Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người. Phương thức phát huy và sử dụng động lực con người trong xây dựng đất nước ở Việt Nam hiện nay môn Triết học Mác- Lênin | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Trong Bản luận cương nổi tiếng về L. Phoi ơ bắc, Các Mác viết“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” 1 . Luận điểm trên của chủ nghĩa Mác về bản chất con người đã khắc phục được những hạn chế trong quan niệm về con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy tâm, đồng thời đã đặt nền tảng cho quan điểm duy vật lịch sử trong việc xem xét con người.Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Trường:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 K tài liệu

Thông tin:
13 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người. Phương thức phát huy và sử dụng động lực con người trong xây dựng đất nước ở Việt Nam hiện nay môn Triết học Mác- Lênin | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Trong Bản luận cương nổi tiếng về L. Phoi ơ bắc, Các Mác viết“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” 1 . Luận điểm trên của chủ nghĩa Mác về bản chất con người đã khắc phục được những hạn chế trong quan niệm về con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy tâm, đồng thời đã đặt nền tảng cho quan điểm duy vật lịch sử trong việc xem xét con người.Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

126 63 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 47028186
1 . Lý do chọn đề tài
Trong Bản luận cương nổi tiếng về L. Phoi ơ bắc, Các Mác viết “Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người tổng hoà những quan hệ hội”
1
. Luận
điểm trên của chủ nghĩa Mác về bản chất con người đã khắc phục được những hạn
chế trong quan niệm về con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình chủ nghĩa
duy tâm, đồng thời đã đặt nền tảng cho quan điểm duy vật lịch sử trong việc xem
xét con người. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã xem xét vấn đề bản
chất con người từ hoạt động thực tiễn, từ quan hệ hiện thực của con người. Như
vậy, quan điểm của C.Mác đã cho chúng ta một phương pháp luận khoa học trong
việc nhìn nhận, đánh giá con người trong tổng hoà các quan hệ xã hội hiện thực.
Khẳng định vai trò của con người, C.Mác viết: “Xã hội sản xuất ra con người với
tính cách như thế nào thì nó sản xuất ra xã hội như thế ấy
2
. Kế thừa tưởng của
C. Mác, Lênin cũng khẳng định vai trò quyết định của con người: “Lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn nhân loại người công nhân, người lao động”
3
. tưởng
cơ bản về con người của các nhà kinh điển nêu trên đến Hồ Chí Minh được phát
triển thành luận điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa hội trước hết phải con
người xã hội chủ nghĩa”
4
. Đó cũng là những luận điểmtính nền tảng của chiến
lược con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực quý gnhất
của mỗi quốc gia chính con người. vậy, mục đích phát triển kinh tế hội
của mi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường
thuận lợi đcon người cuộc sống hạnh phúc, sức khoẻ hội phát huy
mọi năng lực sáng tạo. Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo ch
mạng giải phóng dân tộc xây dựng chnghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người với tính cách động lực của
sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà tư tưởng vào thực tiễn
Việt Nam, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng.
Từ những vấn để trên, em chọn nội dung: “Quan điểm của triết học Mác
Lênin về con người. Phương thức phát huy sử dụng động lực con người
trong xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận môn Triết
học.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu: luận giải quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về con người sự vận dụng quan điểm này Việt Nam trên
1
C. Mác và Ph.Ăngghen Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980, tr 257.
2
C. Mác, Bản thảo kinh tế - triết học 1844, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1962, tr 130.
3
Lênin toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, M., 1977, tr 130.
4
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr 13.
lOMoARcPSD| 47028186
phương diện luận cũng như thực tiễn để trên sở đó, đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm góp phần phát triển con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ: Một là, luận giải quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người; Hai là, phân tích sự vận dụng và phát triển
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người trong chiến lược
phát triển con người của Đảng Cộng sản Việt Nam; Ba là, phân tích
thực trạng một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người Việt
Nam
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và chiến lược của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển con người.
Quan điểm của C.Mác về phát triển con người và sự vận dụng quan điểm đó
trong chiến lược phát triển con người của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội
nhập quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp, như phân tích - tổng hợp, lịch sử -
lôgíc, khái quát hoá, trừu tượng hóa. Ngoài ra, tác giả còn kết hợp mt số phương
pháp khác, như hệ thống hoá, đối chiếu, so sánh... để làm rõ vấn đề.
Nội dung
1. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con người
1.1 . Con người là mt thc th thng nht gia mt sinh vt vi mt xã
hi
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm vcon người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực sự thống nhất giữa yếu tsinh học
và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính
loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của
con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là
một bộ phận của tự nhiên.
động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người sản phẩm của
quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó quá trình con người đấu tranh với tnhiên, với thú
dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành
lOMoARcPSD| 47028186
người, điều đó đã chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các
giai đoạn mang tính sinh học con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến
mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người
trước hết một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những nhân con người sống,
tổ chức thể của con người mối quan hệ của đối với tự nhiên. Những
thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát
triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật mặt hội. Trong lịch sđã những quan niệm khác nhau
phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao
động. Là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy.
Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chnhấn mạnh một khía cạnh
nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của
bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó,
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người:
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt
với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những liệu sinh hoạt của
mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình”.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên : “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì
tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Tính hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông
qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất tinh
thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành phát triển ngôn ngữ duy; xác
lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất
hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách nhân trong cộng đồng
hội.
sản phẩm của tự nhiên và hội nên quá trình hình thành phát triển
của con người luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống
nhất với nhau.
Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sphù hợp thể với môi
trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định
lOMoARcPSD| 47028186
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý - ý thức hình
thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm,
khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luậthội quy định quan hệ xã hội
giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học mặt hội. Mối quan hệ
sinh học và hội là sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học nhu
cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản suất
xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần .
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mặt sinh học mặt hội, cũng như nhu cầu sinh học nhu cầu hội trong
mỗi con người thống nhất. Mặt sinh học sở tất yếu tự nhiên của con người,
còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu
sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt
nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt
trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa,
con người tự nhiên - xã hội .
1.2 . Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt
lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan
hệ với xã hội quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy
đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là
quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác mọi hoạt động trong
chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng trong Luận cương vPhoiơbắc :“Bản chất con người không phải
một cái trừu tượng cố hữu của nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không con người trừu tượng thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá tr vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại;
quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc
lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh
sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội
lOMoARcPSD| 47028186
đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không thấy
được bản chất hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ
biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là duy cái duy nhất. Do đó cần phải
thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú đa dạng của mỗi cá nhân về cả
phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội .
1.3 . Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không thế giới tự nhiên, không lịch sử hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của
lịch sử - hội. C.Mác đã khẳng định Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng
con người sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết ấy quên
rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh bản thân nhà giáo dục
cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên,
Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của
chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra và trong chừng mực chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy
thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu”.
Nvậy, với cách thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong
phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tnhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người sản phẩm của lịch sử, đồng thời chủ thể sáng tạo ra lịch scủa
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội. Trên sở nắm bắt quy luật của lịch sử hội, con người thông qua hoạt
động vật chất tinh thần, thúc đẩy hội phát triển tthấp đến cao, phù hợp với
mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra . Không có hoạt động của con người thì
cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch
sử xã hội loài người .
Không con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với
điều kiện lịch sử hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi
cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc là tổng hcác
quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách
chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho
lOMoARcPSD| 47028186
phù hợp. thể nói rằng, mỗi sự vận động tiến lên của lịch sử sẽ quy định
tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất
con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị tính mục đích, tự giác, ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử xã hội loài người.
2 . Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và phát huy
động lực con người
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã
hội mới, Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, vai tquyết định
nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh
của dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn kiên trì con đường
phát triển theo định hướng hội chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng con người, hướng đến con người. Trong
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong những yếu
tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành công những thuận lợi, cơ
hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ thuộc
đáng kể vào con người.
Vấn đề con người được đề cập đầu tiên tại Đại hội lần thứ IV của Đảng
được đề cập cụ thể, trực tiếp trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời k
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm 1991). Trong Cương
lĩnh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã
hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ, nền kinh tế phát triển cao
và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mi người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ
được đảm bảo. vậy, phương hướng, mục tiêu lớn của chính sách hội được
đề cập trong Cương lĩnh, Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở
đảm bảo ng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần;
giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với
tập thể và cộng đồng xã hội”
5
5
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật,
Hà Nội, tr.12-13.
lOMoARcPSD| 47028186
Quan điểm này của Đảng được xây dựng trên những cơ sở khoa học của ch
nghĩa Mác - Lênin xuất phát tđặc điểm lịch scụ thể của đất nước. Do đó,
Đảng ta khẳng định phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện các chính
sách xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà trong xã hội, trong đó con người
được đặt vào vị trí trung tâm.
Trong đường lối phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn những định
hướng chuẩn giá trị cho việc xây dựng con người Việt Nam. Điều đó được phản
ánh trong việc Đảng ta luôn coi trọng, đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục đào
tạo, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đây là điều kiện để hình thành và phát
triển các thế hệ con người Việt Nam khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, có
trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã
nhấn mạnh rằng: con người vốn quý nhất muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Với những định hướng đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò của nhân tcon
người, chúng ta đã xây nên những thế hệ con người Việt Nam tưởng cách
mạng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, ý thức ràng về độc lập dân
tộc chủ nghĩa hội. Chính những chuẩn giá trđó là động lực quan trọng thúc
đẩy con người Việt Nam chiến đấu, lao động, học tập và sáng tạo, đem lại những
thắng lợi đáng tự hào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên thời kỳ trước đổi mới, chúng ta chưa nhận thức hết những nhân tố
tác động đến phát triển kinh tế - hội, trong đó nhiều yếu tố liên quan đến
vấn đề con người và động lực phát triển con người. Trong suốt một thời gian dài,
chúng ta đã quá đề cao lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng, trong
khi đó lợi ích nhân không được quan tâm đúng mức, thậm chí rất mờ nhạt.
Chính vì vậy không tạo được động lực hoạt động của mỗi cá nhân trong xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề con người đã được
Đảng ta đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ đổi mới không có mục tiêu, động lực nào khác
nào khác ngoài xuất phát từ con người và vì con người. Con người vừa là chủ thể
vừa động lực vừa mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Đổi mới bắt đầu từ con
người hướng đến con người. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu, nội dung đổi mới,
Đảng ta cũng đã nhìn nhận con người một cách cụ thể hiện thực hơn. Con người
đây không phải con người chung chung là con người cụ thể, con người
hội với tính cách là một nhân cách phát triển. Sự hoàn thiện và phát triển của mỗi
cá nhân với những nhu cầu và năng lực tự nó là nền tảng của sự phát triển xã hội.
Sự nghiệp đổi mới chỉ thành công khi từng nhân phát triển với cách chủ
thể ý thức. Thực tiễn đã chứng minh không phải bộ máy, cũng không phải
khâu nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó mà chính là con
lOMoARcPSD| 47028186
người với những phẩm chất năng lực nhất định quyết định sức mạnh của đổi
mới”
6
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội khởi xướng sự nghiệp
đổi mới, đã khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố con người và bắt đầu bằng
mệnh đề “Đổi mới tư duy” . Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa hội chiến lược ổn định phát triển kinh tế - hội
đến năm 2000”, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.
Đại hội VII tiếp tục khẳng định quan điểm “coi mục tiêu và động lực của sự phát
triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan
điểm về sự thống nhất giữa mc tiêu của chính sách xã hội - tất cả vì con người”,
“mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, hình thành đội ngũ lao động trí thức, tay nghề, năng lực thực
hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội”
7
.
Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội đưa đất nước ta
tiến vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng
định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người yếu tố phát triển nhanh và bền
vững. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn
hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”
8
.
Đại hội lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định nhấn mạnh “nguồn lực con
người - yếu tố bản đphát triển hội, tăng trưởng kinh tế nhanh bền vững”,
“mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ
hài hòa trong gia đình, cộng đồng và hội”
9
. Quan điểm này một lần nữa được
Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội lần thứ XI: Phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất nguồn nhân lực chất lượng cao một đột phá chiến lược,
yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển ng dụng khoa học, công nghệ,
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững”
10
.
Tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức,
nhân cách, lối sống, trí tuệ năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa
6
Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người xây dựng con người Việt Nam trong thời k
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.144
7
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII , Nhà xuất bản Sự thật,
Nội. tr.8
8
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII , Nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội., tr.143
9
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.143
10
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.130
lOMoARcPSD| 47028186
lành mạnh”
11
. Như vậy, vấn đề con người phát huy nhân tố con người Đại
hội XII được tiếp cận một cách toàn diện và hệ thống hơn. Con người được nhìn
nhận trên cả hai phương diện cá nhân và cộng đồng, đồng thời thể hiện rõ những
điều kiện về vật chất và tinh thần đảm bảo cho con người phát triển toàn diện hơn.
Kế thừa phát triển những nội dung cốt lõi về vấn đề con người trong s
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của
Đảng đã khái quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, phát
triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế
- xã hội đất nước.
Trước hết, lấy con người làm trung tâm và kiên định phát triển con người
Việt Nam toàn diện. Đảng ta chủ trương: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi
con người trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất mục tiêu của sự
phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Namnền tảng, sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm phát triển bền vững; phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh
thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng
vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân”
12
.
Như vậy, có thể khẳng định rằng suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm đến vấn đề con người và phát huy nhân tố con người. Nhờ vậy, sau
hơn 35 năm đổi mới toàn diện “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa hội và bảo vệ Tổ quốc
hội chủ nghĩa”
13
. Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội
phát triển lớn; song bên cạnh đó còn không ít những khó khăn, thách thức phải
vượt qua.
Để tiếp tục phát huy nhân tcon người một cách hợp, hiệu quả, phù hợp
với thực tiễn cách mạng đang đặt ra hiện nay, cần phải một hệ thống các giải
pháp đồng bộ:
Thứ nhất, phát triển mạnh mgiáo dục đào tạo, xây dựng tiềm lực trí
tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: một dân tộc dốt một dân tộc
yếu và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”
14
. Trí tuệ một trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân
tố con người, nhất trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ những
11
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, tr.53
12
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, tập 1, tr. 215 - 216.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, tr.68
14
Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.122
lOMoARcPSD| 47028186
bước phát triển nhảy vọt, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và
sự xuất hiện của kinh tế tri thức hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công
tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con người, trước hết với các thế hệ trẻ -
những chủ nhân tương lai của đất nước.
Tuy nhiên để phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo sử dụng hợp lý,
hiệu quả lực lượng lao động. Đồng thời, cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân
trí và phát triển nguồn nhân lực đồng đều các vùng miền, các cộng đồng hội;
gắn chiến lược phát triển khoa học công nghệ với nâng cao hàm lượng trí tuệ trong
nhân tố con người. Từ chỗ nguồn lực con người bảo đảm về chất lượng, cần
xây dựng và thực hiện những phương thức, cơ chế phát huy nguồn lực đó lâu dài
bền vững. lẽ đó, Đại hội XII của Đảng đã chủ trương “Quy hoạch lại
mạng lưới sở giáo dục nghề, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực với những giải
pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân
lực trong nhà trường cũng như quá trình sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao
tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.
Hai là tạo lập môi trường để hoàn thiện và phát triển con người.
Trên cơ sở lý luận về con người trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Con người trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời chủ thể phát triển”
15
. vậy để xây dựng con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, trước hết cần phải tạo ra một môi
trường kinh tế phát triển, môi trường chính trị ổn định, môi trường văn hóa xã hội
lành mạnh, trong đó mỗi nhân sống, lao động sáng tạo, cống hiến hưởng thụ
hài hòa. Đó là, “một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, ng bằng, văn minh;
do nhân dân làm chủ; nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại quan hsản xuất tiến bộ phù hợp; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”
16
.
Ba là tạo động lực để phát huy nhân tố con người.
Bên cạnh việc xây dựng phát triển con người với tính cách mỗi nhân
cách phát triển, việc phát huy nhân tố con người cũng là vấn đề có ý nghĩa quyết
định thành công của sự nghiệp đổi mới. Để phát huy nhân tố con người cần phải
15
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr76
16
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr70
lOMoARcPSD| 47028186
giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích - giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể,
giữa lợi ích riêng lợi ích chung. Con người bao giờ cũng tồn tại và phát triển
trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, đây là mối quan hệ thống nhất có
tác động nhân quả. Mỗi nhân đơn lẻ không làm nên hội xã hội bao giờ
cũng là tập hợp của những cá nhân trong mối quan hệ của họ. Nói cách khác, do
lợi ích và thông qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp, liên kết và
mối quan hệ. Ăngghen đã khẳng định: đâu không lợi ích chung thì đó không
thể sự thống nhất về mục đích càng không thể thống nhất về hành động
được. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng: chừng nào còn sự chia cắt giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung... chừng đó bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng
xã hội đối lập với con người dịch con người, chứ không phải bị con người
thống trị.
Không chỉ quan tâm đến lợi riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam còn thực hiện
các chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa phục vụ lợi
ích chung. Lợi ích chung luôn bao hàm không mâu thuẫn với lợi ích riêng và
lợi ích cá nhân.
Từ những sự phân tích trên, thkhẳng định, việc giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích nhân lợi ích cộng
đồng, hội sẽ tạo động lực cho sự phát triển con người nói riêng hội nói
chung, nĂngghen đã chỉ rõ, lịch sử chẳng qua chỉ hoạt động theo đuổi lợi
ích của mình.
Công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua đã đạt được những thành tựu rất to lớn,
tăng trưởng kinh tế nhanh bền vững, đất nước đang từng bước chuyển mình,
phát triển. Vậy, đâu động lực nếu không phải kết quả các chính sách của
Đảng về sự thay đổi cơ cấu quan hệ lợi ích trong thực tiễn cuộc sống.
Thời ktrước đổi mới, lợi ích tập thể được đề cao, thậm chí còn lấn át lợi ích
nhân. Chính vậy đã hạn chế động lực của con người, dẫn đến tình trạng thiếu
trách nhiệm đối với các hoạt động chung, “cha chung không ai khóc”... tạo nên
sức ỳ, hạn chế tinh thần sáng tạo của mỗi cá nhân. Từ khi đất nước bước vào đổi
mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, chế thị
trường với tính đặc thù của nó đã thừa nhận tính hợp lý và thỏa mãn tối đa lợi ích
nhân chính đáng. Trên mặt ch cực của nó, lợi ích nhân thực sự kích
thích tố” quan trọng thôi thúc con người tích cực hoạt động, năng động sáng
tạo. Chính trong quá trình tham gia chđộng tích cực các hoạt động kinh tế hướng
đến lợi ích, con người phát triển toàn diện hơn.
Trên sở các kỳ Đại hội trước, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đặt vấn
đề giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội, giữa
lợi ích chung và lợi ích riêng một cách phù hợp đúng mức và cần thiết. Việc quan
tâm đúng mức đến lợi ích của cá nhân, đặt lợi ích của cá nhân trong mục tiêu đạt
được lợi ích tập thể sẽ thôi thúc con người phát huy tối đa năng lực của bản thân
góp phần thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, thay đổi cơ cấu lợi ích
lOMoARcPSD| 47028186
trong thực tiễn đời sống xã hội và cá nhân nhằm phát huy nhân tố con người cần
phải tránh cả hai khuynh hướng: tuyệt đối hóa lợi ích riêng cũng như tuyệt đối hóa
lợi ích chung. Bởi tuyệt đối hóa lợi ích riêng, vô hình chung đã đẩy tự do cá nhân
thành chủ nghĩa nhân sẽ đẩy mỗi nhân lao vào sản xuất kinh doanh, làm giàu
bằng mọi cách, bất chấp cả pháp luật, đạo lý, lao vào “cuộc chiến tranh của tất c
mọi người chống mọi người, cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”. Tuyệt
đối hóa lợi ích chung, lợi ích tập thể, cộng đồng, sẽ dẫn đến vi phạm quyền tự do
nhân, giảm động lực hoạt động, phát triển của mỗi nhân; đồng thời cũng
ngăn cản sự vận động và phát triển của cộng đồng, xã hội.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích cá
nhân lợi ích cộng đồng, hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII là: lợi ích
chung đóng vai tđịnh hướng cho các hoạt động xã hội nhằm phát huy mọi tiềm
năng của các thành phần kinh tế, của toàn hội để xây dựng một xã hội “dân
giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, với quan điểm “Gắn kết chặt
chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất
lượng đời sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt
hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng phát triển đất nước… Thực
hiện tốt chính sách chăm c người công trên sở huy động mọi nguồn lực
hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước”; lợi ích riêng, lợi ích nhân đóng
vai tđộng lực thúc đẩy tính tích cực, năng động, chủ động sáng tạo của con
người, tạo điều kiện để hướng đến “mọi người dân đều hội và điều kiện phát
triển toàn diện”.
lOMoARcPSD| 47028186
Kết luận
Như vậy, vấn đề con người phát huy nhân tố con người luôn được Đảng
Cộng sản Việt Nam quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước,
với quan điểm đổi mới xuất phát từ con người, vì mục tiêu con người “lấy việc
phát huy nguồn lực con người là yếu tố bản cho sự phát triển nhanh bền
vững”. Sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực đặc biệt là nguồn lực con người,
“đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; để lại những bài
học sâu sắc cho cách mạng Việt Nam, trong đó “đổi mới phải luôn quán triệt quan
điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân phát huy vai trò làm chủ,
tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo nguồn lực của nhân dân…”. Trong những
năm tiếp theo, đất nước ta đang đứng trước những thời thách thức mới, để
tiếp tục phát huy nhân tố con người trong điều kiện cách mạng mới nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, cần phải có một hệ
thống các giải pháp đồng bộ, trong đó, tập trung vào một số giải pháp như: Phát
triển mạnh mgiáo dục và đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao
cho đất nước; tạo lập môi trường đhoàn thiện phát triển con người; đồng thời
tạo động lực để phát huy nhân tố con người, vì mt xã hội “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”… con người cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
| 1/13

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47028186
1 . Lý do chọn đề tài
Trong Bản luận cương nổi tiếng về L. Phoi ơ bắc, Các Mác viết “Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”1. Luận
điểm trên của chủ nghĩa Mác về bản chất con người đã khắc phục được những hạn
chế trong quan niệm về con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa
duy tâm, đồng thời đã đặt nền tảng cho quan điểm duy vật lịch sử trong việc xem
xét con người. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã xem xét vấn đề bản
chất con người từ hoạt động thực tiễn, từ quan hệ hiện thực của con người. Như
vậy, quan điểm của C.Mác đã cho chúng ta một phương pháp luận khoa học trong
việc nhìn nhận, đánh giá con người trong tổng hoà các quan hệ xã hội hiện thực.
Khẳng định vai trò của con người, C.Mác viết: “Xã hội sản xuất ra con người với
tính cách như thế nào thì nó sản xuất ra xã hội như thế ấy”2. Kế thừa tư tưởng của
C. Mác, Lênin cũng khẳng định vai trò quyết định của con người: “Lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn nhân loại là người công nhân, người lao động”3. Tư tưởng
cơ bản về con người của các nhà kinh điển nêu trên đến Hồ Chí Minh được phát
triển thành luận điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa”4. Đó cũng là những luận điểm có tính nền tảng của chiến
lược con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất
của mỗi quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế xã hội
của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường
thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy
mọi năng lực sáng tạo. Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người với tính cách là động lực của
sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà tư tưởng vào thực tiễn
Việt Nam, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng.
Từ những vấn để trên, em chọn nội dung: “Quan điểm của triết học Mác –
Lênin về con người. Phương thức phát huy và sử dụng động lực con người
trong xây dựng đất nước ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài tiểu luận môn Triết học.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1.
Mục tiêu: luận giải quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về con người và sự vận dụng quan điểm này ở Việt Nam trên
1 C. Mác và Ph.Ăngghen Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980, tr 257.
2 C. Mác, Bản thảo kinh tế - triết học 1844, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1962, tr 130.
3 Lênin toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, M., 1977, tr 130.
4 Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr 13. lOMoAR cPSD| 47028186
phương diện lý luận cũng như thực tiễn để trên cơ sở đó, đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm góp phần phát triển con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 2.2.
Nhiệm vụ: Một là, luận giải quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người; Hai là, phân tích sự vận dụng và phát triển
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người trong chiến lược
phát triển con người của Đảng Cộng sản Việt Nam; Ba là, phân tích
thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người ở Việt Nam
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và chiến lược của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển con người.
Quan điểm của C.Mác về phát triển con người và sự vận dụng quan điểm đó
trong chiến lược phát triển con người của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp, như phân tích - tổng hợp, lịch sử -
lôgíc, khái quát hoá, trừu tượng hóa. Ngoài ra, tác giả còn kết hợp một số phương
pháp khác, như hệ thống hoá, đối chiếu, so sánh... để làm rõ vấn đề. Nội dung
1. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con người
1.1 . Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính
loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của
con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là
một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của
quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó là quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, với thú
dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành lOMoAR cPSD| 47028186
người, điều đó đã chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các
giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến
mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người
trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống,
là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những
thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát
triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau
phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao
động. Là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy.
Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh
nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người:
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt
với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình”.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên : “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì
tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông
qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy; xác
lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã
hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau.
Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi
trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định lOMoAR cPSD| 47028186
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý - ý thức hình
thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm,
khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội
giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ
sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu
cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản suất
xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần .
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người,
còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu
sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt
nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt
trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa,
con người tự nhiên - xã hội .
1.2 . Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt
lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan
hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy
đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là
quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong
chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng trong Luận cương về Phoiơbắc :“Bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại;
quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc
lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh
sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và lOMoAR cPSD| 47028186
đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không thấy
được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ
biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là duy cái duy nhất. Do đó cần phải
thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả
phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội .
1.3 . Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của
lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng
con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết ấy quên
rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục
cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên,
Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của
chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy
thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong
phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với
mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra . Không có hoạt động của con người thì
cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch
sử xã hội loài người .
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với
điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi
cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các
quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách
là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho lOMoAR cPSD| 47028186
phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định
tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử xã hội loài người.
2 . Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và phát huy
động lực con người
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã
hội mới, Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định
nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh
của dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người. Trong
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong những yếu
tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành công những thuận lợi, cơ
hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ thuộc
đáng kể vào con người.
Vấn đề con người được đề cập đầu tiên tại Đại hội lần thứ IV của Đảng và
được đề cập cụ thể, trực tiếp trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm 1991). Trong Cương
lĩnh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã
hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao
và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ
được đảm bảo. Vì vậy, phương hướng, mục tiêu lớn của chính sách xã hội được
đề cập trong Cương lĩnh, Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở
đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần;
giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với
tập thể và cộng đồng xã hội”5
5 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.12-13. lOMoAR cPSD| 47028186
Quan điểm này của Đảng được xây dựng trên những cơ sở khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm lịch sử cụ thể của đất nước. Do đó,
Đảng ta khẳng định phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện các chính
sách xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà trong xã hội, trong đó con người
được đặt vào vị trí trung tâm.
Trong đường lối phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những định
hướng chuẩn giá trị cho việc xây dựng con người Việt Nam. Điều đó được phản
ánh trong việc Đảng ta luôn coi trọng, đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục đào
tạo, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đây là điều kiện để hình thành và phát
triển các thế hệ con người Việt Nam khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, có
trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã
nhấn mạnh rằng: con người là vốn quý nhất và muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Với những định hướng đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò của nhân tố con
người, chúng ta đã xây nên những thế hệ con người Việt Nam có lý tưởng cách
mạng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có ý thức rõ ràng về độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính những chuẩn giá trị đó là động lực quan trọng thúc
đẩy con người Việt Nam chiến đấu, lao động, học tập và sáng tạo, đem lại những
thắng lợi đáng tự hào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên thời kỳ trước đổi mới, chúng ta chưa nhận thức hết những nhân tố
tác động đến phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nhiều yếu tố liên quan đến
vấn đề con người và động lực phát triển con người. Trong suốt một thời gian dài,
chúng ta đã quá đề cao lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng, trong
khi đó lợi ích cá nhân không được quan tâm đúng mức, thậm chí rất mờ nhạt.
Chính vì vậy không tạo được động lực hoạt động của mỗi cá nhân trong xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề con người đã được
Đảng ta đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ đổi mới không có mục tiêu, động lực nào khác
nào khác ngoài xuất phát từ con người và vì con người. Con người vừa là chủ thể
vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Đổi mới bắt đầu từ con
người và hướng đến con người. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu, nội dung đổi mới,
Đảng ta cũng đã nhìn nhận con người một cách cụ thể và hiện thực hơn. Con người
ở đây không phải là con người chung chung mà là con người cụ thể, con người xã
hội với tính cách là một nhân cách phát triển. Sự hoàn thiện và phát triển của mỗi
cá nhân với những nhu cầu và năng lực tự nó là nền tảng của sự phát triển xã hội.
Sự nghiệp đổi mới chỉ thành công khi từng cá nhân phát triển với tư cách là chủ
thể có ý thức. Thực tiễn đã chứng minh “không phải bộ máy, cũng không phải
khâu nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó mà chính là con lOMoAR cPSD| 47028186
người với những phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của đổi mới”6
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội khởi xướng sự nghiệp
đổi mới, đã khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố con người và bắt đầu bằng
mệnh đề “Đổi mới tư duy” . Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000”, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.
Đại hội VII tiếp tục khẳng định quan điểm “coi mục tiêu và động lực của sự phát
triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan
điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách xã hội - tất cả vì con người”,
“mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức, có tay nghề, có năng lực thực
hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội”7.
Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội đưa đất nước ta
tiến vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng
định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển nhanh và bền
vững. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn
hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”8.
Đại hội lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh “nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”,
“mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ
hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội”9. Quan điểm này một lần nữa được
Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội lần thứ XI: “Phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược,
là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững”10 .
Tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức,
nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa
6 Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.144
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII , Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. tr.8
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII , Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội., tr.143
9 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.143
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.130 lOMoAR cPSD| 47028186
lành mạnh”11. Như vậy, vấn đề con người và phát huy nhân tố con người ở Đại
hội XII được tiếp cận một cách toàn diện và hệ thống hơn. Con người được nhìn
nhận trên cả hai phương diện cá nhân và cộng đồng, đồng thời thể hiện rõ những
điều kiện về vật chất và tinh thần đảm bảo cho con người phát triển toàn diện hơn.
Kế thừa và phát triển những nội dung cốt lõi về vấn đề con người trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của
Đảng đã khái quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, phát
triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước.
Trước hết, lấy con người làm trung tâm và kiên định phát triển con người
Việt Nam toàn diện. Đảng ta chủ trương: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi
con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự
phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm phát triển bền vững; phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh
thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng
vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân”12.
Như vậy, có thể khẳng định rằng suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm đến vấn đề con người và phát huy nhân tố con người. Nhờ vậy, sau
hơn 35 năm đổi mới toàn diện “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa”13. Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội
phát triển lớn; song bên cạnh đó còn không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua.
Để tiếp tục phát huy nhân tố con người một cách hợp lý, hiệu quả, phù hợp
với thực tiễn cách mạng đang đặt ra hiện nay, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, xây dựng tiềm lực trí
tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”14. Trí tuệ là một trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân
tố con người, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ có những
11 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.53
12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, tập 1, tr. 215 - 216.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.68
14 Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.122 lOMoAR cPSD| 47028186
bước phát triển nhảy vọt, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và
sự xuất hiện của kinh tế tri thức hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công
tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con người, trước hết là với các thế hệ trẻ -
những chủ nhân tương lai của đất nước.
Tuy nhiên để phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng hợp lý,
hiệu quả lực lượng lao động. Đồng thời, cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân
trí và phát triển nguồn nhân lực đồng đều ở các vùng miền, các cộng đồng xã hội;
gắn chiến lược phát triển khoa học công nghệ với nâng cao hàm lượng trí tuệ trong
nhân tố con người. Từ chỗ có nguồn lực con người bảo đảm về chất lượng, cần
xây dựng và thực hiện những phương thức, cơ chế phát huy nguồn lực đó lâu dài
và bền vững. Vì lẽ đó, Đại hội XII của Đảng đã có chủ trương “Quy hoạch lại
mạng lưới cơ sở giáo dục nghề, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực với những giải
pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân
lực trong nhà trường cũng như quá trình sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao
tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.
Hai là tạo lập môi trường để hoàn thiện và phát triển con người.
Trên cơ sở lý luận về con người trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”15. Vì vậy để xây dựng con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, trước hết cần phải tạo ra một môi
trường kinh tế phát triển, môi trường chính trị ổn định, môi trường văn hóa xã hội
lành mạnh, trong đó mỗi cá nhân sống, lao động sáng tạo, cống hiến và hưởng thụ
hài hòa. Đó là, “một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”16.
Ba là tạo động lực để phát huy nhân tố con người.
Bên cạnh việc xây dựng và phát triển con người với tính cách là mỗi nhân
cách phát triển, việc phát huy nhân tố con người cũng là vấn đề có ý nghĩa quyết
định thành công của sự nghiệp đổi mới. Để phát huy nhân tố con người cần phải
15 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr76
16 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr70 lOMoAR cPSD| 47028186
giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích - giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể,
giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Con người bao giờ cũng tồn tại và phát triển
trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, đây là mối quan hệ thống nhất có
tác động nhân quả. Mỗi cá nhân đơn lẻ không làm nên xã hội và xã hội bao giờ
cũng là tập hợp của những cá nhân trong mối quan hệ của họ. Nói cách khác, do
lợi ích và thông qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp, liên kết và có
mối quan hệ. Ăngghen đã khẳng định: ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không
thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể thống nhất về hành động
được. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng: chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung... chừng đó bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng
xã hội đối lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống trị.
Không chỉ quan tâm đến lợi riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam còn thực hiện
các chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa phục vụ lợi
ích chung. Lợi ích chung luôn bao hàm và không mâu thuẫn với lợi ích riêng và lợi ích cá nhân.
Từ những sự phân tích trên, có thể khẳng định, việc giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng
đồng, xã hội sẽ tạo động lực cho sự phát triển con người nói riêng và xã hội nói
chung, như Ăngghen đã chỉ rõ, lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động theo đuổi lợi ích của mình.
Công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua đã đạt được những thành tựu rất to lớn,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đất nước đang từng bước chuyển mình,
phát triển. Vậy, đâu là động lực nếu không phải là kết quả các chính sách của
Đảng về sự thay đổi cơ cấu quan hệ lợi ích trong thực tiễn cuộc sống.
Thời kỳ trước đổi mới, lợi ích tập thể được đề cao, thậm chí còn lấn át lợi ích
cá nhân. Chính vì vậy đã hạn chế động lực của con người, dẫn đến tình trạng thiếu
trách nhiệm đối với các hoạt động chung, “cha chung không ai khóc”... tạo nên
sức ỳ, hạn chế tinh thần sáng tạo của mỗi cá nhân. Từ khi đất nước bước vào đổi
mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị
trường với tính đặc thù của nó đã thừa nhận tính hợp lý và thỏa mãn tối đa lợi ích
cá nhân chính đáng. Trên mặt tích cực của nó, lợi ích cá nhân thực sự là “kích
thích tố” quan trọng thôi thúc con người tích cực hoạt động, năng động và sáng
tạo. Chính trong quá trình tham gia chủ động tích cực các hoạt động kinh tế hướng
đến lợi ích, con người phát triển toàn diện hơn.
Trên cơ sở các kỳ Đại hội trước, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đặt vấn
đề giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội, giữa
lợi ích chung và lợi ích riêng một cách phù hợp đúng mức và cần thiết. Việc quan
tâm đúng mức đến lợi ích của cá nhân, đặt lợi ích của cá nhân trong mục tiêu đạt
được lợi ích tập thể sẽ thôi thúc con người phát huy tối đa năng lực của bản thân
góp phần thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, thay đổi cơ cấu lợi ích lOMoAR cPSD| 47028186
trong thực tiễn đời sống xã hội và cá nhân nhằm phát huy nhân tố con người cần
phải tránh cả hai khuynh hướng: tuyệt đối hóa lợi ích riêng cũng như tuyệt đối hóa
lợi ích chung. Bởi tuyệt đối hóa lợi ích riêng, vô hình chung đã đẩy tự do cá nhân
thành chủ nghĩa cá nhân sẽ đẩy mỗi cá nhân lao vào sản xuất kinh doanh, làm giàu
bằng mọi cách, bất chấp cả pháp luật, đạo lý, lao vào “cuộc chiến tranh của tất cả
mọi người chống mọi người, cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”. Tuyệt
đối hóa lợi ích chung, lợi ích tập thể, cộng đồng, sẽ dẫn đến vi phạm quyền tự do
cá nhân, giảm động lực hoạt động, phát triển của mỗi cá nhân; đồng thời cũng
ngăn cản sự vận động và phát triển của cộng đồng, xã hội.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII là: lợi ích
chung đóng vai trò định hướng cho các hoạt động xã hội nhằm phát huy mọi tiềm
năng của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội để xây dựng một xã hội “dân
giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, với quan điểm “Gắn kết chặt
chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất
lượng đời sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt
hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước… Thực
hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực
xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước”; lợi ích riêng, lợi ích cá nhân đóng
vai trò động lực thúc đẩy tính tích cực, năng động, chủ động sáng tạo của con
người, tạo điều kiện để hướng đến “mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện”. lOMoAR cPSD| 47028186 Kết luận
Như vậy, vấn đề con người và phát huy nhân tố con người luôn được Đảng
Cộng sản Việt Nam quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước,
với quan điểm đổi mới xuất phát từ con người, vì mục tiêu con người và “lấy việc
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”. Sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực đặc biệt là nguồn lực con người,
“đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; để lại những bài
học sâu sắc cho cách mạng Việt Nam, trong đó “đổi mới phải luôn quán triệt quan
điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân phát huy vai trò làm chủ,
tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân dân…”. Trong những
năm tiếp theo, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, để
tiếp tục phát huy nhân tố con người trong điều kiện cách mạng mới nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, cần phải có một hệ
thống các giải pháp đồng bộ, trong đó, tập trung vào một số giải pháp như: Phát
triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao
cho đất nước; tạo lập môi trường để hoàn thiện và phát triển con người; đồng thời
tạo động lực để phát huy nhân tố con người, vì một xã hội “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”… con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.