Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam | Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học

Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện  nay. Quan điểm của Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Nội dung sự vận dụng của  Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TIỂU LUẬN
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc và sự vận dụng của
Đảng ộng sản Việt Nam
Hà Nội, tháng 12 năm 2021
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................3
1: Lý do nghiên cứu đề tài..........................................................................................3
2: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................4
3: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................4
4: Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.........................................................................4
NỘI DUNG.............................................................................................................5
I: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc..................................................5
1: Sự hình thành dân tộc.............................................................................................5
2: Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc................................................7
3: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc.................................................9
4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc..............................................................14
II: Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai đoạn
hiện nay.....................................................................................................................17
1: Quan điểm của Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc................................................17
2: Nội dung sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong
giai đoạn hiện
nay............................................................................................................20
KẾT LUẬN...........................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................27
06
3
MỞ ĐẦU
1: Lý do nghiên cứu đề tài
Tính cấp thiết của đề tài:
Dân tộc là yếu tố cốt yếu để hình thành nên một quốc gia. Bởi vậy, vấn đề
dân tộc có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới bản thân con người nói riêng và toàn
xã hội nói chung. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu với quan điểm: Bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, nhằm phát huy khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Ngày nay, trước những cuộc xung đột dân tộc, Nhà nước ta vẫn nhận thức
đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, dân tộc là mối quan hệ đầy tiềm
ẩn, bất ổn đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải thật tỉnh táo, nhạy bén để có thể giải
quyết kịp thời, tránh những vấn đề phức tạp.
Bởi vậy, có thể thấy đây là vấn đề luôn có tính thời sự và cấp bách trong quá
trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, góp phần đấu tranh chống lại mọi luận
điệu sai trái, phản động, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay.
Câu hỏi đề tài: Kết hợp giữa quá trình học tập môn Chủ nghĩa khoa học xã hội
cùng với tình hình xã hội hiện nay, có thể thấy dân tộc luôn là vấn đề đáng quan
tâm, đi liền với sự phát triển của đất nước ta. Vấn đề này đã, đang và sẽ tiếp tục là
yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực xã hội. Bởi vậy,
chúng ta - những người dân Việt Nam cần có những nhận thức đúng đắn về vấn đề
4
dân tộc. Đó cũng là lý do mà em chọn vấn đề này làm đề tài cho bài tiểu luận của
mình.
2: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Góp phần làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Từ đó, liên hệ với sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam để nhìn nhận vấn đề dưới cả hai góc nhìn về lý luận và thực
tiễn.
- Nhiệm vụ:
Những nội dung của đề tài bao gồm các vấn đề sau:
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc
+ Quan điểm của Đảng Cộng sản về dân tộc
+ Sự vận dụng của Đảng Cộng sản về dân tộc trong giai đoạn hiện nay
3: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu xoay quanh vấn đề lý luận dân tộc dưới góc nhìn của
Mác, Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng và sự vận dụng của Đảng từ những góc nhìn đó
trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vị nghiên cứu: Việt Nam, từ thế kỷ XIX cho đến giai đoạn ngày nay.
4: Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài dân tộc góp phần tiếp thu những nhận thức đúng đắn,
chính xác về vấn đề dân tộc từ trong quá trình đấu tranh giành chính quyền cho đến
giai đoạn phát triển đất nước như ngày nay. Cụ thể như các tầm quan trọng, ý nghĩa
vai trò của dân tộc đối với một quốc gia dân tộc.
Từ những nhận thức đúng đắn đó, chúng ta ra sức đồng lòng thực hiện tốt các
chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc đồng thời tuyên truyền đến
mọi người về ý nghĩa của dân tộc từ đó tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam.
5
NỘI DUNG
I: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
1: Sự hình thành dân tộc
Lịch sử tiến hóa nhân loại đã chứng minh rằng, dân tộc là sản phẩm
của quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người, do sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, khu vực, sự hình thành dân
tộc có những đặc thù khác nhau nhưng nhìn chung vẫn có thể trình bày sự
hình thành đó bằng những nét phổ quát.
Trước khi cộng đồng dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những
hình thức cộng đồng từ thấp đến cao như: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự
hình thành và phát triển dân tộc là một hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp,
có căn nguyên sâu xa từ sự vận động của sản xuất, của kinh tế đồng thời
chịu sự chi phối trực tiếp của nhân tố chính trị, tức là của giai cấp và Nhà
nước trong việc tổ chức nên đời sống xã hội của các cộng đồng người. Mặt
khác, dân tộc ra đời và phát triển còn gắn liền với truyền thống lịch sử và
văn hóa của từng dân tộc.
- Cộng đồng thị tộc: Ăng ghen cho rằng, thị tộc là hình thức
cộng đồng người đầu tiên, là tổ chức xã hội sớm nhất của loài người xuất
hiện ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản nguyên thủy. Thị tộc được hình
thành trên cơ sở những mối liên hệ huyết thống, gồm những người cùng một
tổ tiên. Nền sản xuất lạc hậu, sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm. Đó là
nền kinh tế chiếm đoạt, chưa phải kinh tế sản xuất. Thị tộc đầu tiên là thị tộc
mẫu quyền, trong đó phụ nữ đóng vai trò chi phối. Khi lực lượng sản xuất
phát triển, có sự phân công lao động, hình thành các nghề trồng trọt và chăn
6
nuôi, vai trò của người đàn ông tăng lên. Cũng từ đó, chế độ phụ quyền dần
thay đổi chế độ mẫu quyền.
- Cộng đồng bộ lạc: Bộ lạc được hiểu là một cộng đồng dân cư
được tạo thành từ nhiều thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn
nhân liên kết lại với nhau. Bộ lạc có một lãnh thổ, một tên gọi riêng và đất
đai là tài sản chung của toàn thể bộ lạc; có ngôn ngữ riêng; có thiết chế và
thể chế, tù trưởng, thủ lĩnh quân sự của bộ lạc; mỗi bộ lạc có những quan
niệm riêng về tôn giáo; bộ lạc lập ra hội đồng bộ lạc gồm tất cả các tù
trưởng và các thủ lĩnh quân sự để thảo luận, công khai trước công chúng và
quyết định những công việc chung. Bởi vậy, Ăng ghen xem đó là hình thức
dân chủ sơ khai đầu tiên trong lịch sử. Điển hình, “Ở đây, không thể có
người nghèo khổ và thiếu thốn - nền kinh tế cộng sản và thị tộc biết rõ nghĩa
vụ của mình đối với người già yếu, ốm đau và những người thương tật trong
chiến tranh. Tất cả đều bình đẳng và tự do, kể cả phụ nữ. Chưa có nô lệ và
chưa có sự nô dịch những bộ lạc khác.” [2, tr.30,31]
- Cộng đồng bộ tộc: Ăng ghen chỉ ra, bộ tộc là cộng đồng dân
cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc trên cùng một vùng lãnh
thổ nhất định. Bộ tộc xuất hiện khi “ dân cư ngày càng đông đúc thêm buộc
người ta phải đoàn kết với nhau một cách mật thiết hơn, ở bên trong cũng
như ở bên ngoài. Ở khắp mọi nơi, liên minh của những bộ lạc cùng dòng họ
trở thành một điều cần thiết; không bao lâu thì sự hợp nhất của những lãnh
thổ riêng của các bộ lạc thành một lãnh thổ chung của toàn thể tộc người
cũng trở thành một điều cần thiết” [3, tr.320] . Trong cộng đồng bộ tộc,
những nhân tố tộc người trong cộng đồng thị tộc, bộ lạc được kế thừa và
phát triển ở mức cao hơn nhưng đã chịu sự chi phối của nhân tố kinh tế,
nhân tố giai cấp. Bộ tộc ra đời đánh dấu một nấc thang trong sự phát triển
của xã hội loài người.
- Cộng đồng dân tộc: Theo V.I.Lênin, ở các nước phương Tây
chỉ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, cộng đồng bộ tộc mới phát triển thành dân
7
tộc. Bởi vi, chỉ có trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế
sản xuất hàng hóa - tiền tệ mới có thể ra đời và làm xuất hiện thị trường dân
tộc. Lúc đó, hàng rào ngăn cách giữa các vùng, các bộ tộc lần lượt sụp đổ,
tình trạng cát cứ địa phương bị phá vỡ và dân tộc xuất hiện hoặc là trên cơ
sở một bộ tộc, hoặc là do sự hợp nhất nhiều bộ tộc. Loại hình dân tộc đó do
giai cấp tư sản thống trị, nên được gọi là dân tộc tư sản. Ở một số nước
phương Đông, cộng đồng dân tộc xuất hiện trước chủ nghĩa tư bản do sự
thúc đẩy của nhiều nhân tố cố kết tự nhiên và xã hội trong quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Loại hình dân tộc này được gọi là dân tộc tiền
tư bản.
2: Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc
Thuật ngữ “dân tộc” bắt nguồn từ chữ latinh là “Natio, có gốc từ chữ
Nasci”, có nghĩa là sinh ra.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa, trong đó có hai nghĩa
được sử dụng phổ biến nhất:
- Nghĩa rộng dân tộc - quốc gia (Nation): là khái niệm dùng
để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh
thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử
lâu dài dựng nước và giữ nước. Ví dụ như dân tộc Việt Nam, dân tộc Ấn Độ,
dân tộc Lào,…
Theo nghĩa rộng, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
Có chung một vùng lãnh thổ ổn định: Lãnh thổ là không gian xác định
không gian sinh tồn, vị trí địa lý của một dân tộc, biểu thị vùng đất, vùng
trời, vùng biển mà dân tộc có quyền được sở hữu; là kết quả của quá trình
lao động kiến tạo của cả dân tộc được thể chế thành pháp luật quốc gia và
quốc tế, là chủ quyền không thể chia cắt, nền tảng thiêng liêng hình thành
nên Tổ quốc. Trên không gian đó, các cộng đồng tộc người có quan hệ gắn
8
bó, cư trú đan xen với nhau. Vận mệnh của cộng đồng tộc người đi liền với
việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế: Mác - Ăng ghen đã cho
thấy rằng động lực gắn kết các dân tộc thành một nhà nước, một quốc gia thống
nhất chính là yếu tố kinh tế. Tồn tại nhiều giai cấp trong một quốc gia dân tộc
có lợi ích khác nhau, tuy nhiên phải có sự tương đồng về lợi ích, sự tương đồng
ấy càng lớn thì tính thống nhất dân tộc càng cao. Tính thống nhất, tương đồng
về kinh tế luôn là nền tảng cho sự vững chắc, chặt chẽ của cộng đồng dân tộc.
Nếu thiếu đi điều đó thì cộng đồng người chưa thể trở thành dân tộc.
Có chung một ngôn ngữ làm ngôn ngữ giao tiếp: Ngôn ngữ là phương
tiện quan trọng nhất trong giao tiếp của mỗi dân tộc, là kết quả của quá trình
phát triển lâu dài về kinh tế - xã hội của dân tộc và là một biểu tượng cho
thấy sự trường tồn của mỗi dân tộc. Mỗi một dân tộc đều có ngôn ngữ
riêng , bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Trong một quốc gia có
nhiều cộng đồng tộc người với các ngôn ngữ khác nhau, nhưng bao giờ cùng
có một ngôn ngữ chung, thống nhất.
Có chung một nền văn hóa và tâm lý: Văn hóa là môt trong những
yếu tố gắn kết cộng đồng chặt chẽ, thống nhất; được biểu hiện thông qua
tâm lý, tính cách, phong tục, tập quán, lối sống dân tộc, tạo nên từng bản sắc
riêng của từng dân tộc. Văn hóa của một dân tộc phải đi liền với việc giao
lưu văn hóa của các dân tộc khác. Tuy nhiên, trong giao lưu văn hóa, các
dân tộc phải có ý thức bảo tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh tình
trạng đồng hóa về văn hóa.
- Nghĩa hẹp dân tộc - tộc người (Ethnie): là khái niệm dùng
để chỉ một cộng đồng tộc người được hình thành trong lịch sử, có mối liên
hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và
văn hóa. Chẳng hạn, Việt Nam là quốc gia 54 dân tộc, tức 54 cộng đồng tộc
người.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
9
Cộng đồng về ngôn ngữ: Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người
khác nhau (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng ngôn ngữ nói) và
là vấn đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Hơn cả, ngôn ngữ là cách thức
giao tiếp nhằm liên kết những thành viên trong cùng một tộc người với nhau thống
nhất, đồng thời bảo tồn và phát triền văn hóa tộc người. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triền tộc người, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không
còn ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp; trái lại có
những tộc người sử dụng cả tiếng mẹ đẻ cùng lúc với nhiều ngôn ngữ khác.
Cộng đồng về văn hóa: Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể ở mỗi tộc người; phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo của tộc người đó được hình thành và sáng tạo trong quá trình phát
triển lịch sử của mình, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa đóng
vai trò phân biệt, nhận dạng các dân tộc với nhau. Bởi vậy, ngày nay, cùng với xu
thế giao lưu văn hóa vẫn song song tồn tại xu thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hoa của mỗi tộc người.
Ý thức tự giác tộc người: Đây được xem là tiêu chí quan trọng nhất để phân
định một tộc người và có yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc
người. Trong đó, đặc trưng nổi bật là các tộc người luôn ý thức được về nguồn gốc,
tộc danh của dân tộc mình cũng như ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển
của mỗi tộc người dù cho có những tác động làm đổi thay địa bàn cư trú, lãnh thổ
hay ảnh hưởng của kinh tế, văn hóa,…Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác
tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người.
Suy cho cùng, hai khái niệm trên về dân tộc tuy không đồng nhất nhưng lại có mối
quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc tộc người;
dân tộc tộc người là bộ phận cấu thành dân tộc quốc gia.
3: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
3.1: Xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Nghiên cứu vấn đề dân tộc, V.I.Lênin phát hiện ra hai xu hướng
1
khách quan trong sự phát triển quan hệ dân tộc:
- Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành
cộng đồng dân tộc độc lập. Xu hướng này xuất hiện ở những nước tư bản chủ
nghĩa gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau có sự
trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, muốn tách ra để
hình thành quốc gia dân tộc độc lập có một chính phủ, một hiến pháp, một thị
trường chung nhằm phục vụ cho sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Xu hướng này thể hiện rõ nét trong phong trào đấu tranh giành độc lập
dân tộc của các dân tộc thuộc địa muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước
thực dân, đế quốc.
- Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân
tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này chiếm ưu thế trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Nguyên nhân dẫn
đến xu hướng này là do sự phát triển của lực lượng sản xuất , của khoa học công
nghệ và giao lưu kinh tế - văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu
xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho các dân tộc tiến lại gần
nhau vì lợi ích chung (sự hình thành của liên minh châu Âu, của khối ASEAN,…).
Hai xu hướng này vận động trong hoàn cảnh chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều
khó khăn, trở ngại. Chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đã xóa bỏ nguyện
vọng của các dân tộc muốn được sống độc lập, tự do. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho
rằng chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng người bóc lột người bị
thủ tiêu thì tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc mới bị xóa bỏ. Cũng chỉ
khi đó, hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thực
hiện đầy đủ, đúng đắn.
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng đó có thể phát huy tác
dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra ở từng dân tộc, trong cả cộng
đồng quốc gia. Sự phát triển nhằm đi tới tự chủ, phồn vinh của từng dân tộc sẽ tạo
cơ hội cho dân tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và tinh thần để hợp tác chặt
chẽ trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện với các dân tộc anh em. Sự xích lại gần nhau
1
giữa các dân tộc trong cùng quốc gia có nghĩa là những tinh hoa, những giá trị của
c dân tộc đó thâm nhập, giao thoa lẫn nhau, bổ sung hòa quyện để tạo thành
những giá trị chung. Giá trị chung đó là kết quả đóng góp của các dân tộc, lại trở
thành cơ sở để liên kết các dân tộc đó ở một trình độ cao hơn. Sự xích lại gần nhau
giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh hơn tới tự chủ, phồn
vinh. Điều đó cho phép mỗi dân tộc không chỉ sử dụng tiềm năng của dân tộc mình
mà còn dựa vào tiềm năng của các dân tộc khác để phát triển mình.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin phát hiện
đang phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú
và đa dạng.
3.2: Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin
3.2.1: Khái niệm cương lĩnh dân tộc
Theo từ điển Tiếng Việt, cương lĩnh là mục tiêu phấn đấu và các
bước tiến hành của một tổ chức chính trị, một chính Đảng.
Theo V.I.Lênin, cương lĩnh là bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và
chính xác nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục đích
gì mà Đảng đấu tranh.
Cương lĩnh dân tộc là mục đích, đường lối, nhiệm vụ cơ bản của giai
cấp công nhân và các Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc.
3.2.2: Nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân
tộc với giai cấp; kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát
triển dân tộc; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và
thực tiễn cách mạng Nga trong việc giải quyết vấn đề dân tộc những năm
đầu thế kỷ XX, Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin đã khái quát: “Các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc lại”.
1
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây được xem là nội dung cơ bản của cương lĩnh dân tộc, là quyền thiêng
liêng của các dân tộc nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung. Cụ thể là
không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, đạt trình độ phát triển cao hay thấp;
các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả lĩnh vực của
đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa.
Bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là thủ tiêu tình trạng người bóc lột
người cũng như dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Tiếp đó phải từng bước
khắc phục tình trạng chênh lệch trong sự phát triển của các dân tộc, tạo điều
kiện thuận lợi, tích cực để các dân tộc đang ở trình độ thấp, lạc hậu được
học hỏi, tiếp thu sự phát triển từ các dân tộc anh em. Sự bình đẳng toàn diện
giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… phải được ghi nhận
về pháp lý và quan trọng hơn là phải được thực hiện trong thực tế. Bình
đẳng giữa các dân tộc cũng chính là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động
các nước.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết.
Các dân tộc được quyền tự quyết, đó là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi
dân tộc: quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân
tộc mình, bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự
nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù
hợp với lợi ích chính đáng của các dân tộc. Theo Lênin: “Quyền dân tộc tự
quyết, nghĩa là quyền phân lập và thành lập quốc gia dân tộc riêng biệt”
[2, tr.115]. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát
1
từ thực tiễn - cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công
nhân.
V.I.Lênin luôn cho thấy quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết
vấn đề tự quyết của các dân tộc. Điển hình như: Vào những năm trước Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, Lênin ủng hộ yêu sách của các dân tộc
bị áp bức, đòi phân lập. Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin ủng hộ nguyện
vọng liên hiệp lại của các dân tộc. Như vậy, có thể thấy V.I.Lênin triệt để
đấu tranh chống áp bức dân tộc, đồng thời quyết tâm đấu tranh xóa bỏ
những trở ngại để các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau.
Song quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với quyền của các tộc người
thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc
gia độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống phá mọi âm mưu của các thế lực
phản động lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để phá hoại khối đại đoàn kết.
Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ảnh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp: phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế chân chính.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng
lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng để liên
kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thế. Cương lĩnh dân tộc
của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng để các Đảng cộng sản vận
dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của
các Đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản
1
ánh sự thống nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó
đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công
nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương
pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc.
Đồng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ
sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội
dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc
là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành một sức
mạnh vô cùng to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang
lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách
mạng vô sản.
Nghiên cứu phong trào yêu ước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì
"đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, lối đi của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác
gì “xin giặc rủ lòng thương”còn giải pháp của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế
hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến. Đất nước lâm vào “tình hình đen
tối tưởng như không có đường ra". Bởi vậy, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu
nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ, mà
quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Pháp để tìm hiểu thực tiễn cuộc
cách mạng tư sản của họ. Người thấy được: Cách mạng Pháp cũng như cách mạng
Mỹ là không triệt để. Vì thế, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
1
Mặt khác, với bước tiến của thành công Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường
giải phóng dân tộc được khai sáng, các phong trào dân tộc được cổ vũ, khích lệ ở
các nước thuộc địa đấu tranh chống lại ách áp bức. Hồ Chí Minh hiểu được Cách
mạng Tháng Mười không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc.
Tháng 7- 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương và vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Người đã tìm thấy con đường cứu nước
cho dân tộc. Chính trong tác phầm đó, Lênin khẳng định: “Chỉ có chế độ Xô Viết là
chế độ có thể thật sự đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bằng cách thực
hiện trước hết sự đoàn kết tất cả những người vô sản, rồi đến toàn thể quần chúng
lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản; và hai là, tất cả các Đảng
cộng sản phải trực tiếp ủng hộ các phong trào cách mạng của các dân tộc phụ
thuộc hoặc không được hưởng đầy đủ quyền bình đẳng”. Hiểu được điều đó, Hồ
Chí Minh đã rút ra kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
dân tộc, cả hai cuộc giải phóng nầy chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản”. Qua nghiên cứu luận cương, Người đã hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế
thứ ba. Tiếp đó, trong Chính cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo được Hội
nghị thông qua năm 1930 đã xác định rõ con đường cách mạng Việt Nam là làm
cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới cộng sản xã hội.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với việc bám sát thực tiễn,
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp của chúng ta. Người đề cao dân tộc nhưng không hạ thấp giai cấp, chủ
trương kết hợp nhuần nhuyễn các vấn đề dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa quốc tế vô sản,
vừa giành độc lập cho dân tộc mình, vừa giành độc lập cho dân tộc bạn. Bên cạnh
đó, Người chỉ rõ mục tiêu chính của cuộc cách mạng là làm sụp đổ phong kiến để
giành lại quyền dân chủ, đồng thời đánh đuổi thực dân để giành độc lập, tự do cho
dân tộc và tạo điều kiện phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
1
Cách mạng Tháng Tám thành công cùng với sự thắng lợi của các cuộc kháng chiến
chống Pháp, Mỹ, đất nước ta giành được độc lập, tự do đã chứng tỏ tư tưởng của
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Vận dụng sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc điểm tự nhiên xã hội
Việt Nam và nhu cầu, nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam, đất nước ta tiếp
tục định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc.
Hồ Chí Minh khẳng định 54 dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam liên kết với
nhau tạo nên cộng đồng chung, bền vững được hình thành trên quá trình lịch sử dân
tộc lâu dài. Người còn cho rằng: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia
rai hay Ê đê, Xê đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt” [ 4, tr.217] và bày tỏ quan điểm tính đa dạng là điểm
mạnh của bản sắc dân tộc: [5, tr.314]. “Nước ta có nhiều dân tộc đấy là điểm tốt”
Trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta bên cạnh những nét chung là những điểm
khác biệt làm nên tính độc nhất của mỗi dân tộc. Đó được xem như là một trong
những tiềm năng to lớn của vùng đồng bào các dân tộc và miền núi cần được khai
thác cho công cuộc xây dựng đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến cái
chung, cái thống nhất nhưng không bao giờ xem nhẹ tính đặc thù, nét riêng.
Các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Playcu, Hồ Chí Minh
viết: “Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta… Giang sơn chính phủ
là giang sơn chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải
1
đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn non nước ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải
yêu thương nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc
chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng
lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”. [4, tr.249]
Tư tưởng đoàn kết các dân tộc của Người đã trở thành nền tảng để Đảng ta hoạch
định đường lối, chính sách dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc. Đặc biệt trong cộng
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó mật thiết
giữa các dân tộc cần phải được đẩy lên cao hơn nữa. Có như vậy, mới đem lại được
cuộc sống ấm no, đầy đủ cho toàn dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, tại Hội nghị đại biểu
các dân tộc thiểu số được tổ chức ở Hà Nội, Người đã khẳng định: “Nhờ sức đoàn
kết đấu tranh chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập,
các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị
em trong cùng một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa.
Trước kia các dân tộc để giành độc lập để đoàn kết, bây giờ để giữ nền độc lập
càng cần phải đoàn kết hơn nữa”. [4, tr.130]
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc
uyên truyền, giáo dục ý thức công bằng, bình đẳng: “Chính phủ sẽ gắng sức giúp
cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Về kinh tế, sẽ mở mang nông nghiệp cho các
dân tộc được hưởng; về văn hóa chính phủ sẽ chú ý trình độ học thức cho các dân
tộc; anh em thiểu số chúng ta sẽ được dân tộc bình đẳng; chính phủ sẽ bãi bỏ hết
những điều hủ tục cũ, bao nhiêu bất bình sẽ được sửa chữa đi”. [4, tr.110]
II: Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai
đoạn hiện nay
1: Quan điểm của Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã
coi trọng và làm tốt chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, góp phần làm nên
những thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết
của dân tộc, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các
1
dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Với
quan điểm nhất quán: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các
dân tộc tạo điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ,
gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Đảng
và Nhà nước luôn luôn thực hành trước sau như một chính sách bình đẳng dân tộc
ngay khi Đảng ta ra đời đến nay, nhất là từ lúc giành được chính quyền về tay nhân
dân.
Ngay từ trước đổi mới, tại Đại hội IV - Đại hội đầu tiên khi đất nước thống nhất sau
30 năm giải phóng dân tộc với sự huy động sức mạnh của toàn dân tộc trong đó
đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp hết sức to lớn cho cách mạng
và kháng chiến, Đảng ta đã khẳng định “việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là
một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam”.
Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng về mọi mặt giữa
các dân tộc, góp phần xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa
giữa dân tộc thiểu số và dân tộc đa số. Từ đó, xích lại gần mối quan hệ giữa các dân
tộc để đoàn kết, cùng nhau phát triển toàn diện trên con đường đổi mới.
Đại hội lần thứ V của Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc “phải tăng cường hơn nữa
khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập
thể”.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn xác định đại đoàn kết
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy, tại Đại
hội VI khẳng định, “chính sách dân tộc luôn luôn là một bộ phận trọng yếu trong
chính sách xã hội”. Đồng thời, Đại hội nhấn mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của
từng dân tộc luôn gắn liền với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước
ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật,
1
nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa
dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc.
Có thể nói tầm quan trọng, vị trí của vấn đề dân tộc, trước hết xuất phát từ tầm quan
trọng, vị trí của các dân tộc thiểu số -với tư cách là một bộ phận quan trọng hợp
thành động lực cách mạng để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng đặt ra
cho từng thời kỳ. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, trước những yêu cầu đòi hỏi của
thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày 27 tháng 11 năm 1989, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội
miền núi đã góp phần thúc đẩy phát triển một bước quan trọng kinh tế - xã hội miền
núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, do sự chênh lệch rõ rệt về
phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc đảm bảo sự
bình đẳng của tất cả các dân tộc anh em và coi đây là nhân tố quyết định cho sự
phát triển bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh: “Thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn
ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân
tộc”.
Tiếp đó, trong cương lĩnh tại Đại hội XII thông qua đã nêu: “Thực hiện chính sách
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc
phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.
Vấn đề dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung, chứa đựng những phức
tạp tiềm ẩn dễ bùng phát và rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng. Điển hình về
nguyên nhân Liên Xô sụp đổ không thể không kể đến việc Liên Xô đã không coi
2
trọng, xác định đúng mức vấn đề dân tộc, chủ quan trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Song, thực tế đã bác bỏ quan điểm sai lầm đó. Việc các nước cộng hòa lần lượt
tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, trên
thực tế là lời cảnh tỉnh cho các quốc gia đa dân tộc trong việc phải chú trọng tới vấn
đề dân tộc. Ngày nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, những thời cơ và
thách thức mới cùng với những tác động từ bên ngoài và cả những vấn đề nảy sinh
trong nước đòi hỏi vấn đề dân tộc phải được nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc
hơn.
2: Nội dung sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong
giai đoạn hiện nay
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã có
những chủ trương, chính sách đúng đắn về vấn đề dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát
triển toàn diện đối với tất cả các đồng bào dân tộc Việt Nam.
Trước hết là vấn đề quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực
trong đời sống.
- Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín
ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị dân
tộc và chia rẽ dân tộc. Đó cũng là một trong những nội dung mà Hiến pháp nước ta
(2013) quy định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, n trọng giúp nhau cùng
phát triển; nghm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ n tộc”. Bên cạnh đó, phát
huy hiệu quả sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc có trình độ phát triển cao hơn với
các dân tộc có trình độ lạc hậu.
- Đ ề ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi,
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước
khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc.
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triền kinh tế - hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số miền núi giai đoạn 2021-2030 được Quốc hội ban hành trong Nghị
| 1/27

Preview text:

1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN TIỂU LUẬN
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc và sự vận dụng của
Đảng ộng sản Việt Nam
Hà Nội, tháng 12 năm 2021 2 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................3
1: Lý do nghiên cứu đề tài..........................................................................................3
2: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................4
3: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................4
4: Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.........................................................................4
NỘI DUNG.............................................................................................................5
I: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc..................................................5
1: Sự hình thành dân tộc.............................................................................................5
2: Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc................................................7
3: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc.................................................9
4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc..............................................................14
II: Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai đoạn
hiện nay.....................................................................................................................17
1: Quan điểm của Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc................................................17
2: Nội dung sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện
nay............................................................................................................20
KẾT LUẬN...........................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................27 06 3 MỞ ĐẦU
1: Lý do nghiên cứu đề tài
Tính cấp thiết của đề tài:
Dân tộc là yếu tố cốt yếu để hình thành nên một quốc gia. Bởi vậy, vấn đề
dân tộc có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới bản thân con người nói riêng và toàn
xã hội nói chung. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu với quan điểm: Bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngày nay, trước những cuộc xung đột dân tộc, Nhà nước ta vẫn nhận thức
đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, dân tộc là mối quan hệ đầy tiềm
ẩn, bất ổn đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải thật tỉnh táo, nhạy bén để có thể giải
quyết kịp thời, tránh những vấn đề phức tạp.
Bởi vậy, có thể thấy đây là vấn đề luôn có tính thời sự và cấp bách trong quá
trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, góp phần đấu tranh chống lại mọi luận
điệu sai trái, phản động, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay.
Câu hỏi đề tài: Kết hợp giữa quá trình học tập môn Chủ nghĩa khoa học xã hội
cùng với tình hình xã hội hiện nay, có thể thấy dân tộc luôn là vấn đề đáng quan
tâm, đi liền với sự phát triển của đất nước ta. Vấn đề này đã, đang và sẽ tiếp tục là
yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực xã hội. Bởi vậy,
chúng ta - những người dân Việt Nam cần có những nhận thức đúng đắn về vấn đề 4
dân tộc. Đó cũng là lý do mà em chọn vấn đề này làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
2: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Góp phần làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Từ đó, liên hệ với sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam để nhìn nhận vấn đề dưới cả hai góc nhìn về lý luận và thực tiễn. - Nhiệm vụ:
Những nội dung của đề tài bao gồm các vấn đề sau:
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc
+ Quan điểm của Đảng Cộng sản về dân tộc
+ Sự vận dụng của Đảng Cộng sản về dân tộc trong giai đoạn hiện nay
3: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu xoay quanh vấn đề lý luận dân tộc dưới góc nhìn của
Mác, Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng và sự vận dụng của Đảng từ những góc nhìn đó trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vị nghiên cứu: Việt Nam, từ thế kỷ XIX cho đến giai đoạn ngày nay.
4: Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài dân tộc góp phần tiếp thu những nhận thức đúng đắn,
chính xác về vấn đề dân tộc từ trong quá trình đấu tranh giành chính quyền cho đến
giai đoạn phát triển đất nước như ngày nay. Cụ thể như các tầm quan trọng, ý nghĩa
vai trò của dân tộc đối với một quốc gia dân tộc.
Từ những nhận thức đúng đắn đó, chúng ta ra sức đồng lòng thực hiện tốt các
chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc đồng thời tuyên truyền đến
mọi người về ý nghĩa của dân tộc từ đó tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. 5 NỘI DUNG
I: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
1: Sự hình thành dân tộc
Lịch sử tiến hóa nhân loại đã chứng minh rằng, dân tộc là sản phẩm
của quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người, do sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, khu vực, sự hình thành dân
tộc có những đặc thù khác nhau nhưng nhìn chung vẫn có thể trình bày sự
hình thành đó bằng những nét phổ quát.
Trước khi cộng đồng dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những
hình thức cộng đồng từ thấp đến cao như: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự
hình thành và phát triển dân tộc là một hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp,
có căn nguyên sâu xa từ sự vận động của sản xuất, của kinh tế đồng thời
chịu sự chi phối trực tiếp của nhân tố chính trị, tức là của giai cấp và Nhà
nước trong việc tổ chức nên đời sống xã hội của các cộng đồng người. Mặt
khác, dân tộc ra đời và phát triển còn gắn liền với truyền thống lịch sử và
văn hóa của từng dân tộc.
- Cộng đồng thị tộc: Ăng ghen cho rằng, thị tộc là hình thức
cộng đồng người đầu tiên, là tổ chức xã hội sớm nhất của loài người xuất
hiện ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản nguyên thủy. Thị tộc được hình
thành trên cơ sở những mối liên hệ huyết thống, gồm những người cùng một
tổ tiên. Nền sản xuất lạc hậu, sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm. Đó là
nền kinh tế chiếm đoạt, chưa phải kinh tế sản xuất. Thị tộc đầu tiên là thị tộc
mẫu quyền, trong đó phụ nữ đóng vai trò chi phối. Khi lực lượng sản xuất
phát triển, có sự phân công lao động, hình thành các nghề trồng trọt và chăn 6
nuôi, vai trò của người đàn ông tăng lên. Cũng từ đó, chế độ phụ quyền dần
thay đổi chế độ mẫu quyền.
- Cộng đồng bộ lạc: Bộ lạc được hiểu là một cộng đồng dân cư
được tạo thành từ nhiều thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn
nhân liên kết lại với nhau. Bộ lạc có một lãnh thổ, một tên gọi riêng và đất
đai là tài sản chung của toàn thể bộ lạc; có ngôn ngữ riêng; có thiết chế và
thể chế, tù trưởng, thủ lĩnh quân sự của bộ lạc; mỗi bộ lạc có những quan
niệm riêng về tôn giáo; bộ lạc lập ra hội đồng bộ lạc gồm tất cả các tù
trưởng và các thủ lĩnh quân sự để thảo luận, công khai trước công chúng và
quyết định những công việc chung. Bởi vậy, Ăng ghen xem đó là hình thức
dân chủ sơ khai đầu tiên trong lịch sử. Điển hình, “Ở đây, không thể có
người nghèo khổ và thiếu thốn - nền kinh tế cộng sản và thị tộc biết rõ nghĩa
vụ của mình đối với người già yếu, ốm đau và những người thương tật trong
chiến tranh. Tất cả đều bình đẳng và tự do, kể cả phụ nữ. Chưa có nô lệ và
chưa có sự nô dịch những bộ lạc khác.” [2, tr.30,31]
- Cộng đồng bộ tộc: Ăng ghen chỉ ra, bộ tộc là cộng đồng dân
cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc trên cùng một vùng lãnh
thổ nhất định. Bộ tộc xuất hiện khi “ dân cư ngày càng đông đúc thêm buộc
người ta phải đoàn kết với nhau một cách mật thiết hơn, ở bên trong cũng
như ở bên ngoài. Ở khắp mọi nơi, liên minh của những bộ lạc cùng dòng họ
trở thành một điều cần thiết; không bao lâu thì sự hợp nhất của những lãnh
thổ riêng của các bộ lạc thành một lãnh thổ chung của toàn thể tộc người
cũng trở thành một điều cần thiết” [3, tr.320] . Trong cộng đồng bộ tộc,
những nhân tố tộc người trong cộng đồng thị tộc, bộ lạc được kế thừa và
phát triển ở mức cao hơn nhưng đã chịu sự chi phối của nhân tố kinh tế,
nhân tố giai cấp. Bộ tộc ra đời đánh dấu một nấc thang trong sự phát triển
của xã hội loài người.
- Cộng đồng dân tộc: Theo V.I.Lênin, ở các nước phương Tây
chỉ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, cộng đồng bộ tộc mới phát triển thành dân 7
tộc. Bởi vi, chỉ có trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế
sản xuất hàng hóa - tiền tệ mới có thể ra đời và làm xuất hiện thị trường dân
tộc. Lúc đó, hàng rào ngăn cách giữa các vùng, các bộ tộc lần lượt sụp đổ,
tình trạng cát cứ địa phương bị phá vỡ và dân tộc xuất hiện hoặc là trên cơ
sở một bộ tộc, hoặc là do sự hợp nhất nhiều bộ tộc. Loại hình dân tộc đó do
giai cấp tư sản thống trị, nên được gọi là dân tộc tư sản. Ở một số nước
phương Đông, cộng đồng dân tộc xuất hiện trước chủ nghĩa tư bản do sự
thúc đẩy của nhiều nhân tố cố kết tự nhiên và xã hội trong quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Loại hình dân tộc này được gọi là dân tộc tiền tư bản.
2: Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc
Thuật ngữ “dân tộc” bắt nguồn từ chữ latinh là “Natio, có gốc từ chữ
Nasci”, có nghĩa là sinh ra.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa, trong đó có hai nghĩa
được sử dụng phổ biến nhất:
- Nghĩa rộng dân tộc - quốc gia (Nation): là khái niệm dùng
để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh
thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử
lâu dài dựng nước và giữ nước. Ví dụ như dân tộc Việt Nam, dân tộc Ấn Độ, dân tộc Lào,…
Theo nghĩa rộng, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
Có chung một vùng lãnh thổ ổn định: Lãnh thổ là không gian xác định
không gian sinh tồn, vị trí địa lý của một dân tộc, biểu thị vùng đất, vùng
trời, vùng biển mà dân tộc có quyền được sở hữu; là kết quả của quá trình
lao động kiến tạo của cả dân tộc được thể chế thành pháp luật quốc gia và
quốc tế, là chủ quyền không thể chia cắt, nền tảng thiêng liêng hình thành
nên Tổ quốc. Trên không gian đó, các cộng đồng tộc người có quan hệ gắn 8
bó, cư trú đan xen với nhau. Vận mệnh của cộng đồng tộc người đi liền với
việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế: Mác - Ăng ghen đã cho
thấy rằng động lực gắn kết các dân tộc thành một nhà nước, một quốc gia thống
nhất chính là yếu tố kinh tế. Tồn tại nhiều giai cấp trong một quốc gia dân tộc
có lợi ích khác nhau, tuy nhiên phải có sự tương đồng về lợi ích, sự tương đồng
ấy càng lớn thì tính thống nhất dân tộc càng cao. Tính thống nhất, tương đồng
về kinh tế luôn là nền tảng cho sự vững chắc, chặt chẽ của cộng đồng dân tộc.
Nếu thiếu đi điều đó thì cộng đồng người chưa thể trở thành dân tộc.
Có chung một ngôn ngữ làm ngôn ngữ giao tiếp: Ngôn ngữ là phương
tiện quan trọng nhất trong giao tiếp của mỗi dân tộc, là kết quả của quá trình
phát triển lâu dài về kinh tế - xã hội của dân tộc và là một biểu tượng cho
thấy sự trường tồn của mỗi dân tộc. Mỗi một dân tộc đều có ngôn ngữ
riêng , bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Trong một quốc gia có
nhiều cộng đồng tộc người với các ngôn ngữ khác nhau, nhưng bao giờ cùng
có một ngôn ngữ chung, thống nhất.
Có chung một nền văn hóa và tâm lý: Văn hóa là môt trong những
yếu tố gắn kết cộng đồng chặt chẽ, thống nhất; được biểu hiện thông qua
tâm lý, tính cách, phong tục, tập quán, lối sống dân tộc, tạo nên từng bản sắc
riêng của từng dân tộc. Văn hóa của một dân tộc phải đi liền với việc giao
lưu văn hóa của các dân tộc khác. Tuy nhiên, trong giao lưu văn hóa, các
dân tộc phải có ý thức bảo tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh tình
trạng đồng hóa về văn hóa.
- Nghĩa hẹp dân tộc - tộc người (Ethnie): là khái niệm dùng
để chỉ một cộng đồng tộc người được hình thành trong lịch sử, có mối liên
hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và
văn hóa. Chẳng hạn, Việt Nam là quốc gia 54 dân tộc, tức 54 cộng đồng tộc người.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau: 9
Cộng đồng về ngôn ngữ: Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người
khác nhau (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng ngôn ngữ nói) và
là vấn đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Hơn cả, ngôn ngữ là cách thức
giao tiếp nhằm liên kết những thành viên trong cùng một tộc người với nhau thống
nhất, đồng thời bảo tồn và phát triền văn hóa tộc người. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triền tộc người, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không
còn ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp; trái lại có
những tộc người sử dụng cả tiếng mẹ đẻ cùng lúc với nhiều ngôn ngữ khác.
Cộng đồng về văn hóa: Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể ở mỗi tộc người; phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo của tộc người đó được hình thành và sáng tạo trong quá trình phát
triển lịch sử của mình, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa đóng
vai trò phân biệt, nhận dạng các dân tộc với nhau. Bởi vậy, ngày nay, cùng với xu
thế giao lưu văn hóa vẫn song song tồn tại xu thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hoa của mỗi tộc người.
Ý thức tự giác tộc người: Đây được xem là tiêu chí quan trọng nhất để phân
định một tộc người và có yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc
người. Trong đó, đặc trưng nổi bật là các tộc người luôn ý thức được về nguồn gốc,
tộc danh của dân tộc mình cũng như ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển
của mỗi tộc người dù cho có những tác động làm đổi thay địa bàn cư trú, lãnh thổ
hay ảnh hưởng của kinh tế, văn hóa,…Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác
tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người.
Suy cho cùng, hai khái niệm trên về dân tộc tuy không đồng nhất nhưng lại có mối
quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc tộc người;
dân tộc tộc người là bộ phận cấu thành dân tộc quốc gia.
3: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
3.1: Xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Nghiên cứu vấn đề dân tộc, V.I.Lênin phát hiện ra hai xu hướng 1
khách quan trong sự phát triển quan hệ dân tộc:
- Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành
cộng đồng dân tộc độc lập. Xu hướng này xuất hiện ở những nước tư bản chủ
nghĩa gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau có sự
trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, muốn tách ra để
hình thành quốc gia dân tộc độc lập có một chính phủ, một hiến pháp, một thị
trường chung nhằm phục vụ cho sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Xu hướng này thể hiện rõ nét trong phong trào đấu tranh giành độc lập
dân tộc của các dân tộc thuộc địa muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước thực dân, đế quốc.
- Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân
tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này chiếm ưu thế trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Nguyên nhân dẫn
đến xu hướng này là do sự phát triển của lực lượng sản xuất , của khoa học công
nghệ và giao lưu kinh tế - văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu
xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho các dân tộc tiến lại gần
nhau vì lợi ích chung (sự hình thành của liên minh châu Âu, của khối ASEAN,…).
Hai xu hướng này vận động trong hoàn cảnh chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều
khó khăn, trở ngại. Chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đã xóa bỏ nguyện
vọng của các dân tộc muốn được sống độc lập, tự do. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho
rằng chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng người bóc lột người bị
thủ tiêu thì tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc mới bị xóa bỏ. Cũng chỉ
khi đó, hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thực
hiện đầy đủ, đúng đắn.
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng đó có thể phát huy tác
dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra ở từng dân tộc, trong cả cộng
đồng quốc gia. Sự phát triển nhằm đi tới tự chủ, phồn vinh của từng dân tộc sẽ tạo
cơ hội cho dân tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và tinh thần để hợp tác chặt
chẽ trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện với các dân tộc anh em. Sự xích lại gần nhau 1
giữa các dân tộc trong cùng quốc gia có nghĩa là những tinh hoa, những giá trị của
các dân tộc đó thâm nhập, giao thoa lẫn nhau, bổ sung hòa quyện để tạo thành
những giá trị chung. Giá trị chung đó là kết quả đóng góp của các dân tộc, lại trở
thành cơ sở để liên kết các dân tộc đó ở một trình độ cao hơn. Sự xích lại gần nhau
giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh hơn tới tự chủ, phồn
vinh. Điều đó cho phép mỗi dân tộc không chỉ sử dụng tiềm năng của dân tộc mình
mà còn dựa vào tiềm năng của các dân tộc khác để phát triển mình.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin phát hiện
đang phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa dạng.
3.2: Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin
3.2.1: Khái niệm cương lĩnh dân tộc
Theo từ điển Tiếng Việt, cương lĩnh là mục tiêu phấn đấu và các
bước tiến hành của một tổ chức chính trị, một chính Đảng.
Theo V.I.Lênin, cương lĩnh là bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và
chính xác nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà Đảng đấu tranh.
Cương lĩnh dân tộc là mục đích, đường lối, nhiệm vụ cơ bản của giai
cấp công nhân và các Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc.
3.2.2: Nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân
tộc với giai cấp; kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát
triển dân tộc; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và
thực tiễn cách mạng Nga trong việc giải quyết vấn đề dân tộc những năm
đầu thế kỷ XX, Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin đã khái quát: “Các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc lại”. 1
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây được xem là nội dung cơ bản của cương lĩnh dân tộc, là quyền thiêng
liêng của các dân tộc nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung. Cụ thể là
không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, đạt trình độ phát triển cao hay thấp;
các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả lĩnh vực của
đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
Bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là thủ tiêu tình trạng người bóc lột
người cũng như dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Tiếp đó phải từng bước
khắc phục tình trạng chênh lệch trong sự phát triển của các dân tộc, tạo điều
kiện thuận lợi, tích cực để các dân tộc đang ở trình độ thấp, lạc hậu được
học hỏi, tiếp thu sự phát triển từ các dân tộc anh em. Sự bình đẳng toàn diện
giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… phải được ghi nhận
về pháp lý và quan trọng hơn là phải được thực hiện trong thực tế. Bình
đẳng giữa các dân tộc cũng chính là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động các nước.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết.
Các dân tộc được quyền tự quyết, đó là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi
dân tộc: quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân
tộc mình, bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự
nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù
hợp với lợi ích chính đáng của các dân tộc. Theo Lênin: “Quyền dân tộc tự
quyết, nghĩa là quyền phân lập và thành lập quốc gia dân tộc riêng biệt”
[2, tr.115]. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát 1
từ thực tiễn - cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin luôn cho thấy quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết
vấn đề tự quyết của các dân tộc. Điển hình như: Vào những năm trước Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, Lênin ủng hộ yêu sách của các dân tộc
bị áp bức, đòi phân lập. Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin ủng hộ nguyện
vọng liên hiệp lại của các dân tộc. Như vậy, có thể thấy V.I.Lênin triệt để
đấu tranh chống áp bức dân tộc, đồng thời quyết tâm đấu tranh xóa bỏ
những trở ngại để các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau.
Song quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với quyền của các tộc người
thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc
gia độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống phá mọi âm mưu của các thế lực
phản động lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để phá hoại khối đại đoàn kết.
Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ảnh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp: phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế chân chính.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng
lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng để liên
kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thế. Cương lĩnh dân tộc
của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng để các Đảng cộng sản vận
dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của
các Đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản 1
ánh sự thống nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó
đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công
nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương
pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc.
Đồng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ
sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội
dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc
là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành một sức
mạnh vô cùng to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang
lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô sản.
Nghiên cứu phong trào yêu ước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì
"đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, lối đi của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác
gì “xin giặc rủ lòng thương”còn giải pháp của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế
hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến. Đất nước lâm vào “tình hình đen
tối tưởng như không có đường ra". Bởi vậy, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu
nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ, mà
quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Pháp để tìm hiểu thực tiễn cuộc
cách mạng tư sản của họ. Người thấy được: Cách mạng Pháp cũng như cách mạng
Mỹ là không triệt để. Vì thế, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản. 1
Mặt khác, với bước tiến của thành công Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường
giải phóng dân tộc được khai sáng, các phong trào dân tộc được cổ vũ, khích lệ ở
các nước thuộc địa đấu tranh chống lại ách áp bức. Hồ Chí Minh hiểu được Cách
mạng Tháng Mười không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc.
Tháng 7- 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương và vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Người đã tìm thấy con đường cứu nước
cho dân tộc. Chính trong tác phầm đó, Lênin khẳng định: “Chỉ có chế độ Xô Viết là
chế độ có thể thật sự đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bằng cách thực
hiện trước hết sự đoàn kết tất cả những người vô sản, rồi đến toàn thể quần chúng
lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản; và hai là, tất cả các Đảng
cộng sản phải trực tiếp ủng hộ các phong trào cách mạng của các dân tộc phụ
thuộc hoặc không được hưởng đầy đủ quyền bình đẳng”. Hiểu được điều đó, Hồ
Chí Minh đã rút ra kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
dân tộc, cả hai cuộc giải phóng nầy chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản”. Qua nghiên cứu luận cương, Người đã hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế
thứ ba. Tiếp đó, trong Chính cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo được Hội
nghị thông qua năm 1930 đã xác định rõ con đường cách mạng Việt Nam là làm
cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới cộng sản xã hội.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với việc bám sát thực tiễn,
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp của chúng ta. Người đề cao dân tộc nhưng không hạ thấp giai cấp, chủ
trương kết hợp nhuần nhuyễn các vấn đề dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa quốc tế vô sản,
vừa giành độc lập cho dân tộc mình, vừa giành độc lập cho dân tộc bạn. Bên cạnh
đó, Người chỉ rõ mục tiêu chính của cuộc cách mạng là làm sụp đổ phong kiến để
giành lại quyền dân chủ, đồng thời đánh đuổi thực dân để giành độc lập, tự do cho
dân tộc và tạo điều kiện phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội. 1
Cách mạng Tháng Tám thành công cùng với sự thắng lợi của các cuộc kháng chiến
chống Pháp, Mỹ, đất nước ta giành được độc lập, tự do đã chứng tỏ tư tưởng của
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Vận dụng sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc điểm tự nhiên xã hội
Việt Nam và nhu cầu, nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam, đất nước ta tiếp
tục định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc.
Hồ Chí Minh khẳng định 54 dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam liên kết với
nhau tạo nên cộng đồng chung, bền vững được hình thành trên quá trình lịch sử dân
tộc lâu dài. Người còn cho rằng: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia
rai hay Ê đê, Xê đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt” [ 4, tr.217] và bày tỏ quan điểm tính đa dạng là điểm
mạnh của bản sắc dân tộc: “Nước ta có nhiều dân tộc đấy là điểm tốt” [5, tr.314].
Trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta bên cạnh những nét chung là những điểm
khác biệt làm nên tính độc nhất của mỗi dân tộc. Đó được xem như là một trong
những tiềm năng to lớn của vùng đồng bào các dân tộc và miền núi cần được khai
thác cho công cuộc xây dựng đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến cái
chung, cái thống nhất nhưng không bao giờ xem nhẹ tính đặc thù, nét riêng.
Các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Playcu, Hồ Chí Minh
viết: “Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta… Giang sơn chính phủ
là giang sơn chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải 1
đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn non nước ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải
yêu thương nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc
chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng
lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”. [4, tr.249]
Tư tưởng đoàn kết các dân tộc của Người đã trở thành nền tảng để Đảng ta hoạch
định đường lối, chính sách dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc. Đặc biệt trong cộng
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó mật thiết
giữa các dân tộc cần phải được đẩy lên cao hơn nữa. Có như vậy, mới đem lại được
cuộc sống ấm no, đầy đủ cho toàn dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, tại Hội nghị đại biểu
các dân tộc thiểu số được tổ chức ở Hà Nội, Người đã khẳng định: “Nhờ sức đoàn
kết đấu tranh chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập,
các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị
em trong cùng một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa.
Trước kia các dân tộc để giành độc lập để đoàn kết, bây giờ để giữ nền độc lập
càng cần phải đoàn kết hơn nữa”. [4, tr.130]
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc
uyên truyền, giáo dục ý thức công bằng, bình đẳng: “Chính phủ sẽ gắng sức giúp
cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Về kinh tế, sẽ mở mang nông nghiệp cho các
dân tộc được hưởng; về văn hóa chính phủ sẽ chú ý trình độ học thức cho các dân
tộc; anh em thiểu số chúng ta sẽ được dân tộc bình đẳng; chính phủ sẽ bãi bỏ hết
những điều hủ tục cũ, bao nhiêu bất bình sẽ được sửa chữa đi”. [4, tr.110]
II: Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay
1: Quan điểm của Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã
coi trọng và làm tốt chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, góp phần làm nên
những thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết
của dân tộc, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các 1
dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Với
quan điểm nhất quán: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các
dân tộc tạo điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ,
gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Đảng
và Nhà nước luôn luôn thực hành trước sau như một chính sách bình đẳng dân tộc
ngay khi Đảng ta ra đời đến nay, nhất là từ lúc giành được chính quyền về tay nhân dân.
Ngay từ trước đổi mới, tại Đại hội IV - Đại hội đầu tiên khi đất nước thống nhất sau
30 năm giải phóng dân tộc với sự huy động sức mạnh của toàn dân tộc trong đó
đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp hết sức to lớn cho cách mạng
và kháng chiến, Đảng ta đã khẳng định “việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là
một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam”.
Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng về mọi mặt giữa
các dân tộc, góp phần xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa
giữa dân tộc thiểu số và dân tộc đa số. Từ đó, xích lại gần mối quan hệ giữa các dân
tộc để đoàn kết, cùng nhau phát triển toàn diện trên con đường đổi mới.
Đại hội lần thứ V của Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc “phải tăng cường hơn nữa
khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể”.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn xác định đại đoàn kết
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy, tại Đại
hội VI khẳng định, “chính sách dân tộc luôn luôn là một bộ phận trọng yếu trong
chính sách xã hội”. Đồng thời, Đại hội nhấn mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của
từng dân tộc luôn gắn liền với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước
ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, 1
nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa
dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc.
Có thể nói tầm quan trọng, vị trí của vấn đề dân tộc, trước hết xuất phát từ tầm quan
trọng, vị trí của các dân tộc thiểu số -với tư cách là một bộ phận quan trọng hợp
thành động lực cách mạng để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng đặt ra
cho từng thời kỳ. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, trước những yêu cầu đòi hỏi của
thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày 27 tháng 11 năm 1989, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội
miền núi đã góp phần thúc đẩy phát triển một bước quan trọng kinh tế - xã hội miền
núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, do sự chênh lệch rõ rệt về
phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc đảm bảo sự
bình đẳng của tất cả các dân tộc anh em và coi đây là nhân tố quyết định cho sự
phát triển bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh: “Thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn
ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc”.
Tiếp đó, trong cương lĩnh tại Đại hội XII thông qua đã nêu: “Thực hiện chính sách
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc
phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.
Vấn đề dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung, chứa đựng những phức
tạp tiềm ẩn dễ bùng phát và rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng. Điển hình về
nguyên nhân Liên Xô sụp đổ không thể không kể đến việc Liên Xô đã không coi 2
trọng, xác định đúng mức vấn đề dân tộc, chủ quan trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Song, thực tế đã bác bỏ quan điểm sai lầm đó. Việc các nước cộng hòa lần lượt
tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, trên
thực tế là lời cảnh tỉnh cho các quốc gia đa dân tộc trong việc phải chú trọng tới vấn
đề dân tộc. Ngày nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, những thời cơ và
thách thức mới cùng với những tác động từ bên ngoài và cả những vấn đề nảy sinh
trong nước đòi hỏi vấn đề dân tộc phải được nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn.
2: Nội dung sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã có
những chủ trương, chính sách đúng đắn về vấn đề dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát
triển toàn diện đối với tất cả các đồng bào dân tộc Việt Nam.
Trước hết là vấn đề quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống.
- Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín
ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị dân
tộc và chia rẽ dân tộc. Đó cũng là một trong những nội dung mà Hiến pháp nước ta
(2013) quy định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Bên cạnh đó, phát
huy hiệu quả sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc có trình độ phát triển cao hơn với
các dân tộc có trình độ lạc hậu. -
Đ ề ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi,
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước
khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc.
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triền kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 được Quốc hội ban hành trong Nghị