Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước và sự vận dụng của nhà nước | Trường Đại học Mở Hà Nội

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước và sự vận dụng của nhà nước | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................2
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước....................................2
1.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước..........................................2
1.1.1 Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa...........................................2
1.1.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa............................................3
1.1.2 Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.........................................6
1.2 Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.................................................6
1.3 Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa....................6
II. Sự vận dụng của Đảng vào việc xây dựng nhà nước dân chủ ở Việt Nam
hiện nay..................................................................................................................8
2.1 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền
CNXH Việt Nam................................................................................................8
2.2 Bản chất và đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam......9
2.3 Cơ sơ nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.......................................10
2.4 Chức năng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.......................10
2.5 Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền.............................................11
2.5.1 Những kết quả đạt được.....................................................................11
2.5.2 Những hạn chế tồn tại.........................................................................11
2.5.3 Nguyên nhân hạn chế còn tồn tại.......................................................12
2.6 Giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
...........................................................................................................................13
2.6.1 Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa.............................................13
2.6.2 Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước..............................14
2.6.3 Xây dựng và hoàn thiện hệ thông pháp luật.....................................15
KẾT LUẬN...........................................................................................19
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề chiến lược
là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy cần làm sáng tỏ về bản chất, nội dung cũng như
những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc
hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Hiện nay, ở Việt Nam, đã có những tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa …,
cho việc bắt đầu xây dựng một nhà nước pháp quyền, nhưng quá trình đó không
thể nóng vội, mà nó là sự nghiệp lâu dài của nhiều thế hệ người Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước
1.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước.
1.1.1 Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chế độ dân chủ ở nước ta được xác lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đến năm 1976, tên nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
nhưng trong các Văn kiện Đảng hầu như chưa sử dụng cụm từ "dân chủ XHCN"
mà thường nêu quan điểm "xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa" gắn
với "chuyên chính vô sản”. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng
chưa được xác định rõ ràng. Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
là thực hiện dân chủ trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như thế
nào cho phù hợp với các đặc điểm kinh tế, xã hội, văn bóa, đạo đức của xã hội Việt
Nam, gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật, kỷ cương cũng chưa được đặt ra một
cách cụ thể, thiết thực. Nhiều lĩnh vực liên quan mật thiết đến dân chû xã hội chủ
nghĩa như dân sinh, dân trí, dần quyền... chưa được đặt đúng vị trí và giải quyết
đúng để thúc đẩy việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước
đã nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
đất nước. Đại hội khẳng định “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động"; Bài học "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" bao giờ cũng rất
quan trọng. Thực tiễn cách mạng chứng minh rằng: ở đâu, nhân dân lao động có ý
thức làm chủ và được làm chủ thực sự, thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng”.
Hơn 30 năm mới đổi, nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của
dân chủ ở nước ta có nhiều điểm mới. Qua mỗi kỳ đại hội của Đảng ký mới, dân
chủ ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn thiện đúng đắn, phù hợp hơn
với điều kiện cụ thể của nước ta.
Trước hết, Đảng khẳng định một trong những đặc trưng của xã hội Việt Nam là
do nhân dân làm chủ. Dân chủ đã được đưa vào mục tiêu tổng quát của cách mạng
Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời khẳng
định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở
mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm ...”
1.1.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Cũng như bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam,
bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng
hộ, giúp đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong xã
hội với tư cách công dân, tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân
là tất cả các quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm chủ.
Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn là của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiên quốc là công việc của nhân dân.
3
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở dân".
Kế thừa tư tưởng dân chủ trong lịch sử và trực tiếp là tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, nhất là trong thời kỳ đối mới, Đảng luôn xác định
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
xã hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ gắn liền với kỷ cương và
phải có chế độ hóa bằng luật, được pháp luật bảo đảm...
Nội dung này được hiểu là: Dân chủ là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa
(dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh).
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa (do nhân dân làm chủ, quyền
lực thuộc về nhân dân).
Dân chủ là động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội (phát huy sức mạnh của
nhân dân, của toàn dân tộc).
Dân chủ gắn với pháp luật (phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương).
Dân chủ phải được thực hiện trong đời sống thực tiễn ở tất cả các cấp, mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện thông qua các
hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do
nhân dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực tiếp
bầu ra. Những con người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm
chủ cho nhân dân. Nhân dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất hoạt động theo nhiệm kỳ 5 năm. Quyền lực nhà nước ta là hệ thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
4
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân bằng hoạt
động trực tiếp của mình thực hiện các quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Hình
thức đó thể hiện ở các quyền được thông tin về hoạt động của nhà nước, được bàn
bạc về công việc của nhà nước và cộng đồng dân cư; được bàn đến những người
quyết định về dân chủ cơ sở, nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước từ Trung ương cho đến cơ sở. Dân chủ ngày càng được thế hiện trong tất
cả các mối quan hệ xã hội, trở thành quy chế, cách thức làm việc của mọi tổ chức
trong xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một yêu cầu tắt yếu là
không ngừng củng cố, hoàn thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thực tiễn xây dựng
đất nước cho thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở các việc bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo hướng ngày càng mở rộng và hoạt động
có hiệu quả. Ý thức làm chủ của nhân dân, trách nhiệm công dân của người dân
trong xã hội ngày càng được đề cao trong pháp luật và cuộc sống. Mọi công dân
đều có quyền tham gia quản lý xã hội bằng nhiều cách khác nhau, tùy theo trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình. Dân chủ công dân gắn liền với kỷ cương của đất
nước, được thể chế hóa bằng luật của nhà nước pháp quyền, trong các nguyên tắc
hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Các quy chế dân chủ từ cơ sở đến Trung ương
và trong các tổ chức chính trị - xã hội đều thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đảng ta khẳng định: "Mọi đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân đân, có sự tham gia ý kiến
của nhân dân”.
Bên cạnh đó, việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra trong
điều kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, lại chịu hậu quả của chiến
tranh tàn phá nặng nề. Cùng với đó là những tiêu cực trong đời sống xã hội chưa
được khắc phục triệt để ... làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ dân chủ
nước ta, làm suy giảm động lực phát triển của đất nước. Mặt khác, âm mưu “diễn
biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền"
5
của các thế lực thù địch, vấn đề tự diễn biến, tự chuyển hóa nảy sinh và diễn biến
hết sức phức tạp đang là trở ngại thay đối với quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, bản chất đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam càng ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Kể từ khí khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho đến nay, nhân dân thực sự trở thành
người làm chủ, tự xây dựng, tổ chức quản lý xã hội. Đây là chế độ bảo đảm quyền
làm chủ trong đời sống của nhân dân từ chính trị, kinh tế cho đến văn hóa, xã hội;
đồng thời phát huy tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.1.2 Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các chức năng đối nội:
Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ các
quyền và lợi ích cơ bản của công dân.
Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của công dân
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa – xã hội
Các chức năng đối ngoại:
Chức năng bảo vệ tổ quốc.
Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước.
1.2 Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quản lý kinh tế
Xây dựng phát triển không ngừng cơ sở vật chất
Quản lý văn hóa xã hội
Giáo dục đào tạo phát triển toàn diện
Chăm sóc sức khỏe nhân dân
Đối nội, đối ngoại mở rộng quan hệ
6
1.3 Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Karl Marx và Friedrich Engels cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa
của con người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân
dân lao động "phá hủy nhà nước tư sản" chiếm lấy chính quyền thiết lập chuyên
chính vô sản. Bởi vì, "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nên chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm vững công
cụ chuyên chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành
một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành
quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết.
Vladimir Ilyich Lenin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của chuyên chính
là trấn áp bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là một giai cấp.
Đồng thời, trong thời kỳ quá độ cũng còn có các giai cấp, tầng lớn trung gian khác
và do địa vị kinh tế - xã hội vốn có, các giai cấp này thường dao động, không thể
tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đỏ, giai cấp công nhân phải tuyên
truyền, thuyết phục, lôi cuốn họ đi theo mình trong công cuộc xây dựng xã hội
mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết bảo đảm
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết
đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm
những giá trị dân chủ chuyên chính của nhân dân, đòi hòi phải có một thiết chế nhà
7
nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải
được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và phát triển thành quả của
dân chủ. Dân chủ cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi
gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời... Các quyền đó
phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những
thiết chế tương ứng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, quá trình xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Quá trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương
không bài trừ và phủ định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là
điều kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, để bảo đảm cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì việc xây dựng và không ngừng
hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa - một trong những công cụ chủ yếu của quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, là một yêu cầu tất yếu khách quan
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
II. Sự vận dụng của Đảng vào việc xây dựng nhà nước dân chủ ở Việt Nam
hiện nay.
2.1 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền CNXH
Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện
được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc,
đặc thù của riêng mình. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành
đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;
gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật”. Như vậy, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc
trưng sau:
8
Thứ nhất, là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
Thứ hai, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Thứ ba, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ,
đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Thứ năm, tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Thứ sáu, được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2.2 Bản chất và đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự
điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải
bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình
đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.
Một là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở một hệ thong pháp luật dân chủ, tiến bộ, phù hợp và khả thi.
Hai là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm vị trí tối thượng của pháp
luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
chủ quyền của nhân dân.
9
Bốn là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm và
bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động theo cơ
chế bảo đảm sự phân công và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước gắn bó mật thiết với xã hội dân sự.
2.3 Cơ sơ nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở chính trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
chế độ dân chủ nhất nguyên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Ba là, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan quyền lực của giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa và của nhân
dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
không khác biệt, không mẫu thuẫn mà thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân
dân lao động khác và của cả dân tộc. Do vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế sâu rộng cần tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí.
2.4 Chức năng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như mọi nhà nước khác
đều thực hiện chức năng vốn có của Nhà nước. Đó là chức năng chính trị (giai cấp)
và chức năng xã hội. Tuy nhiên, do bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, do tình hình, điều kiện mới nên từng chức năng chính trị (giai
cấp) và chức năng xã hội của nó cũng như mối quan hệ giữa hai chức năng này
cũng có sự thay đổi. Chức năng chính trị hòa quện cùng chức năng xã hội và mở
rộng hơn trong các nội dụng kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, v.v.. Chức năng
xã hội cũng được mở rộng hơn so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Hơn
10
nữa, chức năng xã hội ngày càng trở nên quan trọng và chủ yếu. Đồng thời, bảo
đảm sự thống nhất giữa tính giai cấp với tính nhân dân và tính xã hội của Nhà
nước. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Lợi ích của nhân dân thống nhất với lợi ích
toàn xã hội. Do vậy, về nguyên tắc tính giai cấp đồng nhất với tính nhân dân và
tính xã hội. Cũng vì vậy, thực hiện chức năng giai cấp cũng là thực hiện chức năng
bảo vệ nhân dân và thực hiện chức năng xã hội. Đây là điểm khác biệt quan trọng
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà nước pháp quyền tư
sản.
2.5 Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
2.5.1 Những kết quả đạt được.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước đã có một bước điều chỉnh theo qua
trình chuyển từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Vai trò, vị trí và chức
năng nói chung và nhà bộ máy nhà nước nói riêng trong các trong các mói quan hệ
với đời sống kinh tế của đất nước bước đầu được thay đổi phù hợp với điều kiện
đất nước và thế giới hiện nay. Sự này đổi bước đầu với tư duy của công dân, bộ
máy nhà nước, cán bộ công chức dần chuyễn biến từ quyền uy, lảnh đảo, chủ quan,
di ý chí sang phục vụ nhân dân. Cũng chính sự thay đổi mang lại thành tựu to lớn
và có ý nghĩa trong quá trình đổi mới đất nước. Nền kinh tế phát triển nhanh chóng
trong sự tự do thương mại dưới giám sát của nhà nước, Lĩnh vực khoa học công
nghệ trở nên hiện đại hoá, công nghiệp hoá, tạo tiền đề cho sự phát triển của đất
nước. Lĩnh vữc văn hoá xã hội ngày càng theo xu hướng hiện đại hội nhập, tiến bộ.
Ngoại giao ngày càng được đa dạng và mở rộng mới quan hệ với các nước theo
nguyên tắc bình đẳng đa phương cùng có có lợi. Tất cả những yếu tố trên khiến
cho đất nước ngày càng vững bước trên con được phát triển hiện đại hoá công
nghiệp hoá và đậm đà bản sắc dân tộc.
2.5.2 Những hạn chế tồn tại.
Tồn tại chưa chế định ro trong công tác đồng bộ, phân công, phối hợp, kiểm
soát quyền lực của nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của
11
các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước còn chưa thật sự hợp lý. Chưa khắc
phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế.
Hệ thống pháp luật thiếu sự đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng được yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, vẫn cò tồn tại vướng mắt trong công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật, tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế.
Cải cách hành chính còn chậm, kỹ cương kỹ luật trong công tác quản lí còn bất
cập.
Các cơ quan hành pháp, tư pháp, chưa xác định rỏ được cơ chế tác động ngược
lại đối với hoạt động thực hiện quyền lập pháp của quốc hội. Hiệu lực quản lí của
nhà nươc pháp quyền còn hạn chế, tồn tại tình trạng nhũng nhiễu, oan sai trong
hoạt động tư pháp. Cải cách tư pahps còn chậm. Thực hiện quyền dân chủ mang
tính hình thức, cơ chế kiểm soát từ phía nhân dân còn hạn chế.
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp còn có
những mặt hạn chế. Hiệu quả thực hiện chức năng giám sát tối cao của quốc hội
chưa như mong muốn. Nhiều hội đồng nhân dân còn hình thức, chưa mang lại hiệu
quả cao trong công tác quản lí. Bộ máy chỉnh phủ còn nhiều bất cập, chưa tinh
gọn, sự quản lí với chuyên ngành và liên ngành mang những hạn chế nhất định.
Việc phân công nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền giữa các bộ ngành trung ương và
địa phương trên nhiêu mặt chưa cự thể, rõ ràng, dẩn đến giảm hiệu lực hiệu quả
hoạt động.
2.5.3 Nguyên nhân hạn chế còn tồn tại.
Sự tồn tại của những hạng chế yếu kếm được nêu trên xuất phtats từ chủ quan
lẫn khách quan.
Xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hâu, một thời gian dài kinh tế
lẫn xã hội bị khủng hoản dưới thười bao cấp áp dụng. Tư tưởng và trình độ phát
triện còn hạn chế và bị ảnh hưởng do sự lạc hậu. Khiến quá trình hoàn thành và
xây dựng hệ thống tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ
trên thế giười đòi hỏi sự tìm tòi và khai phá đúc kết trong thời gian dài.
12
Nhiều lí luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cưu
một cách có hệ thống, chưa xác định đúng vai trò, mục đích, nhiệm vụ. Sự phân
công, phối hợp giữa hành pháp, lập phap, tư pháp chưa được thể chế cụ thể hoá rõ
ràng. Quốc hội nước ta còn kiêm nhiẹu nhiều vị trí, chưa chuyên nghiệp.
Chủ trương đổi mới chưa đồng bộ, thiếu giải pháp đông bộ kiên quyết, kịp
thời. Chậm tổng kết lý luận và thực tiễn về phân định mối quan hệ giữa sự lãnh đạo
của đảng và sự quản lý của nhà nước; sự đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
của đảng trong các lĩnh vực xây dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật, nhất là hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đảng và chính quyền cơ
sở chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
2.6 Giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.6.1 Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cũng là bản chất của nước ta, đây là
động lực của sự phát triển đất nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đang từng bước
được hoàn thiện và cần được đảm bảo dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống, trên tất cả các lĩnh vực.
Đang cần nêu gương về dân chủ và lãnh đạo tốt quá trình dân chủ hoạt động
của đất nước. Nêu cao tinh thần dân chủ tập trung đảng và nhà nước. Chính vì vậy,
đảng lãnh đạo dân chủ, lãnh đạo dân chủ hoá tất yếu phải lãnh đạo nhà nước thực
hiện dân chủ, lãnh đạo nhân dân tham gia giám sát các cơ quan, công chức nhà
nước. Đường lối, chính sách của đảng ra đời phải dựa trên cơ sở dân chủ, dân chủ
phải được phát huy rộng rãi và nhanh chóng trong cuộc sống mới thúc đẩy dân chủ
xã hội phát triển. Đồng thời, cần có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền
giám sát đối với đảng như đã được quy định tại Khoản 2 điều 4 Hiến pháp 2013.
Đổi mới nhận và quan hệ giữa nhà nước và công dân, trong đó phải xem nhân
dân là trung tâm, là chủ thể của mọi hoạt động của bộ máy nhà nước.với tinh thần,
toàn bộ hoạt động phải dựa trên nền tảng do dân, phục vụ nhân dân, nhưng đê đạt
được điều đó bộ máy nhà nước phải gọn nhẹ, chức năng rõ ràng, cụ thể quyền hạn
và trach nhiệm. Ngoài ra, phải tạo điều kiện cho nhân dân dể tiếp cận, dễ đối thoại,
13
dể kiểm tra, giám sát, huy động tối đa trí tuệ, sáng kiến và đóng góp của nhân dân
trong công cuộc quản lý nhà nước.
Nhà nước phải thể hiện và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người
dân, nhất là quyền dân chủ trong việc chjin đại diện cho mình và tham gia xây
dựng chính sách. Nang cao ý thức về quyền hạn và nghĩa vụ của công dân, năng
lực làm chủ và tham gia quản lí nhà nước.
2.6.2 Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, chính vì vậy, việc đổi mới và không
ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nước là điều mang lại ý nghãi quang trông trực tiếp
quyết định để hiệu quả tổ chức toàn bộ hệ thống chính trị.
Về vai trò và chức năng của nhà nước:
Nhà nước là một thiết chế chính trị trung tâm mang vai trò đặt biệt trọng mọi
lĩnh vực, Nhưng dù vai trò nhà nước to lớn đến đâu cũng không thể toàn quyền
quyết định mọi vấn đề và bao cấp cho xã hội. Vai trò nhà nước là hữu hạn trong
các mối quan hệ chính trị xã hội thuộc hệ thống chính trị, mối quan hệ với kinh tế
thị trường, xã hội và mối quan hệ với công dân. Vì vậy, xã hội hoá và khả năng độc
lập của các thiết chế xã hội phải được tăng cường, giải phóng sự lệ thuộc vào bảo
trợ nhà nước. Nặt khác, nhà nước phải hạn chế và giảm thiểu các biện pháp can
thiệp trực tiếp vào thị trường và các quan hệ dân sự thông qua việc ban hành pháp
luật và tăng cường kiểm tra, giám sát.
Phát huy tinh thần làm chủ nhân dân, nhà nước cần phải khiến tạo và phát
triển, không thay dân làm mà xây dựng khôn khổ thể chế phù hợp tạo điều kiện cần
thiết để phát huy tính sáng tạo vì lợi ích chung và đóng góp cho xã hội. Nhà nước
phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường; kiểm soát chặt
chẽ và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp cũng như những cơ chế chính sách dẫn đến
bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Nhà nước phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và huy
động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu
14
cầu phát triển. Phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.6.3 Xây dựng và hoàn thiện hệ thông pháp luật.
Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, hình thức, phương thức hoạt động của các
cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà nước
gọn về tổ chức, hiệu quả trong hoạt động, đáp ứng ngày càng tích cực hơn các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực của chế độ pháp quyền.
Trên những định hướng này, Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật tổ chức Tòa án
nhân dân (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) đã được Quốc
hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 vừa qua. Các Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
chính quyền địa phương, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân (trong đó quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia theo hướng quy định của Hiến
pháp 2013), Luật kiểm toán nhà nước, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được
Quốc hội khóa XIII thông qua.
Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cần tập trung ưu tiên trên các phương diện sau:
Về cơ bản, việc quy định các quyền con người, quyền công dân phải được thực
hiện ở tầm các đạo luật. Những quyền con người, quyền công dân hiện tại đang
được quy định tại các văn bản dưới luật, kể cả trong pháp lệnh cần được nghiên
cứu để chuyển sang quy định tại các đạo luật. Việc luật hóa các quy định về quyền
con người, quyền công dân vừa tạo cho các quyền này giá trị pháp lý cao, ổn định,
khắc phục được sự tùy tiện hay các nguy cơ hạn chế các quyền con người trong
quá trình thực hiện. Tuy nhiên để luật hóa được tất cả các quyền con người, quyền,
nghĩa vụ của công dân được Hiến pháp quy định đòi hỏi phải có lộ trình phù hợp.
Do vậy đối với việc thực hiện một số quyền, trước mắt vẫn cần duy trì cách tiếp
cận “theo quy định của pháp luật”. Nhưng cách tiếp cận này chỉ áp dụng cho việc
quy định trình tự, thủ tục thực hiện một số ít quyền và không thể áp dụng để quy
định nội dung các quyền này.
15
Việc hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi các quy định về quyền con người, quyền
công dân phải đặc biệt tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013.
Theo đó, “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.Như vậy chỉ có các đạo luật
mới có thể quy định việc hạn chế các quyền con người, và việc hạn chế này luôn bị
giới hạn trong những trường hợp thật sự cần thiết như đã xác định tại khoản 2 Điều
14 nêu trên. Điều khoản hiến định này đòi hỏi phải rà soát để kịp thời loại bỏ
những quy định trong các văn bản dưới luật đang hạn chế quyền con người, quyền
công dân ngoài các trường hợp thật sự cần thiết như Hiến pháp 2013 quy định.
Trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường: 38 đạo luật quan trọng đã được đưa vào chương trình sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện theo Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp được ban hành kèm theo
Nghị quyết 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014. Các đạo luật điều chỉnh các
quan hệ kinh tế cần bám sát các quy định của Hiến pháp về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để tập trung sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện cơ sở
pháp lý đồng bộ cho nền kinh tế thị trường, tạo các đột phá trong cải cách thể chế
kinh tế theo đúng các quy luật của thị trường. Theo đó việc sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực kinh tế tập trung vào việc loại bỏ các
cơ chế, các thủ tục hành chính đang gò bó sự phát triển kinh tế, gây khó khăn, ách
tắc trong sự vận hành và phát triển các quan hệ thị trường.
Quán triệt tư tưởng này của Hiến pháp 2013, việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực kinh tế tập trung vào các mục tiêu:
Tạo môi trường pháp lý ổn định và an toàn cho việc xây dựng, vận hành và
phát triển các loại thị trường, đặc biệt là các thị trường hàng hóa, thị trường vốn,
thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ, huy động được mọi nguồn
lực xã hội tham gia phát triển các loại hình thị trường.
16
Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất đai, các nguồn vốn
nhà nước, vốn vay, minh bạch hóa các mối quan hệ sử dụng đất, thu hồi đất, phù
hợp với chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của
người được giao quyền sử dụng đất, thuê đất theo đúng quan hệ thị trường.
Đơn giản hóa các quy trình, thủ tục thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp,
tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng.
Đổi mới quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, xác định rõ quyền hạn và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp nhà nước, vốn đầu tư của Nhà nước trong các loại hình doanh nghiệp, đảm
bảo quyền bình đẳng, quyền cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp theo đúng quy
định của pháp luật, ngăn ngừa có hiệu quả việc can thiệp trái pháp luật của các cơ
quan, công chức nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức kinh tế
và cá nhân công dân; nâng cao năng lực, vai trò và trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công, hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ doanh
nghiệp và người dân trong việc tiếp cận các nguồn vốn, các thị trường và bảo vệ
lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khi bị vi phạm. Sự gắn kết các quy định về
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường tại
Chương III của Hiến pháp 2013 đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung đồng bộ các quy
định pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng này. Do vậy, các văn bản pháp luật
trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và môi
trường đều phải được nghiên cứu, đánh giá lại để có những sửa đổi, bổ sung thích
hợp, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc tiếp tục các giải pháp cải cách
kinh tế - xã hội trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và đối ngoại, việc sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ quan trọng
này theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013 cũng đang được triển khai đồng bộ
với các lĩnh vực điều chỉnh pháp luật khác. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
17
Luật sĩ quan quân đội và nhân dân, Luật công an nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội
xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 8 vừa qua đã hoàn thiện một bước quan trọng
các cơ sở pháp lý để xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Với Hiến pháp mới – Hiến
pháp 2013, hệ thống pháp luật Việt Nam đang từng bước được đổi mới, hoàn thiện,
đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hợp tác quốc tế. Tuy nhiên,
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu mới của Hiến pháp 2013 là một
công việc hệ trọng, phức tạp cần được triển khai một cách khoa học, có lộ trình
thích hợp, huy động được trí tuệ, kinh nghiệm của cả xã hội cùng tham gia đóng
góp cho việc hoàn thiện từng dự thảo văn bản trước khi Quốc hội, các cơ quan có
thẩm quyền xem xét, thông qua. Thực tiễn hơn hai năm thi hành Hiến pháp 2013
đã đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm ban đầu quý giá để thực hiện thành
công nhiệm vụ này. Quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của công dân trong
việc thực hiện quyền tự do dân chủ; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng, kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng quyền tự do, dân chủ của công dân
để xâm hại an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội... Tiếp tục nghiên cứu luật
hoá các quyền hiến định của công dân theo hướng: nghiên cứu xây dựng các luật
để thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền tự do lập hội, quyền tự do hội
họp, quyền biểu tình, quyền được trưng cầu dân ý... theo lộ trình phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước; bảo đảm để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
thực hiện các quyền của mình, vừa tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong từng lĩnh vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu toàn dân theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước
với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò
đại diện chủ sở hữu tài sản thuộc sở hữu toàn dân; tách chức năng chủ sở hữu tài
sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà
18
nước. Tạo cơ sở pháp lý để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực
và phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân,
gia đình và góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng, phù họp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc
tế khác. Xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, những sự phân biệt đối xử
theo thành phần kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh.
KẾT LUẬN
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân là quan điểm nhất quán của Đảng, thể hiện bản chất, tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa, vì vậy, việc thống nhất nhận thức và hành động của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân là vấn đề căn bản nhất, bảo đảm cho quan điểm của
Đảng được hiện thực hóa trong những năm tới, góp phần thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là công việc hoàn
toàn mới mẻ, cần đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng, tuyệt
đối không thể rập khuôn theo các giá trị và mô hình xây dựng của các nước
phương Tây với các mô hình và thể chế chính trị khác. Công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm nguyên lý của mối quan
hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng
phải luôn đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín,
sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của nhân dân. Đồng
thời, để tiến nhanh cùng với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, sự cầm quyền
của Đảng trong quan hệ với xây dựng nhà nước pháp quyền cần không ngừng được
đổi mới: quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quyền lực nhà nước và quyền
lực của nhân dân.
19
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang
phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn
đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin
tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc
thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các Cơ quan Quốc
hội Nhà nươc là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Qua trình bày của bài tiểu luận ở trên, có thể thấy rằng xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN là một quá trình tương đối
lâu mình trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng và hoà thiện nhà nước Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Đối với học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân, phải tăng
cường giáo dục, tuyên truyền những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, khơi dậy lòng nhiệt tình của tuổi trẻ, tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng, thái
độ sống tích cực.Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, với sự nỗ lực
phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.
20
21
22
23
24
| 1/24

Preview text:

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................2

PHẦN NỘI DUNG..................................................................................2
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước....................................2
1.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước..........................................2
1.1.1 Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa...........................................2
1.1.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa............................................3
1.1.2 Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.........................................6
1.2 Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.................................................6
1.3 Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa....................6
II. Sự vận dụng của Đảng vào việc xây dựng nhà nước dân chủ ở Việt Nam
hiện nay.
.................................................................................................................8
2.1 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền
CNXH Việt Nam.
...............................................................................................8
2.2 Bản chất và đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam......9
2.3 Cơ sơ nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.......................................10
2.4 Chức năng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.......................10
2.5 Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền.............................................11
2.5.1 Những kết quả đạt được.....................................................................11
2.5.2 Những hạn chế tồn tại.........................................................................11
2.5.3 Nguyên nhân hạn chế còn tồn tại.......................................................12
2.6 Giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
...........................................................................................................................13
2.6.1 Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa.............................................13
2.6.2 Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước..............................14
2.6.3 Xây dựng và hoàn thiện hệ thông pháp luật.....................................15
KẾT LUẬN...........................................................................................19 1 PHẦN MỞ ĐẦU
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề chiến lược
là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy cần làm sáng tỏ về bản chất, nội dung cũng như
những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc
hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Hiện nay, ở Việt Nam, đã có những tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa …,
cho việc bắt đầu xây dựng một nhà nước pháp quyền, nhưng quá trình đó không
thể nóng vội, mà nó là sự nghiệp lâu dài của nhiều thế hệ người Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước
1.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước.
1.1.1 Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chế độ dân chủ ở nước ta được xác lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đến năm 1976, tên nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
nhưng trong các Văn kiện Đảng hầu như chưa sử dụng cụm từ "dân chủ XHCN"
mà thường nêu quan điểm "xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa" gắn
với "chuyên chính vô sản”. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng
chưa được xác định rõ ràng. Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
là thực hiện dân chủ trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như thế
nào cho phù hợp với các đặc điểm kinh tế, xã hội, văn bóa, đạo đức của xã hội Việt
Nam, gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật, kỷ cương cũng chưa được đặt ra một
cách cụ thể, thiết thực. Nhiều lĩnh vực liên quan mật thiết đến dân chû xã hội chủ
nghĩa như dân sinh, dân trí, dần quyền... chưa được đặt đúng vị trí và giải quyết
đúng để thúc đẩy việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 2
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước
đã nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
đất nước. Đại hội khẳng định “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động"; Bài học "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" bao giờ cũng rất
quan trọng. Thực tiễn cách mạng chứng minh rằng: ở đâu, nhân dân lao động có ý
thức làm chủ và được làm chủ thực sự, thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng”.
Hơn 30 năm mới đổi, nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của
dân chủ ở nước ta có nhiều điểm mới. Qua mỗi kỳ đại hội của Đảng ký mới, dân
chủ ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn thiện đúng đắn, phù hợp hơn
với điều kiện cụ thể của nước ta.
Trước hết, Đảng khẳng định một trong những đặc trưng của xã hội Việt Nam là
do nhân dân làm chủ. Dân chủ đã được đưa vào mục tiêu tổng quát của cách mạng
Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời khẳng
định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở
mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm ...”
1.1.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Cũng như bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam,
bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng
hộ, giúp đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong xã
hội với tư cách công dân, tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân
là tất cả các quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm chủ.
Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn là của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiên quốc là công việc của nhân dân. 3
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở dân".
Kế thừa tư tưởng dân chủ trong lịch sử và trực tiếp là tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, nhất là trong thời kỳ đối mới, Đảng luôn xác định
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
xã hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ gắn liền với kỷ cương và
phải có chế độ hóa bằng luật, được pháp luật bảo đảm...
Nội dung này được hiểu là: Dân chủ là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa
(dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh).
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa (do nhân dân làm chủ, quyền
lực thuộc về nhân dân).
Dân chủ là động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội (phát huy sức mạnh của
nhân dân, của toàn dân tộc).
Dân chủ gắn với pháp luật (phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương).
Dân chủ phải được thực hiện trong đời sống thực tiễn ở tất cả các cấp, mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện thông qua các
hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do
nhân dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực tiếp
bầu ra. Những con người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm
chủ cho nhân dân. Nhân dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất hoạt động theo nhiệm kỳ 5 năm. Quyền lực nhà nước ta là hệ thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 4
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân bằng hoạt
động trực tiếp của mình thực hiện các quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Hình
thức đó thể hiện ở các quyền được thông tin về hoạt động của nhà nước, được bàn
bạc về công việc của nhà nước và cộng đồng dân cư; được bàn đến những người
quyết định về dân chủ cơ sở, nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước từ Trung ương cho đến cơ sở. Dân chủ ngày càng được thế hiện trong tất
cả các mối quan hệ xã hội, trở thành quy chế, cách thức làm việc của mọi tổ chức trong xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một yêu cầu tắt yếu là
không ngừng củng cố, hoàn thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thực tiễn xây dựng
đất nước cho thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở các việc bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo hướng ngày càng mở rộng và hoạt động
có hiệu quả. Ý thức làm chủ của nhân dân, trách nhiệm công dân của người dân
trong xã hội ngày càng được đề cao trong pháp luật và cuộc sống. Mọi công dân
đều có quyền tham gia quản lý xã hội bằng nhiều cách khác nhau, tùy theo trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình. Dân chủ công dân gắn liền với kỷ cương của đất
nước, được thể chế hóa bằng luật của nhà nước pháp quyền, trong các nguyên tắc
hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Các quy chế dân chủ từ cơ sở đến Trung ương
và trong các tổ chức chính trị - xã hội đều thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đảng ta khẳng định: "Mọi đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân đân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.
Bên cạnh đó, việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra trong
điều kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, lại chịu hậu quả của chiến
tranh tàn phá nặng nề. Cùng với đó là những tiêu cực trong đời sống xã hội chưa
được khắc phục triệt để ... làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ dân chủ
nước ta, làm suy giảm động lực phát triển của đất nước. Mặt khác, âm mưu “diễn
biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" 5
của các thế lực thù địch, vấn đề tự diễn biến, tự chuyển hóa nảy sinh và diễn biến
hết sức phức tạp đang là trở ngại thay đối với quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, bản chất đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam càng ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Kể từ khí khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho đến nay, nhân dân thực sự trở thành
người làm chủ, tự xây dựng, tổ chức quản lý xã hội. Đây là chế độ bảo đảm quyền
làm chủ trong đời sống của nhân dân từ chính trị, kinh tế cho đến văn hóa, xã hội;
đồng thời phát huy tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.1.2 Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các chức năng đối nội:
Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ các
quyền và lợi ích cơ bản của công dân.
Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của công dân
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa – xã hội
Các chức năng đối ngoại:
Chức năng bảo vệ tổ quốc.
Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước.
1.2 Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quản lý kinh tế
Xây dựng phát triển không ngừng cơ sở vật chất Quản lý văn hóa xã hội
Giáo dục đào tạo phát triển toàn diện
Chăm sóc sức khỏe nhân dân
Đối nội, đối ngoại mở rộng quan hệ 6
1.3 Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Karl Marx và Friedrich Engels cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa
của con người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân
dân lao động "phá hủy nhà nước tư sản" chiếm lấy chính quyền thiết lập chuyên
chính vô sản. Bởi vì, "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nên chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm vững công
cụ chuyên chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành
một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành
quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết.
Vladimir Ilyich Lenin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của chuyên chính
là trấn áp bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là một giai cấp.
Đồng thời, trong thời kỳ quá độ cũng còn có các giai cấp, tầng lớn trung gian khác
và do địa vị kinh tế - xã hội vốn có, các giai cấp này thường dao động, không thể
tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đỏ, giai cấp công nhân phải tuyên
truyền, thuyết phục, lôi cuốn họ đi theo mình trong công cuộc xây dựng xã hội
mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết bảo đảm
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết
đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm
những giá trị dân chủ chuyên chính của nhân dân, đòi hòi phải có một thiết chế nhà 7
nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải
được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và phát triển thành quả của
dân chủ. Dân chủ cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi
gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời... Các quyền đó
phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những
thiết chế tương ứng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, quá trình xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Quá trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương
không bài trừ và phủ định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là
điều kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, để bảo đảm cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì việc xây dựng và không ngừng
hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa - một trong những công cụ chủ yếu của quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, là một yêu cầu tất yếu khách quan
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
II. Sự vận dụng của Đảng vào việc xây dựng nhà nước dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
2.1 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền CNXH Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện
được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc,
đặc thù của riêng mình. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành
đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;
gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật”. Như vậy, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng sau: 8
Thứ nhất, là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
Thứ hai, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ ba, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ,
đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Thứ năm, tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Thứ sáu, được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2 Bản chất và đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự
điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải
bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình
đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.
Một là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở một hệ thong pháp luật dân chủ, tiến bộ, phù hợp và khả thi.
Hai là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm vị trí tối thượng của pháp
luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
chủ quyền của nhân dân. 9
Bốn là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm và
bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động theo cơ
chế bảo đảm sự phân công và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước gắn bó mật thiết với xã hội dân sự.
2.3 Cơ sơ nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở chính trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
chế độ dân chủ nhất nguyên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Ba là, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan quyền lực của giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa và của nhân
dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
không khác biệt, không mẫu thuẫn mà thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân
dân lao động khác và của cả dân tộc. Do vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế sâu rộng cần tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí.
2.4 Chức năng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như mọi nhà nước khác
đều thực hiện chức năng vốn có của Nhà nước. Đó là chức năng chính trị (giai cấp)
và chức năng xã hội. Tuy nhiên, do bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, do tình hình, điều kiện mới nên từng chức năng chính trị (giai
cấp) và chức năng xã hội của nó cũng như mối quan hệ giữa hai chức năng này
cũng có sự thay đổi. Chức năng chính trị hòa quện cùng chức năng xã hội và mở
rộng hơn trong các nội dụng kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, v.v.. Chức năng
xã hội cũng được mở rộng hơn so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Hơn 10
nữa, chức năng xã hội ngày càng trở nên quan trọng và chủ yếu. Đồng thời, bảo
đảm sự thống nhất giữa tính giai cấp với tính nhân dân và tính xã hội của Nhà
nước. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Lợi ích của nhân dân thống nhất với lợi ích
toàn xã hội. Do vậy, về nguyên tắc tính giai cấp đồng nhất với tính nhân dân và
tính xã hội. Cũng vì vậy, thực hiện chức năng giai cấp cũng là thực hiện chức năng
bảo vệ nhân dân và thực hiện chức năng xã hội. Đây là điểm khác biệt quan trọng
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà nước pháp quyền tư sản.
2.5 Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
2.5.1 Những kết quả đạt được.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước đã có một bước điều chỉnh theo qua
trình chuyển từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Vai trò, vị trí và chức
năng nói chung và nhà bộ máy nhà nước nói riêng trong các trong các mói quan hệ
với đời sống kinh tế của đất nước bước đầu được thay đổi phù hợp với điều kiện
đất nước và thế giới hiện nay. Sự này đổi bước đầu với tư duy của công dân, bộ
máy nhà nước, cán bộ công chức dần chuyễn biến từ quyền uy, lảnh đảo, chủ quan,
di ý chí sang phục vụ nhân dân. Cũng chính sự thay đổi mang lại thành tựu to lớn
và có ý nghĩa trong quá trình đổi mới đất nước. Nền kinh tế phát triển nhanh chóng
trong sự tự do thương mại dưới giám sát của nhà nước, Lĩnh vực khoa học công
nghệ trở nên hiện đại hoá, công nghiệp hoá, tạo tiền đề cho sự phát triển của đất
nước. Lĩnh vữc văn hoá xã hội ngày càng theo xu hướng hiện đại hội nhập, tiến bộ.
Ngoại giao ngày càng được đa dạng và mở rộng mới quan hệ với các nước theo
nguyên tắc bình đẳng đa phương cùng có có lợi. Tất cả những yếu tố trên khiến
cho đất nước ngày càng vững bước trên con được phát triển hiện đại hoá công
nghiệp hoá và đậm đà bản sắc dân tộc.
2.5.2 Những hạn chế tồn tại.
Tồn tại chưa chế định ro trong công tác đồng bộ, phân công, phối hợp, kiểm
soát quyền lực của nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của 11
các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước còn chưa thật sự hợp lý. Chưa khắc
phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế.
Hệ thống pháp luật thiếu sự đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng được yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, vẫn cò tồn tại vướng mắt trong công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật, tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế.
Cải cách hành chính còn chậm, kỹ cương kỹ luật trong công tác quản lí còn bất cập.
Các cơ quan hành pháp, tư pháp, chưa xác định rỏ được cơ chế tác động ngược
lại đối với hoạt động thực hiện quyền lập pháp của quốc hội. Hiệu lực quản lí của
nhà nươc pháp quyền còn hạn chế, tồn tại tình trạng nhũng nhiễu, oan sai trong
hoạt động tư pháp. Cải cách tư pahps còn chậm. Thực hiện quyền dân chủ mang
tính hình thức, cơ chế kiểm soát từ phía nhân dân còn hạn chế.
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp còn có
những mặt hạn chế. Hiệu quả thực hiện chức năng giám sát tối cao của quốc hội
chưa như mong muốn. Nhiều hội đồng nhân dân còn hình thức, chưa mang lại hiệu
quả cao trong công tác quản lí. Bộ máy chỉnh phủ còn nhiều bất cập, chưa tinh
gọn, sự quản lí với chuyên ngành và liên ngành mang những hạn chế nhất định.
Việc phân công nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền giữa các bộ ngành trung ương và
địa phương trên nhiêu mặt chưa cự thể, rõ ràng, dẩn đến giảm hiệu lực hiệu quả hoạt động.
2.5.3 Nguyên nhân hạn chế còn tồn tại.
Sự tồn tại của những hạng chế yếu kếm được nêu trên xuất phtats từ chủ quan lẫn khách quan.
Xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hâu, một thời gian dài kinh tế
lẫn xã hội bị khủng hoản dưới thười bao cấp áp dụng. Tư tưởng và trình độ phát
triện còn hạn chế và bị ảnh hưởng do sự lạc hậu. Khiến quá trình hoàn thành và
xây dựng hệ thống tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ
trên thế giười đòi hỏi sự tìm tòi và khai phá đúc kết trong thời gian dài. 12
Nhiều lí luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cưu
một cách có hệ thống, chưa xác định đúng vai trò, mục đích, nhiệm vụ. Sự phân
công, phối hợp giữa hành pháp, lập phap, tư pháp chưa được thể chế cụ thể hoá rõ
ràng. Quốc hội nước ta còn kiêm nhiẹu nhiều vị trí, chưa chuyên nghiệp.
Chủ trương đổi mới chưa đồng bộ, thiếu giải pháp đông bộ kiên quyết, kịp
thời. Chậm tổng kết lý luận và thực tiễn về phân định mối quan hệ giữa sự lãnh đạo
của đảng và sự quản lý của nhà nước; sự đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
của đảng trong các lĩnh vực xây dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật, nhất là hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đảng và chính quyền cơ
sở chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
2.6 Giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.6.1 Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cũng là bản chất của nước ta, đây là
động lực của sự phát triển đất nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đang từng bước
được hoàn thiện và cần được đảm bảo dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống, trên tất cả các lĩnh vực.
Đang cần nêu gương về dân chủ và lãnh đạo tốt quá trình dân chủ hoạt động
của đất nước. Nêu cao tinh thần dân chủ tập trung đảng và nhà nước. Chính vì vậy,
đảng lãnh đạo dân chủ, lãnh đạo dân chủ hoá tất yếu phải lãnh đạo nhà nước thực
hiện dân chủ, lãnh đạo nhân dân tham gia giám sát các cơ quan, công chức nhà
nước. Đường lối, chính sách của đảng ra đời phải dựa trên cơ sở dân chủ, dân chủ
phải được phát huy rộng rãi và nhanh chóng trong cuộc sống mới thúc đẩy dân chủ
xã hội phát triển. Đồng thời, cần có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền
giám sát đối với đảng như đã được quy định tại Khoản 2 điều 4 Hiến pháp 2013.
Đổi mới nhận và quan hệ giữa nhà nước và công dân, trong đó phải xem nhân
dân là trung tâm, là chủ thể của mọi hoạt động của bộ máy nhà nước.với tinh thần,
toàn bộ hoạt động phải dựa trên nền tảng do dân, phục vụ nhân dân, nhưng đê đạt
được điều đó bộ máy nhà nước phải gọn nhẹ, chức năng rõ ràng, cụ thể quyền hạn
và trach nhiệm. Ngoài ra, phải tạo điều kiện cho nhân dân dể tiếp cận, dễ đối thoại, 13
dể kiểm tra, giám sát, huy động tối đa trí tuệ, sáng kiến và đóng góp của nhân dân
trong công cuộc quản lý nhà nước.
Nhà nước phải thể hiện và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người
dân, nhất là quyền dân chủ trong việc chjin đại diện cho mình và tham gia xây
dựng chính sách. Nang cao ý thức về quyền hạn và nghĩa vụ của công dân, năng
lực làm chủ và tham gia quản lí nhà nước.
2.6.2 Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, chính vì vậy, việc đổi mới và không
ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nước là điều mang lại ý nghãi quang trông trực tiếp
quyết định để hiệu quả tổ chức toàn bộ hệ thống chính trị.
Về vai trò và chức năng của nhà nước:
Nhà nước là một thiết chế chính trị trung tâm mang vai trò đặt biệt trọng mọi
lĩnh vực, Nhưng dù vai trò nhà nước to lớn đến đâu cũng không thể toàn quyền
quyết định mọi vấn đề và bao cấp cho xã hội. Vai trò nhà nước là hữu hạn trong
các mối quan hệ chính trị xã hội thuộc hệ thống chính trị, mối quan hệ với kinh tế
thị trường, xã hội và mối quan hệ với công dân. Vì vậy, xã hội hoá và khả năng độc
lập của các thiết chế xã hội phải được tăng cường, giải phóng sự lệ thuộc vào bảo
trợ nhà nước. Nặt khác, nhà nước phải hạn chế và giảm thiểu các biện pháp can
thiệp trực tiếp vào thị trường và các quan hệ dân sự thông qua việc ban hành pháp
luật và tăng cường kiểm tra, giám sát.
Phát huy tinh thần làm chủ nhân dân, nhà nước cần phải khiến tạo và phát
triển, không thay dân làm mà xây dựng khôn khổ thể chế phù hợp tạo điều kiện cần
thiết để phát huy tính sáng tạo vì lợi ích chung và đóng góp cho xã hội. Nhà nước
phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường; kiểm soát chặt
chẽ và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp cũng như những cơ chế chính sách dẫn đến
bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Nhà nước phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và huy
động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu 14
cầu phát triển. Phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.6.3 Xây dựng và hoàn thiện hệ thông pháp luật.
Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, hình thức, phương thức hoạt động của các
cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà nước
gọn về tổ chức, hiệu quả trong hoạt động, đáp ứng ngày càng tích cực hơn các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực của chế độ pháp quyền.
Trên những định hướng này, Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật tổ chức Tòa án
nhân dân (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) đã được Quốc
hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 vừa qua. Các Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
chính quyền địa phương, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân (trong đó quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia theo hướng quy định của Hiến
pháp 2013), Luật kiểm toán nhà nước, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được
Quốc hội khóa XIII thông qua.
Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cần tập trung ưu tiên trên các phương diện sau:
Về cơ bản, việc quy định các quyền con người, quyền công dân phải được thực
hiện ở tầm các đạo luật. Những quyền con người, quyền công dân hiện tại đang
được quy định tại các văn bản dưới luật, kể cả trong pháp lệnh cần được nghiên
cứu để chuyển sang quy định tại các đạo luật. Việc luật hóa các quy định về quyền
con người, quyền công dân vừa tạo cho các quyền này giá trị pháp lý cao, ổn định,
khắc phục được sự tùy tiện hay các nguy cơ hạn chế các quyền con người trong
quá trình thực hiện. Tuy nhiên để luật hóa được tất cả các quyền con người, quyền,
nghĩa vụ của công dân được Hiến pháp quy định đòi hỏi phải có lộ trình phù hợp.
Do vậy đối với việc thực hiện một số quyền, trước mắt vẫn cần duy trì cách tiếp
cận “theo quy định của pháp luật”. Nhưng cách tiếp cận này chỉ áp dụng cho việc
quy định trình tự, thủ tục thực hiện một số ít quyền và không thể áp dụng để quy
định nội dung các quyền này. 15
Việc hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi các quy định về quyền con người, quyền
công dân phải đặc biệt tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013.
Theo đó, “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.Như vậy chỉ có các đạo luật
mới có thể quy định việc hạn chế các quyền con người, và việc hạn chế này luôn bị
giới hạn trong những trường hợp thật sự cần thiết như đã xác định tại khoản 2 Điều
14 nêu trên. Điều khoản hiến định này đòi hỏi phải rà soát để kịp thời loại bỏ
những quy định trong các văn bản dưới luật đang hạn chế quyền con người, quyền
công dân ngoài các trường hợp thật sự cần thiết như Hiến pháp 2013 quy định.
Trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường: 38 đạo luật quan trọng đã được đưa vào chương trình sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện theo Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp được ban hành kèm theo
Nghị quyết 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014. Các đạo luật điều chỉnh các
quan hệ kinh tế cần bám sát các quy định của Hiến pháp về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để tập trung sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện cơ sở
pháp lý đồng bộ cho nền kinh tế thị trường, tạo các đột phá trong cải cách thể chế
kinh tế theo đúng các quy luật của thị trường. Theo đó việc sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực kinh tế tập trung vào việc loại bỏ các
cơ chế, các thủ tục hành chính đang gò bó sự phát triển kinh tế, gây khó khăn, ách
tắc trong sự vận hành và phát triển các quan hệ thị trường.
Quán triệt tư tưởng này của Hiến pháp 2013, việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực kinh tế tập trung vào các mục tiêu:
Tạo môi trường pháp lý ổn định và an toàn cho việc xây dựng, vận hành và
phát triển các loại thị trường, đặc biệt là các thị trường hàng hóa, thị trường vốn,
thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ, huy động được mọi nguồn
lực xã hội tham gia phát triển các loại hình thị trường. 16
Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất đai, các nguồn vốn
nhà nước, vốn vay, minh bạch hóa các mối quan hệ sử dụng đất, thu hồi đất, phù
hợp với chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của
người được giao quyền sử dụng đất, thuê đất theo đúng quan hệ thị trường.
Đơn giản hóa các quy trình, thủ tục thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp,
tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
Đổi mới quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, xác định rõ quyền hạn và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp nhà nước, vốn đầu tư của Nhà nước trong các loại hình doanh nghiệp, đảm
bảo quyền bình đẳng, quyền cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp theo đúng quy
định của pháp luật, ngăn ngừa có hiệu quả việc can thiệp trái pháp luật của các cơ
quan, công chức nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức kinh tế
và cá nhân công dân; nâng cao năng lực, vai trò và trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công, hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ doanh
nghiệp và người dân trong việc tiếp cận các nguồn vốn, các thị trường và bảo vệ
lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khi bị vi phạm. Sự gắn kết các quy định về
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường tại
Chương III của Hiến pháp 2013 đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung đồng bộ các quy
định pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng này. Do vậy, các văn bản pháp luật
trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và môi
trường đều phải được nghiên cứu, đánh giá lại để có những sửa đổi, bổ sung thích
hợp, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc tiếp tục các giải pháp cải cách
kinh tế - xã hội trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và đối ngoại, việc sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ quan trọng
này theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013 cũng đang được triển khai đồng bộ
với các lĩnh vực điều chỉnh pháp luật khác. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 17
Luật sĩ quan quân đội và nhân dân, Luật công an nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội
xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 8 vừa qua đã hoàn thiện một bước quan trọng
các cơ sở pháp lý để xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Với Hiến pháp mới – Hiến
pháp 2013, hệ thống pháp luật Việt Nam đang từng bước được đổi mới, hoàn thiện,
đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hợp tác quốc tế. Tuy nhiên,
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu mới của Hiến pháp 2013 là một
công việc hệ trọng, phức tạp cần được triển khai một cách khoa học, có lộ trình
thích hợp, huy động được trí tuệ, kinh nghiệm của cả xã hội cùng tham gia đóng
góp cho việc hoàn thiện từng dự thảo văn bản trước khi Quốc hội, các cơ quan có
thẩm quyền xem xét, thông qua. Thực tiễn hơn hai năm thi hành Hiến pháp 2013
đã đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm ban đầu quý giá để thực hiện thành
công nhiệm vụ này. Quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của công dân trong
việc thực hiện quyền tự do dân chủ; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng, kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng quyền tự do, dân chủ của công dân
để xâm hại an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội... Tiếp tục nghiên cứu luật
hoá các quyền hiến định của công dân theo hướng: nghiên cứu xây dựng các luật
để thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền tự do lập hội, quyền tự do hội
họp, quyền biểu tình, quyền được trưng cầu dân ý... theo lộ trình phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước; bảo đảm để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
thực hiện các quyền của mình, vừa tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong từng lĩnh vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu toàn dân theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước
với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò
đại diện chủ sở hữu tài sản thuộc sở hữu toàn dân; tách chức năng chủ sở hữu tài
sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà 18
nước. Tạo cơ sở pháp lý để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực
và phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân,
gia đình và góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng, phù họp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc
tế khác. Xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, những sự phân biệt đối xử
theo thành phần kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh. KẾT LUẬN
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân là quan điểm nhất quán của Đảng, thể hiện bản chất, tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa, vì vậy, việc thống nhất nhận thức và hành động của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân là vấn đề căn bản nhất, bảo đảm cho quan điểm của
Đảng được hiện thực hóa trong những năm tới, góp phần thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là công việc hoàn
toàn mới mẻ, cần đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng, tuyệt
đối không thể rập khuôn theo các giá trị và mô hình xây dựng của các nước
phương Tây với các mô hình và thể chế chính trị khác. Công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm nguyên lý của mối quan
hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng
phải luôn đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín,
sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của nhân dân. Đồng
thời, để tiến nhanh cùng với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, sự cầm quyền
của Đảng trong quan hệ với xây dựng nhà nước pháp quyền cần không ngừng được
đổi mới: quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân. 19
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang
phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn
đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin
tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc
thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các Cơ quan Quốc
hội Nhà nươc là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Qua trình bày của bài tiểu luận ở trên, có thể thấy rằng xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN là một quá trình tương đối
lâu mình trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng và hoà thiện nhà nước Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Đối với học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân, phải tăng
cường giáo dục, tuyên truyền những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, khơi dậy lòng nhiệt tình của tuổi trẻ, tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng, thái
độ sống tích cực.Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, với sự nỗ lực
phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam. 20 21 22 23 24