lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com)
3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về chân lý.
QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ
Khái niệm:
Trong phạm vi luận nhận thức của chủ nghĩa Mac-Lênin, khái niệm chân được
dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan mà sự phù hợp đó
đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Chân lý phải được hiểu như một quá trình, “tư tưởng con người không nên hình dung
chân dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không
khuynh hướng, không vận động”, bởi lẽ bản thân sự vật có quá trình vận động, biến đổi, phát
triển và sự nhận thức về nó cũng phải được vận động, biến đổi, phát triển.
CÁC TÍNH CHẤT CỦA CHÂN LÝ
A). Tính khách quan:
Chân tri thức chứ không phải bản thân hiện thực khách quan (bản thân
hiện thực khách quan chính là cá nhân, thực thể riêng biệt, cách mỗi người nhận thức
về mình thông qua những trải nghiệm, những cảm xúc suy nghĩ của mình trong
hiện thực là những điều đã tồn tại, thật và không phụ thuộc vào ý thức của con
người, nhưng điều đó được nhiều người quan sát xác nhận như một cách độc
lập không phụ thuộc vào ý chí của con người) nhưng tri thức đó phải phản ánh đúng
hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định tính khách quan của chân lý.
Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan bởi vì nội dung phản ánh của chân
lý là khách quan, nội dung đó không phụ thuộc vào ý thức của loài người
Vd: Khoảng thời gian cuối những năm 1500, quan niệm của Aristotle khiến mi
người đều nhất mực tin rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ. Kết luận này được Nhà
thờ chuẩn y tiếp tục thống trị trong suốt kỷ nguyên tối. Khoảng những năm 1600,
nhà toán học Galileo nghĩ rằng các vật có khối lượng khác nhau cùng tốc độ khi rơi.
Nên trong thí nghiệm, ông đã thả hai vật khối lượng khác nhau từ tháp nghiêng Pisa.
Kết quả hai vật rơi xuống đất trong cùng một khoảng thời gian, như vậy bác bỏ quan
niệm của Aristotle.
lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen
(linhnguyen246028@gmail.com)
=> Galilei đã chỉ ra rằng, những tri thức khoa học phải được đúc
kết từ quy luật khách quan của tự nhiên chứ không phải bằng niềm
tin.
Vd: Luận điểm Trái Đất quay quanh Mặt Trời chân khách
quan bởi vì nó phản ánh một sự kiện khách quan có thật, sự kiện đó
không phụ thuộc vào ý thức loài người.
Tính khách quan của chân tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với
ý thức của con người loài người. Điều đó nghĩa là nội dung của những tri thức
đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sxác lập tùy tiện
của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới khách
quan, do thế giới khách quan quy định.
V.I. Lênin nhấn mạnh: “Thừa nhận chân lý khách quan, tức chân không phụ
thuộc vào con người và loài người.”-Giáo trình Triết học
Khẳng định chân tính khách quan một trong những điểm bản phân
biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới
vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó. B). Tính tương
đối và tuyệt đối:
Để đạt được những nhận biết đúng đắn thì con người thậm chí phải trả giá bằng
không ít sai lầm, phải vượt qua nhiều khúc quanh để đạt được những nhận thức hiểu
biết đúng đắn về thế giới khách quan. Bên cạnh đó chân trong Triết học Mác - Lênin
không phải một khái niệm tĩnh luôn vận động, phát triển trong quá trình nhận
thức của con người về thế giới khách quan. Thế nên mang trong mình cả tính tương
đối và tuyệt đối.
1. Chân lý tương đi:
lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com)
Chân tương đối những tri thức phản ánh chưa được hoàn thiện,
thường thay đổi theo thời gian và cần phải được bổ sung để hoàn thiện về nhận
thức trong các giai đoạn tiếp theo.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Những
nhận thức này có thể đúng tại thời điểm, không gian và điều kiện cụ thể, nhưng
chưa chắc sẽ hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp.
Con người luôn thay đổi và tiến bộ theo thời gian, và chính chân lý tương
đối là yếu tố mở ra những tầm nhìn mới mẻ, cởi mở hơn về thế giới xung quanh.
không chỉ khơi gợi sự mò, thôi thúc con người tiếp tục khám phá và tìm
hiểu còn động lực thúc đẩy sthay đổi, tiến bộ không ngừng của các sự
vật, hiện tượng và chính bản thân mỗi người.
Chân lý tương đối tồn tại bởi hai lý do:
Thứ nhất các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan,
vận động, biến đổi, phát triển không ngừng. Thế giới khách quan thì mênh
mông bao la cùng tận, các sự vật, hiện tượng trong thế giới đó
cũng vận động biến đổi phát triển không ngừng. Nó vừa là nó, vừa không
phải là nó, vừa vận động biến đổi để trở thành cái khác nó, lâu dần sẽ trở
thành cái đối lập với nó, sự vật nó vừa tồn tại, vừa không tồn tại. Thế nên
nhận thức của xã hội loài người diễn ra trong một thời điểm nào đó là hết
sức hữu hạn, chúng ta dùng sự hiểu biết hữu hạn của xã hội loài người để
nhận thức sự vô hạn của thế giới khách quan thì chỉ đạt được một sự hiểu
biết tương đối gần đúng về thế giới khách quan. Dùng cái hữu hạn để tiếp
cận cái vô hạn thì chỉ đạt được tương đối gần đúng cái vô hạn.
Thứ hai thể hiện chỗ, nhận thức của con người đối với thế giới
khách quan nhận thức bằng các khái niệm, các phạm trù các quy luật.
Những khái niệm, phạm trù, quy luật của con người “Là chủ quan trong
tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng khách
quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng,
trong nguồn gốc”-Bút kí triết học Lênin.
lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen
(linhnguyen246028@gmail.com)
Những khái niệm, phạm trù, quy luật của loài người mang tính chủ
quan, chỉ bao quát một cách điều kiện, một cách tương đối gần đúng
với các quy luật, bản chất của bản thân sự vật, nó chỉ tương đối gần đúng
với những quy luật vận động vĩnh viễn biến đổi không ngừng của bản thân
thế giới khách quan.
Khái niệm của con người chỉ phản ánh cái chung, cái tất yếu, cái
lặp đi lặp lại chkhông phản ánh hoàn toàn đầy đủ bản thân svật. Nhận
thức của con người bao giờ cũng tổng hợp, khái quát, động, dồn nén,
và tích hợp lại dưới dạng khái niệm, phàm trù, quy luật.
Ví dụ:
Trong xã hội: Trên thế giới hơn 8 tỷ người, 8 tỷ cá thể như thế
nhưng mà con người chỉ dùng khái niệm “người” để bao quát.
Trong khoa học: Chúng ta đều biết nước sôi 100
o
C, nhưng muốn
nước thật sự sôi 100
o
C thì lại cần những điều kiện khác kèm theo như
phải nước tinh khiết áp suất khí quyển tiêu chuẩn. (khẳng định phụ
thuộc vào quá trình, mang trong mình tính tương đối)
vậy một luận điểm nào đó của con người đưa ra trong hoàn cảnh, điều kiện
này có thể là đúng nhưng trong hoàn cảnh điều kiện khác có thể lại là không đúng. Đó
là tính tương đối của chân lý.
Ý nghĩa của chân lý tương đối: (Phần này đã nói, tự chỉnh lại)
Chân tương đối mang lại một cách nhìn mở rộng linh hoạt về cuộc sống.
giúp chúng ta nhận thức rằng sự thật không phải lúc nào cũng giống nhau đối với
tất cả mọi người, thường phụ thuộc vào bối cảnh, thời gian hoàn cảnh cụ thể.
lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com)
Điều này khuyến khích chúng ta tôn trọng những quan điểm khác nhau sẵn sàng
thay đổi khi cần thiết.
Trong đời sống, chân lý tương đối giúp giảm bớt mâu thuẫn, tạo điều kiện cho
sự giao tiếp hiệu quả và hợp tác giữa những người có quan điểm khác nhau.
cũng thúc đẩy sphát triển của khoa học tri thức, chúng ta luôn phải
điều chỉnh nhận thức của mình khi có thông tin mới. Nhờ đó, cuộc sống trở nên phong
phú, sáng tạo và đầy cơ hội học hỏi.
2. Chân lý tuyệt đi:
Tính tuyệt đối của chân là tính phù hợp hoàn toàn đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan ở một giai đoạn lịch sử cụ
thể xác định. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định chân lý tuyệt đối có tồn
tại nhưng việc nhận thức và hiểu biết về nó phát triển và thay đổi theo thời gian,
không gian và điều kiện cụ thể.
Về nguyên tắc, chúng ta thể đạt đến chân tuyệt đối. Bởi vì, trong thế
giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào con người không
thể nhận thức được một cách hoàn toàn đầy đủ. Khả năng đó trong quá trình phát
triển là vô hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của
từng thế hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của
đối tượng được phản ánh.
Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng nhận thức của con người đối với
thế giới vừa đúng vừa không đúng, vừa tương đối vừa tuyệt đối. Cũng như hiểu
biết là tương đối gần đúng và có khả năng đạt được hiểu biết đúng đắn tuyệt đối.
Chủ nghĩa biện chứng duy vật của Mác khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều
là một thể thống nhất của các mặt đối lập.
Vậy nên hiểu biết của con người về sự vật, hiện tượng cũng sẽ mặt
này có mặt kia, vừa đúng vừa không đúng, vừa tương đối vừa tuyệt đối.
Ví dụ:
+ Tổng các góc trong một tam giác trên mặt phẳng bằng 180 độ.
lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen
(linhnguyen246028@gmail.com)
+ Trong một tam giác vuông, bình phương của cạnh huyền luôn bằng tổng
bình phương của hai cạnh còn lại. Đó đều một chân tuyệt đối trong toán
học.
Chân lý tuyệt đối và những vấn đề xoay quanh:
*Làm sao để đạt được chân lý tuyệt đối?
Chân tuyệt đối được hiểu là sự hiểu biết toàn diện, đầy đủ về thế giới
trụ, nhưng chỉ thể đạt được thông qua một quá trình phát triển liên
tục, qua sự tiếp thu và tổng hợp các chân lý tương đối. Vì vậy, chân lý tuyệt đối
tồn tại theo nghĩa là sự hiểu biết hoàn toàn đúng đắn về thế giới, nhưng con
người chỉ thể tiếp cận một cách dần dần qua quá trình phát triển nhận thức,
chứ không thể nắm bắt ngay lập tức.
*Chân lý tuyệt đối có thay đổi theo thời gian không?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng chân tuyệt đối không
thay đổi trong bản chất của nó, nhưng sphát triển của tri thức, khoa học thực
tiễn thể làm sáng tỏ thêm những yếu tố mà con người chưa nhận thức đầy đủ.
dụ: Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton được coi một chân tuyệt
đối trong bối cảnh hiểu biết của thế kỷ 17. Tuy nhiên, với sự ra đời của thuyết
tương đối của Einstein, nhận thức của con người về lực hấp dẫn đã được mở
rộng. Chân của Newton không sai, nhưng trở thành một phần trong bức
tranh lớn hơn.
*Muốn đạt được chân lý tuyệt đối, xã hội loài người gặp phải những
khó khăn gì?
Để đạt được chân lý tuyệt đối, xã hội loài người gặp phải nhiều khó khăn.
Một nguyên nhân chính giới hạn trong nhận thức của con người, khi khả năng
hiểu biết về thế giới trụ còn giới hạn, khoa học không ngừng phát
triển. Thêm vào đó, sự khác biệt trong quan điểm và văn hóa giữa các xã hội tạo
ra mâu thuẫn khó khăn trong việc thống nhất một chân lý chung. Ngoài ra, sự
phát triển không đồng đều về khoa học công nghệ giữa các quốc gia cũng
khiến việc tiếp cận chân lý trở nên khó khăn.
3. Mối quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối:
lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com)
Giữa chân tương đối chân tuyệt đối mối quan hvà tác động lẫn
nhau. Trong đó, chân lý tuyệt đối là tổng số của chân lý tương đối mỗi chân
lý tương đối là một hạt nhân, là một bậc thang giúp cho con người tiến gần đến
chân lý tuyệt đối. Sự phân biệt giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý
cũng chỉ là tương đối và ranh giới này có thể vượt qua được.
Ví dụ: Trước đây, thuyết địa tâm từng được chấp nhận rộng rãi, khẳng định
rằng Trái Đất trung tâm của trụ, điều này hoàn toàn phù hợp với những
hiểu biết khoa học của thời đại đó. Tuy nhiên, khi thuyết nhật tâm ra đời
(Copernicus, Galileo Kepler), con người nhận ra rằng Mặt Trời mới thực sự
là trung tâm của hệ Mặt Trời, mở ra một chân trời mới trong nhận thức. Càng về
sau, những khám phá về sự phát triển của khoa học ngày càng làm hơn rằng
trụ không chỉ có Trái Đất hệ Mặt Trời chỉ một phần rất nhỏ trong một
vũ trụ bao la, rộng lớn. Thuyết địa tâm là một ví dụ điển hình cho thấy những
chúng ta cho chân hôm nay thể bị thay thế bởi những khám phá mới
ngày mai
Điều này cho thấy, chân tuyệt đối không phải là cái cụ thể nào thể
đạt được ngay lập tức là một quá trình tiếp tục phát triển, mở rộng tcác
chân lý tương đối. Những chân lý tương đối là những bước đi cần thiết trên con
đường tiến tới sự hiểu biết toàn diện hơn, hoàn chỉnh hơn về thế giới và vũ trụ.
Chân lý tương đối và chân lý tương đối là sự bổ trợ cho nhau về mặt nhận thức
và thường có mi liên hệ gắn kết với nhau.
lOMoARcPSD| 58137911
Downloaded by Linh Nguyen
(linhnguyen246028@gmail.com)
Mối quan hệ giữa chân lý tương đối và chân tuyệt đối giúp thấy tính
tương đối của chân giúp con người chống lại chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa
tương đối, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa chủ quan.
C). nh cụ thể:
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó
nghĩa mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng một nội dung cụ thể xác định. Nội dung
đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực luôn luôn gắn liền
với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh
nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân nào cũng gắn liền
với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện cụ thể thì những tri
thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì
thế nó không phải là những tri thức đúng đắn không được coi là chân lý. Khi nhấn
mạnh đặc tính này, Lênin đẫ khẳng định: “không có chân trừu tượng”, “chân lý luôn
luôn là cụ thể”.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân một ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi
xem xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm
lịch sử cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những
lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là
phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét
nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định. Ví dụ:
Hành vi vượt đèn đỏ được coi vi phạm luật giao thông, tuy nhiên nếu
anh ta vượt qua vạch dừng đèn đỏ để nhường cho xe ưu tiên thì anh ta sẽ không
bị xử phạt.
Quốc Triều Hình luật của nTrần là chân lý trong bối cảnh hội phong
kiến, tuy nhiên vào thời nay bộ luật đó không còn phù hợp không còn là chân lý
Nói dối là hành động sai trái. Nhưng trong một số trường hợp, nói dối để
bảo vệ người khác hoặc tránh gây nguy hiểm (như trong tình huống khẩn cấp)
có thể được xem là hợp lý và không sai về mặt đạo đức.
Mặt trời mọc ở hướng Đông, điều đó đúng khi trên bề mặt Trái Đất
trong điều kiện bình thường, nhưng nếu hai đầu cực thì hiện tượng đó sẽ không
xảy ra.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58137911
3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về chân lý.
QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ Khái niệm:
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mac-Lênin, khái niệm chân lý được
dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan mà sự phù hợp đó
đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Chân lý phải được hiểu như một quá trình, “tư tưởng con người không nên hình dung
chân lý dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không
khuynh hướng, không vận động”, bởi lẽ bản thân sự vật có quá trình vận động, biến đổi, phát
triển và sự nhận thức về nó cũng phải được vận động, biến đổi, phát triển.
CÁC TÍNH CHẤT CỦA CHÂN LÝ A). Tính khách quan:
Chân lý là tri thức chứ không phải bản thân hiện thực khách quan (bản thân
hiện thực khách quan chính là cá nhân, thực thể riêng biệt, cách mỗi người nhận thức
về mình thông qua những trải nghiệm, những cảm xúc và suy nghĩ của mình trong
hiện thực là những điều đã tồn tại, có thật và không phụ thuộc vào ý thức của con
người, nhưng điều đó được nhiều người quan sát và xác nhận nó như một cách độc
lập không phụ thuộc vào ý chí của con người) nhưng tri thức đó phải phản ánh đúng
hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định tính khách quan của chân lý.
Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan bởi vì nội dung phản ánh của chân
lý là khách quan, nội dung đó không phụ thuộc vào ý thức của loài người
Vd: Khoảng thời gian cuối những năm 1500, quan niệm của Aristotle khiến mọi
người đều nhất mực tin rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ. Kết luận này được Nhà
thờ chuẩn y và tiếp tục thống trị trong suốt kỷ nguyên tối. Khoảng những năm 1600,
nhà toán học Galileo nghĩ rằng các vật có khối lượng khác nhau có cùng tốc độ khi rơi.
Nên trong thí nghiệm, ông đã thả hai vật có khối lượng khác nhau từ tháp nghiêng Pisa.
Kết quả hai vật rơi xuống đất trong cùng một khoảng thời gian, và như vậy bác bỏ quan niệm của Aristotle.
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58137911
=> Galilei đã chỉ ra rằng, những tri thức khoa học phải được đúc
kết từ quy luật khách quan của tự nhiên chứ không phải bằng niềm tin.
Vd: Luận điểm Trái Đất quay quanh Mặt Trời là chân lý khách
quan bởi vì nó phản ánh một sự kiện khách quan có thật, sự kiện đó
không phụ thuộc vào ý thức loài người.
Tính khách quan của chân lý là tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với
ý thức của con người và loài người. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức
đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện
của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới khách
quan, do thế giới khách quan quy định.
V.I. Lênin nhấn mạnh: “Thừa nhận chân lý khách quan, tức là chân lý không phụ
thuộc vào con người và loài người.”-Giáo trình Triết học
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân
biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới
vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó. B). Tính tương
đối và tuyệt đối:

Để đạt được những nhận biết đúng đắn thì con người thậm chí phải trả giá bằng
không ít sai lầm, phải vượt qua nhiều khúc quanh để đạt được những nhận thức và hiểu
biết đúng đắn về thế giới khách quan. Bên cạnh đó chân lý trong Triết học Mác - Lênin
không phải là một khái niệm tĩnh mà luôn vận động, phát triển trong quá trình nhận
thức của con người về thế giới khách quan. Thế nên nó mang trong mình cả tính tương
đối và tuyệt đối.
1. Chân lý tương đối: Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58137911
Chân lý tương đối là những tri thức phản ánh chưa được hoàn thiện,
thường thay đổi theo thời gian và cần phải được bổ sung để hoàn thiện về nhận
thức trong các giai đoạn tiếp theo.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Những
nhận thức này có thể đúng tại thời điểm, không gian và điều kiện cụ thể, nhưng
chưa chắc sẽ hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp.
Con người luôn thay đổi và tiến bộ theo thời gian, và chính chân lý tương
đối là yếu tố mở ra những tầm nhìn mới mẻ, cởi mở hơn về thế giới xung quanh.
Nó không chỉ khơi gợi sự tò mò, thôi thúc con người tiếp tục khám phá và tìm
hiểu mà còn là động lực thúc đẩy sự thay đổi, tiến bộ không ngừng của các sự
vật, hiện tượng và chính bản thân mỗi người.
Chân lý tương đối tồn tại bởi hai lý do:
Thứ nhất là các sự vật hiện tượng ở trong thế giới khách quan, nó
vận động, biến đổi, phát triển không ngừng. Thế giới khách quan thì mênh
mông bao la vô cùng tận, các sự vật, hiện tượng ở trong thế giới đó nó
cũng vận động biến đổi phát triển không ngừng. Nó vừa là nó, vừa không
phải là nó, vừa vận động biến đổi để trở thành cái khác nó, lâu dần sẽ trở
thành cái đối lập với nó, sự vật nó vừa tồn tại, vừa không tồn tại. Thế nên
nhận thức của xã hội loài người diễn ra trong một thời điểm nào đó là hết
sức hữu hạn, chúng ta dùng sự hiểu biết hữu hạn của xã hội loài người để
nhận thức sự vô hạn của thế giới khách quan thì chỉ đạt được một sự hiểu
biết tương đối gần đúng về thế giới khách quan. Dùng cái hữu hạn để tiếp
cận cái vô hạn thì chỉ đạt được tương đối gần đúng cái vô hạn.
Thứ hai thể hiện ở chỗ, nhận thức của con người đối với thế giới
khách quan là nhận thức bằng các khái niệm, các phạm trù và các quy luật.
Những khái niệm, phạm trù, quy luật của con người “Là chủ quan trong
tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách
quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng,
trong nguồn gốc”-Bút kí triết học Lênin.
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58137911
Những khái niệm, phạm trù, quy luật của loài người mang tính chủ
quan, chỉ bao quát một cách có điều kiện, một cách tương đối gần đúng
với các quy luật, bản chất của bản thân sự vật, nó chỉ tương đối gần đúng
với những quy luật vận động vĩnh viễn biến đổi không ngừng của bản thân thế giới khách quan.
Khái niệm của con người chỉ phản ánh cái chung, cái tất yếu, cái
lặp đi lặp lại chứ không phản ánh hoàn toàn đầy đủ bản thân sự vật. Nhận
thức của con người bao giờ cũng tổng hợp, khái quát, cô động, dồn nén,
và tích hợp lại dưới dạng khái niệm, phàm trù, quy luật. Ví dụ:
Trong xã hội: Trên thế giới có hơn 8 tỷ người, 8 tỷ cá thể như thế
nhưng mà con người chỉ dùng khái niệm “người” để bao quát.
Trong khoa học: Chúng ta đều biết nước sôi ở 100oC, nhưng muốn
nước thật sự sôi ở 100oC thì lại cần những điều kiện khác kèm theo như
phải là nước tinh khiết và ở áp suất khí quyển tiêu chuẩn. (khẳng định phụ
thuộc vào quá trình, mang trong mình tính tương đối)
Vì vậy một luận điểm nào đó của con người đưa ra trong hoàn cảnh, điều kiện
này có thể là đúng nhưng trong hoàn cảnh điều kiện khác có thể lại là không đúng. Đó
là tính tương đối của chân lý.
Ý nghĩa của chân lý tương đối: (Phần này đã nói, tự chỉnh lại)
Chân lý tương đối mang lại một cách nhìn mở rộng và linh hoạt về cuộc sống.
Nó giúp chúng ta nhận thức rằng sự thật không phải lúc nào cũng giống nhau đối với
tất cả mọi người, mà thường phụ thuộc vào bối cảnh, thời gian và hoàn cảnh cụ thể. Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58137911
Điều này khuyến khích chúng ta tôn trọng những quan điểm khác nhau và sẵn sàng
thay đổi khi cần thiết.
Trong đời sống, chân lý tương đối giúp giảm bớt mâu thuẫn, tạo điều kiện cho
sự giao tiếp hiệu quả và hợp tác giữa những người có quan điểm khác nhau.
Nó cũng thúc đẩy sự phát triển của khoa học và tri thức, vì chúng ta luôn phải
điều chỉnh nhận thức của mình khi có thông tin mới. Nhờ đó, cuộc sống trở nên phong
phú, sáng tạo và đầy cơ hội học hỏi.
2. Chân lý tuyệt đối:
Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan ở một giai đoạn lịch sử cụ
thể xác định. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định chân lý tuyệt đối có tồn
tại nhưng việc nhận thức và hiểu biết về nó phát triển và thay đổi theo thời gian,
không gian và điều kiện cụ thể.
Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế
giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người không
thể nhận thức được một cách hoàn toàn đầy đủ. Khả năng đó trong quá trình phát
triển là vô hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của
từng thế hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của
đối tượng được phản ánh.
Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng nhận thức của con người đối với
thế giới vừa đúng vừa không đúng, vừa tương đối vừa tuyệt đối. Cũng như hiểu
biết là tương đối gần đúng và có khả năng đạt được hiểu biết đúng đắn tuyệt đối.
Chủ nghĩa biện chứng duy vật của Mác khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều
là một thể thống nhất của các mặt đối lập.
Vậy nên hiểu biết của con người về sự vật, hiện tượng cũng sẽ có mặt
này có mặt kia, vừa đúng vừa không đúng, vừa tương đối vừa tuyệt đối. Ví dụ:
+ Tổng các góc trong một tam giác trên mặt phẳng bằng 180 độ.
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58137911
+ Trong một tam giác vuông, bình phương của cạnh huyền luôn bằng tổng
bình phương của hai cạnh còn lại. Đó đều là một chân lý tuyệt đối trong toán học.
Chân lý tuyệt đối và những vấn đề xoay quanh:
*Làm sao để đạt được chân lý tuyệt đối?
Chân lý tuyệt đối được hiểu là sự hiểu biết toàn diện, đầy đủ về thế giới
và vũ trụ, nhưng nó chỉ có thể đạt được thông qua một quá trình phát triển liên
tục, qua sự tiếp thu và tổng hợp các chân lý tương đối. Vì vậy, chân lý tuyệt đối
tồn tại theo nghĩa là sự hiểu biết hoàn toàn và đúng đắn về thế giới, nhưng con
người chỉ có thể tiếp cận nó một cách dần dần qua quá trình phát triển nhận thức,
chứ không thể nắm bắt ngay lập tức.
*Chân lý tuyệt đối có thay đổi theo thời gian không?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng chân lý tuyệt đối không
thay đổi trong bản chất của nó, nhưng sự phát triển của tri thức, khoa học và thực
tiễn có thể làm sáng tỏ thêm những yếu tố mà con người chưa nhận thức đầy đủ.
Ví dụ: Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton được coi là một chân lý tuyệt
đối trong bối cảnh hiểu biết của thế kỷ 17. Tuy nhiên, với sự ra đời của thuyết
tương đối của Einstein, nhận thức của con người về lực hấp dẫn đã được mở
rộng. Chân lý của Newton không sai, nhưng nó trở thành một phần trong bức tranh lớn hơn.
*Muốn đạt được chân lý tuyệt đối, xã hội loài người gặp phải những khó khăn gì?
Để đạt được chân lý tuyệt đối, xã hội loài người gặp phải nhiều khó khăn.
Một nguyên nhân chính là giới hạn trong nhận thức của con người, khi khả năng
hiểu biết về thế giới và vũ trụ còn có giới hạn, dù khoa học không ngừng phát
triển. Thêm vào đó, sự khác biệt trong quan điểm và văn hóa giữa các xã hội tạo
ra mâu thuẫn và khó khăn trong việc thống nhất một chân lý chung. Ngoài ra, sự
phát triển không đồng đều về khoa học và công nghệ giữa các quốc gia cũng
khiến việc tiếp cận chân lý trở nên khó khăn.
3. Mối quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối: Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58137911
Giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối có mối quan hệ và tác động lẫn
nhau. Trong đó, chân lý tuyệt đối là tổng số của chân lý tương đối và mỗi chân
lý tương đối là một hạt nhân, là một bậc thang giúp cho con người tiến gần đến
chân lý tuyệt đối. Sự phân biệt giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý
cũng chỉ là tương đối và ranh giới này có thể vượt qua được.
Ví dụ: Trước đây, thuyết địa tâm từng được chấp nhận rộng rãi, khẳng định
rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, điều này hoàn toàn phù hợp với những
hiểu biết khoa học của thời đại đó. Tuy nhiên, khi thuyết nhật tâm ra đời
(Copernicus, Galileo và Kepler), con người nhận ra rằng Mặt Trời mới thực sự
là trung tâm của hệ Mặt Trời, mở ra một chân trời mới trong nhận thức. Càng về
sau, những khám phá về sự phát triển của khoa học ngày càng làm rõ hơn rằng
vũ trụ không chỉ có Trái Đất và hệ Mặt Trời chỉ là một phần rất nhỏ trong một
vũ trụ bao la, rộng lớn. Thuyết địa tâm là một ví dụ điển hình cho thấy những gì
chúng ta cho là chân lý hôm nay có thể bị thay thế bởi những khám phá mới ngày mai
Điều này cho thấy, chân lý tuyệt đối không phải là cái cụ thể nào có thể
đạt được ngay lập tức mà là một quá trình tiếp tục phát triển, mở rộng từ các
chân lý tương đối. Những chân lý tương đối là những bước đi cần thiết trên con
đường tiến tới sự hiểu biết toàn diện hơn, hoàn chỉnh hơn về thế giới và vũ trụ.
Chân lý tương đối và chân lý tương đối là sự bổ trợ cho nhau về mặt nhận thức
và thường có mối liên hệ gắn kết với nhau.
Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58137911
Mối quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối giúp thấy rõ tính
tương đối của chân lý giúp con người chống lại chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa
tương đối, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa chủ quan. C). Tính cụ thể:
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có
nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định. Nội dung
đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn liền
với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh
nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền
với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện cụ thể thì những tri
thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì
thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý. Khi nhấn
mạnh đặc tính này, Lênin đẫ khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ thể”.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi
xem xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm
lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những
lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là
phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét
nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định. Ví dụ:
Hành vi vượt đèn đỏ được coi là vi phạm luật giao thông, tuy nhiên nếu
anh ta vượt qua vạch dừng đèn đỏ để nhường cho xe ưu tiên thì anh ta sẽ không bị xử phạt.
Quốc Triều Hình luật của nhà Trần là chân lý trong bối cảnh xã hội phong
kiến, tuy nhiên vào thời nay bộ luật đó không còn phù hợp không còn là chân lý
Nói dối là hành động sai trái. Nhưng trong một số trường hợp, nói dối để
bảo vệ người khác hoặc tránh gây nguy hiểm (như trong tình huống khẩn cấp)
có thể được xem là hợp lý và không sai về mặt đạo đức.
Mặt trời mọc ở hướng Đông, điều đó đúng khi ở trên bề mặt Trái Đất và
trong điều kiện bình thường, nhưng nếu ở hai đầu cực thì hiện tượng đó sẽ không xảy ra. Downloaded by Linh Nguyen (linhnguyen246028@gmail.com)