thành những khách thể xác định, cảm tính trong thế giới khách quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt
đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất. Tương đối vì thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát
triển, do đó cần có sự bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.
3.Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
lOMoARcPSD| 48541417
-Chân lý là nhận thức đúng đắn của con người về một vấn đề bất kỳ nào đó. Chân lý
nào cũng đều tương đối vì sẽ bị thay thế bằng chân lý khác đúng đắn hơn. Chân lý nào
cũng có tính tương đối. Tính tương đối của chân lý bị quy định bởi sự hạn chế của chủ
thể nhận thức, cụ thể bởi hạn chế của phương tiện nhận thức và thực tiễn của xã hội,
vào giác quan, bộ não, tri thức, tình cảm, ngôn ngữ của con người.
-Chân lý là mục đích của hoạt động nhận thức của con người. Chân lý cần được
xem xét theo quan điểm biện chứng. Nếu không xem xét chân lý theo quan điểm biện
chứng thì chúng ta sẽ thỏa mãn với kết quả nhận thức hiện có mà không tiếp tục bổ
sung và phát triển kết quả nhận thức đó
lOMoARcPSD| 48541417

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48541417
Câu 12: : Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin giữa tất nhiên và ngẫu nhiên?
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên? Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu này.
* Khái niệm
-Tất nhiên là một phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong
của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định thì nó phải xảy ra
như thế chứ không thể khác được
- Ngược lại với phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên lại là cái không do mối liên hệ bản
chất, bên trong kết cấu vật chất, sự vật quyết định mà lại do các nhân tố bên ngoài, do
sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện có
thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc có thể xuất hiện như thế khác.v.v..
*Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên luôn có một mối quan hệ với nhau. Và quan hệ đó được
thể hiện ở những điểm sau:
- Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định
đối với sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất nhiên đóng
vai trò quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình vận động không phải chỉ có tất nhiên
mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên cũng đóng góp một phần
đáng kể. Nếu mà cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái
ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự vật diễn ra nhanh hay chậm.
-Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất biện chứng với nhau.
Không có cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Cái tất nhiên bao giờ cũng
vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn ngẫu nhiên là hình thức
biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung cho tất nhiên.
¬-Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà
thương xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng có thể
chuyển hóa cho nhau *Ý nghĩa phương pháp luận
Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng với mối quan hệ giữa chúng không chỉ góp phần xây
dựng lên phép biện chứng duy vật mà nó còn có ý nghĩa đưa lại cho chúng ta bài học
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống hàng ngày:
Một là, trong hoạt động tư duy và thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không
phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản chất của sự vật, cái
nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn
với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không.
Câu 13 Quan điểm của chủ nghĩa Mác về bản chất và hiện tượng ? Phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng ?
Rút ra ý nghĩa, phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này. lOMoAR cPSD| 48541417
Theo chủ nghĩa Marc – Lenin thì quan điểm duy tâm không thừa nhận hoặc không
hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, họ cho rằng, bản chất
không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn
hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những cảm giác của con người, chỉ
tồn tại trong chủ quan con người.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện tượng có mối
quan hệ biện chứng như sau:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có nhận thức được hay không
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham
gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những
mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở
bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên
hiện tượng cũng tồn tại khách quan. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ,
gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
-Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc
lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng
là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào tồn tại
một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng
nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Bản chất khác nhau sẽ
bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản
chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi. –
Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự
vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta lOMoAR cPSD| 48541417
có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy. Ý nghĩa
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài
mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức
đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô
hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”.
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải vạch ra
được bản chất của sự vật.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng. –
Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm
ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó. Khi kết luận
về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
Câu 14 Quan điểm chủ nghĩa Mac về vị trí , vai trò của quy luật lượng chất ? Nội
dung quy luật biến hóa từ sự biến đổi về lượng dẫn đén những biến đổi về chất
và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này
Vị trí,Vai trò
Theo quan điểm của triết học Mac – Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng trên trái đất đều
tồn tại hai vật là mặt chất và mặt lượng, trong đó:
Chất là một phạm trù của triết học, dùng để xác định tính quy luật khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng. Hiểu một cách đơn giản thì đó là sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính, những yếu tố cấu thành lên sự vật, hiện tượng.
Thông qua đó mà nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì? Các đặc điểm để phân biệt nó
với các sự vật, hiện tượng khác.
Theo triết học Mac – Lênin thì chất được coi là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do
những thuộc tính hay những yếu tố khác cấu thành quy định. Và theo đó, mỗi sự vật
thì đều có rất nhiều các thuộc tính, trong mỗi thuộc tính thì lại biểu hiện ra một chất khác nhau của sự vật.
Lượng cũng vậy, nó cũng được xác định là một phạm trù của triết học dùng để xác
định tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô cũng như là trình độ
của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính khác của sự vật khác. NỘI DUNG
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cùng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay
đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về ehất của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 48541417
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.
Khi lượng thay đổi đền một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi
về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điếm nút, với
những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là
bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định
bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và
chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, V.V..
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát
triển liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong thế giới luôn luôn diễn ra quá trình biến
đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận. thể hiện
cách thức vận động và phát triển cùa sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát
tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ
chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất".
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới
lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra
những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo
thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất đem đến hai ý nghĩa cơ bản sau đây. Ý nghĩa trong nhận thức
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận
thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú
hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới
hạn độ, điểm nút, bước nhảy. Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút); lOMoAR cPSD| 48541417
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau :
Thứ nhất, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ lực
để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không
muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
+ Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải
được thực hiện một cách cẩn thận.
Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện
bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để
tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn
đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu.
Nói chung, từ quy luật lượng chất, ta hiểu được mọi sự vật đều vận động và phát triển
nhưng cần thời gian và sự tác động từ bên ngoài, từ đó chúng ta biết cách để bố trí
thời gian và nỗ lực hợp lý cho bất cứ một kế hoạch nào đó đã được bản thân đặt mục tiêu.
Câu 15 Quan điểm của chủ nghĩa Mac về vị trí vai trò của quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập?phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập ? ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này
Nội dung
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập, trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các
mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng
buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ những xung khắc, đối chọi
lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến
một mức nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung
đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển
Kể từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dụng, các mức xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nề
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì
trong một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là
các đối lập với nền kinh tế thị trường. lOMoAR cPSD| 48541417
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng
nhanh chóng bãi bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh
tế, xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn còn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
Thứ ba: tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt dối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
:Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả sự vật, hiện tượng đó lại luôn tồn tại mối
liên hệ phổ biến với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính
khách quan vì cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên
nó có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực
khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật hiện tượng không chỉ có một mức độ nào đó thì
mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đạt đến một mức độ nào đó thì mâu
thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra
đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kì quá độ là nền kinh tế thị trường vận động theo
cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều
thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì có thể giữ vững
được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp, nhất là
đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý của nhà
nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường đang ở giai đoạn mới hình thành
nên còn đang thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn tới môi trường sản xuất, kinh doanh
thiếu ổn định, an toàn. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương diện
kinh tế - xã hội dường như đang rất phổ biên, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền
kinh tế nước ta. Do đó, quá trình chuyển hóa này vấp phải khá nhiều mâu thuẫn nội tại. Ý nghĩa
-Vì sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập cho nên nhận thức sự vật là nhận thức mâu thuẫn của sự vật
- Thống nhất là tương đối tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối, do đó phải đấu tranh như
thế nào để có thể thống nhất mới cao hơn. Chống hai khuynh hướng tả và hữu, tả
khuynh tàn phá tiêu cực, hữu khuynh là ngại đấu tranh. lOMoAR cPSD| 48541417
- Các hình thức đấu tranh cũng rất đa dạng phong phú, cho nên chúng ta phải phân
tích mâu thuẫn, phân tích các mặt đối lập, phân biệt các mâu thuẫn để tìm ra các giải pháp phù hợp.
-Con đường đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn, đây là con đường duy nhất, đúng đắn
và đây cũng là lẽ sống.
Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiên tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu
nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên và khi dựa vào cái tất
nhiên thì ta cũng phải chú ý đến cái ngẫu nhiên
Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hóa lẫn
nhau. Vì vậy, ta cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự
chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất đinh, phù hợp với mong muốn của chúng ta.
Câu 16. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phủ định biện chứng, Phân tích
nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
• Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện
cho sự phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay
thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật,
hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện
tượng; là “mắt xích” trong “sợi dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng
mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
• Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định: -
Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do
mâu thuẫn bên trong của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu
tranh và chuyển hóa giữa những mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. Phủ định lần thứ
nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó;
phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội
dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ, nhưng cũng đã mang không ít nội dung đối
lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời
do phủ định của phủ định) sẽ lại trở về sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định
lần nào), nhưng về nội dung, không phải trở lại chúng giống y như cũ, mà chỉ dường
như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ sở cao hơn. -
Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển có thể nhiều hơn hai, tùy
theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải qua hai lần mới
dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, hoàn thành được một chu kỳ phát triển. -
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối liên hệ, sự kế thừa thông
qua khâu trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do có kế thừa nên phủ định
biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát triển, nó
lưu giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của lOMoAR cPSD| 48541417
cái ban đầu trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không
hẳn theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc.
• Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật,
hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển
+ Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá
trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi.
+ Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới ra đời
phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. .
+ Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời
gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện
tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật.
Câu 17. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn. Phân tích vai trò của
thực tiễn đối với quá trình nhận thức của con người? Ý nghĩa phương pháp luận?
• Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật
chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
• Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức :
✓ Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan,
buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức :
✓ Những tri thức con người đạt được trong quá trình nhận thức phải áp dụng vào hiện
thực và cải tạo hiện thực, sự áp dụng đó thông qua thực tiễn. Đó là sự vật chất hóa
những quy luật, tính tất yếu đã nhận thức được. Do đó, thực tiễn là mục đích chung của các ngành khoa học.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức : ✓
Những tri thức mới, thông qua nhận thức con người có được, để kiểm tra tính
đúng đắn của nó, phải dựa vào thực tiễn. Thực tiễn chính là thước đo giá trị những tri
thức mới đó, đồng thời thực tiễn bổ sung, điều chỉnh,sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
-Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: lOMoAR cPSD| 48541417 ✓
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm
hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý. ✓
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện
chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối: ✓
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để
kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
Ý nghĩa phương pháp luận: -
Nhờ có thực tiễn mà bản chất của nhận thức được làm rõ, thực tiễn là cơ sở
động lực mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý cho nên mọi nhận thức
đều xuất phát từ thực tiễn. -
Phải thường xuyên quán triệt những quan điểm thực tiễn luôn đi sâu đi sát thực
tiễn tiến hành nghiên cứu tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc để rút ra những kết
luận góp phần bổ sung hoàn thiện phát triển nhận thức lý luận. -
Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh
khỏi những chủ quan sai lầm như chủ nghĩa chủ quan, giáo điều bảo thủ, CN tương đối.
Câu 18. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của nhận thức. Trình
bày quá trình nhận thức của con người? Phân tích mối quan hệ biện chứng của
quá trình nhận thức? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?

• Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người, một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá trình tác
động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
• Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 giai
đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.
• Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính
• Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc
tính bên ngoài thông qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình
nhận thức. Đây là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử
dụng các giác quan để tác động vào sự vật, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc ấy.
Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau: –
Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của
các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. –
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi
sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người lOMoAR cPSD| 48541417 –
Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự
vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan.
Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính
• Nhận thức lý tính hay còn gọi là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong,
bản chất của sự việc) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật,
được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. Các hình thức
của nhận thức lý tính bao gồm:
–Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. –
Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Theo trình độ
phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất
(ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ
biến ( ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện ). –
Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới
• Đặc điểm của nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện
tượng đồng thời cũng là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng. ● Mối quan hệ
Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính càng phong phú đa dạng thì nhận thức lý tính càng sâu sắc.
Nhận thức lý tính càng sâu sắc thì nhận thức cảm tính càng nhạy bén.
- Đây là hai giai đoạn khác nhau của quá trình nhận thức nhưng chúng thống nhất với
nhau trong hoạt động nhận thức.
+ Nhận thức cảm tính đem lại cho con người những tri thức phong phú, đa dạng, sinh
động, trực tiếp, cụ thể của sự vật. Không có nhận thức cảm tính thì không thể có nhận
thức lý tính. Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề cho nhận thức lý tính
+ Nhận thức lý tính giúp cho nhận thức con người hiểu sâu sắc sự vật hơn, hiểu sự vật
đầy đủ hơn, đúng đắn bản chất sự vật hơn. Do vậy, cần phải chống chủ nghĩa duy cảm
(tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính) cũng như tuyệt đối hoá chủ nghĩa duy lý (tuyệt đối
hoá nhận thức lý tính).
Lưu ý: cả hai giai đoạn nhận thức này đều phải dựa trên cơ sở thực tiễn, lấy thực tiễn
làm tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng, sai của nhận thức. ● Ý nghĩa: lOMoAR cPSD| 48541417 •
Từ sự nghiên cứu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chúng ta cần luôn
luôn quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động. Nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. •
Việc nghiên cứu lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Học đi đôi với hành, lý
thuyết đi liền với thực hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới chủ quan, duy ý chí, giáo
điều máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
Câu 19 : quan điểm chủ nghĩa Mác -Lênin về Chân lý? Phân tích các tính chất và
tiêu chuẩn về chân lý? Ý nghĩa vấn đề nghiên cứu.
1.Quan điểm chủ nghĩa Mác –Lênin về chân lý: 1.1
Chân lý là một vấn đề được đề cập trong lịch sử triết học , tuy nhiên
chưa có đại biểu triết học nào trước và ngoài triết học duy vật biện chứng có
quan niệm hoàn chỉnh , đúng đắn về chân lý
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin , chân lý là tri thức phù hợp với hiện thực
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm . Chân lý phải được hiểu như một quá
trình , bởi lẽ bản thân sự vật có quá trình vân động , biến đổi , phát triển và sự nhận
thức về nó cũng phải được vận động , biến đổi , phát triển
=>Vì vậy nhận thức chân lý cũng là cả một quá trình
Khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng nhất
với khái niệm giả thuyết; đồng thời, chân lý cũng là một quá trình: “tư tưởng con
người không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức
tranh đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động 1.2
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là
phải đạt đến chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện
thực khách quan; nhưng không phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận
thức đúng về hiện thực khách quan. 1.3
Chân lý cũng không phải bản thân hiện thực khách quan nói chung, mà
chỉ là hiện thực khách quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con
người. Không thể có chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách trừu
tượng thuần túy ở trong hiện thực khách quan như quan điểm của triết học duy
tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng cho rằng chân lý thuộc về số
đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận, hoặc nó thuộc về những
người có quyền lực, người giàu có v.v…
2.Các tính chất và tiêu chuẩn của chân lý
2.1 Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. a.Tính khách quan lOMoAR cPSD| 48541417
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý
chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách
quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng
đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của
con người hoặc có sẵn trong nhận thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách
quan, do thế giới khách quan qui định.
=>Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân
biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm
Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là
ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời”.” là phù hợp với thực tế khách quan; nó không
phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có từ trước b.Tính tuyệt đối và tính tương đối
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt
đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiên
tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá
trình phát triển là vô hạn.
Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác
nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian
của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.
Ví dụ, tính tuyệt đối của chân lý: trong mặt phẳng có độ cong bằng không thì tổng
các góc trong tam giác tuyệt đối bằng hai góc vuông; tính tương đối của chân lý: nếu
điều kiện thay đổi độ cong khác không thì định lý đó không còn đúng nữa
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh.
Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt
được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó
trong những điều kiện nhất định.
=>Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự
thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý
tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng
những yếu tố của tính tuyệt đối
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính
tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục
những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. -
Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi
vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. lOMoAR cPSD| 48541417 -
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính
tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ
nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri.
Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản
chất của ánh sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ
sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất
lưỡng tính là sóng và hạt c.Tính cụ thể
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với
một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có
nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định
Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn
gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian hay một
hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện
cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem
xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử
– cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những lý luận chung cho phù hợp.
Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình
hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của
quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định
Ví dụ, mọi nhà khoa học khi phát biểu định lý đều kèm theo các điều kiện xác định
nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc
trong của một tam giác là 2 vuông; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,
2.2 Các tiêu chuẩn của chân lý
. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn –
Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Chỉ nhờ vào thực tiễn và trên cơ
sở thực tiễn ta mới phân biệt được chân lý và sai lầm. –
Thực tiễn có vai trò như vậy vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là hiện
thực trực tiếp. Nhờ đó, thực tiễn có thể “vật chất hóa” được tri thức, biến tri thức
thành những khách thể xác định, cảm tính trong thế giới khách quan. –
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt
đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất. Tương đối vì thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát
triển, do đó cần có sự bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.
3.Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu lOMoAR cPSD| 48541417
-Chân lý là nhận thức đúng đắn của con người về một vấn đề bất kỳ nào đó. Chân lý
nào cũng đều tương đối vì sẽ bị thay thế bằng chân lý khác đúng đắn hơn. Chân lý nào
cũng có tính tương đối. Tính tương đối của chân lý bị quy định bởi sự hạn chế của chủ
thể nhận thức, cụ thể bởi hạn chế của phương tiện nhận thức và thực tiễn của xã hội,
vào giác quan, bộ não, tri thức, tình cảm, ngôn ngữ của con người.
-Chân lý là mục đích của hoạt động nhận thức của con người. Chân lý cần được
xem xét theo quan điểm biện chứng. Nếu không xem xét chân lý theo quan điểm biện
chứng thì chúng ta sẽ thỏa mãn với kết quả nhận thức hiện có mà không tiếp tục bổ
sung và phát triển kết quả nhận thức đó lOMoAR cPSD| 48541417