-
Thông tin
-
Quiz
Quan điểm về duy vật lịch sử - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
V.I.Lênin khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người và người đã cho rằng: việc anh sống, anh hoạt độngkinh tế, anh sinh đẻ con cái và anh chế tạo ra các sản phẩm. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Quan điểm về duy vật lịch sử - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
V.I.Lênin khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người và người đã cho rằng: việc anh sống, anh hoạt độngkinh tế, anh sinh đẻ con cái và anh chế tạo ra các sản phẩm. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:













Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
.1. Đề tài 11 - Trình bày quan điểm duy vật lịch sử về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Từ
đó, xem xét, đánh giá vấn đề thái độ, lối sống đẹp/xấu của người Việt Nam.
Quan điểm về duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ví dụ: Xanh biển (người tt nói thêm) (nên nói, mà nhớ chọn lọc) Đỏ: có trong slide
Giải thích thêm: Vàng ( Người thuyết trình có thể dựa vào phần này để diễn giải thêm).
● Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
1. Khái niệm về tồn tại xã hội
- Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
- V.I.Lênin khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là
những quan hệ vật chất giữa người và người đã cho rằng: việc anh sống, anh hoạt động
kinh tế, anh sinh đẻ con cái và anh chế tạo ra các sản phẩm, anh trao đổi sản phẩm,
làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan gồm những biến cố, những sự phát triển,
không phụ thuộc vào ý thức xã hội của anh và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó.
- Các yếu tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, gồm có:
+ Một là: Phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ, phương thức
kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất
truyền thống của người Việt Nam.
+ Hai là: Các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện
khí hậu, đất đai, sông hồ,… tạo nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội. + , bao gồm:
Ba là: Các yếu tố dân cư
cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư,
mô hình tổ chức dân cư,…
- Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo
thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật
chất là yếu tố cơ bản nhất.
2. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội
- Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm,
tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,... của những cộng đồng xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm... của những
con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ
hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận.
Trong ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất quan trọng.
- Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. ý thức thông thường
tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những tri thức kinh nghiệm phong phú
đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết xã hội.
- Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. ý thức của cá
nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó không thể không
mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm tư
tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định.
- Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau,
thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
- Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể tiếp cận
kết cấu của ý thức xã hội từ những phương diện khác nhau.
- -Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình
thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý
thức thẩm mỹ, triết học,...
- Kết cấu của ý thức xã hội gồm
+ Ở góc độ sinh thành, ý thức xã hội được phân chia thành: Ý thức xã hội của xã hội
cộng sản nguyên thủy; ý thức xã hội của xã hội chiếm hữu nô lệ; ý thức xã hội của xã
hội phong kiến v.v.. - Ở góc độ chủ thể ý thức, ý thức xã hội được phân chia thành: ý
thức của giai cấp nông dân, ý thức của giai cấp công nhân v.v.. - Ở góc độ phản ánh, ý
thức xã hội được phân chia thành các hình thái ý thức xã hội như: ý thức chính trị, ý
thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo
v.v… - Ở góc độ trình độ và cấp độ của sự phản ánh, ý thức xã hội được phân chia
thành: ý thức lý luận và ý thức thường ngày; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Trong phạm
vi bài này, chúng tôi chỉ tiếp cận tìm hiểu ý thức xã hội ở góc độ trình độ và cấp độ của sự phản ánh
+ Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán v.v của con
người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành dưới ảnh hưởng
trực tiếp cuộc sống hàng ngày và phản ánh đời sống đó. Quá trình phản ánh này
thường mang tính tự phát, chỉ ghi lại những biểu hiện bề mặt bên ngoài của xã hội.
+ Hệ tư tưởng xã hội (hệ tư tưởng) là trình độ cao của ý thức xã hội được hình thành khi
con người đã có được nhận thức sâu sắc hơn các điều kiện sinh hoạt vật chất của mình;
là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính
trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo v.v) kết quả sự khái quát hoá những kinh
nghiệm xã hội. Có hai loại hệ tư tưởng là: Hệ tư tưởng khoa học- phản ánh chính xác,
khách quan tồn tại xã hội và Hệ tư tưởng không khoa học- phản ánh sai lầm, hư ảo
hoặc xuyên tạc tồn tại xã hội.
- Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy
luật. ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một
cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và
hiện tượng ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư . tưởng.
● Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây
dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một cách khoa học vấn đề sự
hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần
của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm
nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc
con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ
không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. C.Mác viết: "... không
thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải
giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có
giữa các lực lượng sản xuất xã hội và
những quan hệ sản xuất xã hội
Những luận điểm trên đây đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm muốn đi tìm
nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là
nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển xã hội và trình bày lịch sử các
hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế - Xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ
thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì
những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, văn hóa, nghệ thuật, v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử
khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó
là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng lại ở chỗ xác
định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra rằng, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các
khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào
cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến
cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay
cách khác trong các tư tưởng ấy.
Như vậy, triết học Mác - Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh
tồn tại xã hội của ý thức xã hội.
● Ý thức xã hội mang tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội
1. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
- Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
. Khuynh hướng lạc hậu
của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện
tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội mới như lối
sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng, v.v.. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so
với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau:
+ Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp
của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý
thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái
phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
+ Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu,
bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
+ Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được
các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
-> Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì
xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp. - Thứ hai,
ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
+ Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng
khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương
lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động
đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống
vật chất của xã hội đặt ra.
+ Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách
quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa nói rằng trong trường hợp này ý thức
xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không
thoát ly tồn tại xã hội, mà phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội.
- Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
+ Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý
luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên
cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
+ Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp
của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các
thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
+ Thí dụ, khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến của giai
cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại. Ngược
lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư
tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trước. Giai cấp
phong kiến các nước Tây u trung cổ ở thời kỳ suy thoái đã ra sức khai thác triết học
của Platôn và những yếu tố duy tâm trong hệ thống triết học của Arixtốt thời kỳ cổ đại
Hy Lạp, biến chúng thành cơ sở triết học của các giáo lý đạo Thiên chúa; hoặc vào nửa
sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX các thế lực tư sản phản động đã phục hồi và phát
triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa
Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, v.v. để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và hệ tư tưởng của nó là chủ nghĩa Mác.
=> Nắm vững quan điểm trên đây của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội
có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư
tưởng, Đảng ta khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế,
phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc
trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam. - Thứ tư,
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
+ Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức có
những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại
xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
+ Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và
tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật
đóng vai trò đặc biệt to lớn; còn ở Tây Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ
đến mọi mặt tinh thần xã hội như triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền.
ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các
hình thái ý thức xã hội khác. ở Pháp nửa sau thế kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX,
triết học và văn học là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính
trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến. Trong sự
tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan
trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều
hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay,
những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học nghệ thuật, v.v. mà tách rời đường lối
chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm,
không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
2. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường, hay chủ nghĩa
duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh
- hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.
- Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều
kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy
sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng
đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư
tưởng trong quần chúng. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng
tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
- Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định, nhưng ý
thức xã hội lại tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội. Nếu ý thức xã hội là khoa học,
đúng đắn, tiến bộ phù hợp với tồn tại xã hội thì nó sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.
Ngược lại, nếu ý thức xã hội không đúng đắn, không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của tồn tại xã hội. Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội đã cho chúng ta thấy bức tranh phức tạp của lịch sử
phát triển ý thức xã hội và của đời sống tinh thần của xã hội nói chung, nó bác bỏ các
quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
II. Xem xét, đánh giá thái độ và lối sống của người Việt Nam:
Nhân sinh quan truyền thống người Việt là mẫu số chung của phép cộng các triết lý
nhân sinh của các tộc người Việt Nam, luôn gắn liền với nông nghiệp (lúa nước) và thiết chế
làng – xã, được triển khai trong một hệ thống hoàn chỉnh trên mọi chiều kích của các mối
quan hệ: lao động – sản xuất, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dòng tộc,
họ hàng,… Nhân sinh quan người Việt thường gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc, các
triết lý nhân sinh đều giải đáp những vấn nạn mà người Việt gặp phải trên con đường dựng nước và giữ nước.
Nhân sinh quan truyền thống Việt Nam chính là những giá trị bản nhiên của tư duy
người Việt, không hoàn toàn vay mượn tư tưởng của Nho, Phật, Lão. Những giá trị tích cực
trong triết lý nhân sinh của cha ông ta là cơ sở cho việc xây dựng lối sống mới cho người
Việt Nam hiện nay. Song, bên cạnh đó, những hạn chế từ nhân sinh quan truyền thống cũng
trở thành rào cản cho người Việt trên bước đường phát triển và hội nhập. Do vậy, việc xác
định rõ những giá trị tích cực, chỉ ra được những yếu tố tiêu cực của nhân sinh quan truyền
thống là một việc làm thiết thực nhằm góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại, đáp
ứng yêu cầu của thời đại mới. (NÓI KÈM VỚI CHIẾU HÌNH, SLIDE 15)
a. Điểm tích cực tr
ong nhân sinh quan của người Việt Nam:
+ Tinh thần hiếu học là một trong những giá trị truyền thống quý báu được hình thành
và hun đúc từ dòng chảy lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Đó chính là tinh thần quả
quyết, tính kiên trì, nhẫn nại và ham học hỏi. Sự hiếu học ấy đã tạo điều kiện sản sinh nhiều
bậc anh tài, các trung thần, những anh hùng dân tộc,… góp phần quan trọng cho sự nghiệp
giải phóng và kiến thiết nước nhà. Hiếu học không phải chỉ để được vinh thân mà hiếu học là
để có cơ hội tham gia vào việc nước.
Hiếu học còn là biểu tượng của ý chí và khát vọng vươn lên thoát khỏi đói nghèo,
thoát khỏi sự kém hiểu biết: “Làm trai cố chí học hành/Lập nên công nghiệp để dành mai
sau; Làm người mà được khôn ngoan/Cũng nhờ học tập mọi đường mọi hay/Nghề gì đã có
trong tay/Mai sau rồi cũng có ngày ích to”,… Những tấm gương hiếu học thật sự là những
con người đáng được tôn vinh và học tập, vì họ là những người dám thực hiện ước mơ của mình. Video
+ Lối sống cần cù, tiết kiệm của người Việt đã được coi là một trong những đức tính
điển hình, nói như cố giáo sư Trần Văn Giàu “cần cù đến mức anh hùng tột bậc”.Từ xưa đến
nay, người Việt vẫn coi trọng đức tính cần cù, tiết kiệm, đề cao nó đến độ “cần cù bù thông
minh”, “năng nhặt chặt bị”, “tích cốc phòng cơ”, “buôn tầu bán bè không bằng ăn dè hà
tiện”. Lối sống tiết kiệm góp phần ổn định đời sống kinh tế gia đình, xã hội trong điều kiện
đất nước còn khó khăn, rèn luyện cách sống biết quý trọng sức lao động, chống lối sống xa
hoa, lãng phí theo kiểu “bóc ngắn cắn dài”, “vung tay quá trán”, “ném tiền qua cửa sổ”,…
Trong những năm gần đây, do điều kiện kinh tế của người dân được cải thiện, thậm chí
đồng tiền kiếm được một cách quá nhanh chóng, dễ dàng, dẫn đến xu hướng hưởng thụ, sống
gấp, lười lao động, tìm mọi cách để kiếm tiền phục vụ nhu cầu ăn chơi, hưởng thụ, kể cả vi
phạm đạo đức và pháp luật. Trầm trọng hơn, hiện tượng tham nhũng, tiêu “tiền chùa” đang
trở thành quốc nạn của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Về vấn đề này, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nhận định: Nước ta còn nghèo và kém phát triển, chúng ta lại chưa thực sự thực
hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển, vì
vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để công nghiệp hóa, phải
khắc phục xu hướng chạy theo xã hội tiêu thụ, lối sống xa hoa lãng phí, đó là những nhân tố
quyết định sự thành công của chúng ta… VIDEO
+ Lối sống đề cao tính tập thể, cộng đồng của người Việt có mặt tích cực là coi trọng
tình làng nghĩa xóm, đề cao tinh thần đoàn kết, hòa thuận, tương thân tương ái, lá lành đùm
lá rách, không chấp nhận lối sống hờ hững, vô trách nhiệm. Lối sống cộng đồng này góp
phần kìm hãm và hạn chế những biểu hiện của bệnh vô cảm, của sự cạnh tranh một cách ghẻ
lạnh trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay đồng thời tạo nên sức mạnh của sự ,
thống nhất cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ý nghĩa của sức mạnh đoàn kết, của tính
cộng đồng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát lại trong một nhận định về người Việt
Nam như sau: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành mô ~t
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” VIDEO
+ Trong đời sống tinh thần xã hội, người Việt truyền thống coi trọng chữ “Tình”, đề
cao ân nghĩa,… đôi khi, chữ “Tình” đã vượt lên trên cả lý lẽ, luật pháp. Hiện nay, khi nền
kinh tế thị trường phát triển, đặc biệt, khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, giao thương với
các nền kinh tế tư bản, lúc này “Lý” sẽ áp đảo “Tình”. Trong điều kiện đó, truyền thống coi
trọng “Tình” có vẻ không còn phù hợp nữa, nhưng chúng ta vẫn cần phải dung hòa,làm cho
“Lý” không trở thành thái quá để dẫn đến “vô tình, vô cảm”, thành con người “duy ngã”, ích
kỷ; làm cho chữ “Tình” trong thời hiện đại không yếm thế, biến con người thành yếu đuối,
nhu nhược, ba phải. Việc thiên về “Lý” hướng đến sự phát triển; còn “Tình” sẽ làm cho sự
phát triển diễn ra hài hòa, bền vững. Như vậy, chúng ta vẫn duy trì và giữ gìn được bản sắc
và “làm mới, hiện đại hóa” nó cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh.
Việc coi trọng “Tình” sẽ làm cho việc áp dụng luật pháp uyển chuyển, linh hoạt theo
từng địa phương, từng vùng. Luật pháp, dù được xây dựng trên đời sống thực tế, nhưng nó
vẫn là “từ ngoài vào, từ trên xuống” áp đặt người dân phải theo, nó vẫn có tính chất lý trí,
cứng nhắc, máy móc, không uyển chuyển và nhiều khi không tương thích với những hoàn
cảnh riêng của từng người dân, từng địa phương. Do đó, người Việt truyền thống đã điều hòa
luật pháp của nhà nước (triều đình) bằng Hương ước, bằng tục lệ của làng để có cuộc sống
phong lưu, thoải mái và tự tại hơn. Tục “phép vua thua lệ làng” xưa và nay, không có nghĩa
là coi thường kỷ cương, phép nước mà phép nước ấy, luật pháp ấy cần phải uyển chuyển, linh
hoạt và phù hợp với tâm lý, lối sống của con người. Có như vậy, luật pháp ấy, chủ trương ấy
mới đi vào cuộc sống một cách dễ dàng, khả thi hơn, bằng không, nó sẽ gặp phải sự kháng cự
mãnh liệt, rốt cục, sẽ trở thành không khả thi, không đi được vào đời sống xã hội và người dân.
Thiết nghĩ, truyền thống duy tình/trọng tình của người Việt vẫn có những mặt tích cực
của nó trong mọi mối quan hệ xã hội, dù xã hội phải vận hành theo hướng duy lý, song vẫn
rất cần xem xét đến yếu tố tình cảm để con người và xã hội không trở thành một cỗ máy biết
nói, biết tư duy. Và duy “Tình”, duy “Tâm” sẽ là nhân tố cơ bản đánh thức thế giới nội tâm,
thế giới vô thức trong mỗi con người để họ không trở nên vô cảm trước tha nhân (cả giới tự
nhiên và cuộc sống cộng đồng), không đánh mất nhân tính.
NÓI THÊM VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM Ở TRONG
HÌNH (ĐỌC CÂU NHẬN XÉT TRONG HÌNH)
+ Trong lịch sử, người Việt vốn rất gắn bó với thiên nhiên, yêu quý, tôn trọng thiên
nhiên. Triết lý sống “hài hòa” với giới tự nhiên khiến người Việt trở nên gần gũi, thích nghi
với sự biến thiên thất thường của thiên nhiên và duy trì nền nông nghiệp lúa nước khá thịnh
vượng, phát triển. Khi người Việt đã biết thích ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo đến một
mức độ nhất định đối với tự nhiên, người Việt trở nên kiên cường hơn, tính cách linh hoạt, lối
sống năng động hơn trước những biến đổi của thiên nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên
tai, lựa theo tự nhiên mà sản xuất và mưu sống.
Lối sống hài hòa với giới tự nhiên cũng tạo cho người Việt truyền thống những đức
tính ôn hòa, nhã nhặn, khiêm nhường. Dân tộc Việt được xem là một dân tộc biết lấy khiêm
nhu làm hậu thuẫn, thắng mà không kiêu căng, đó là nghệ thuật ôn nhu khôn khéo của nước
nhỏ đối với nước lớn, biết làm chiến thuật Tâm công (đánh vào lòng người, không chiến trận
mà địch vẫn thua). Lối sống ấy khiến chocha ông chúng ta qua các triều đại đều rất coi trọng
chữ “Hòa” trong kế sách trị quốc và ngoại giao. Trong ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân
hòa, đạo trị quốc, trước hết, phải lấy việc Nhân hòa làm đầu, dân là gốc của nước, có dân
tâm, sĩ khí, ắt thay đổi được thời cuộc.
⇒ Tất cả những giá trị tích cực trong nhân sinh quan truyền thống của người Việt, cho
đến nay, vẫn là những giá trị chung của cộng đồng, làm nên cái gọi là bản sắc văn hóa của
dân tộc Việt, người Việt.
Người Việt hiện nay không bằng lòng với cái nghèo, với sự thanh nhàn, an phận,
không tự thỏa mãn với lối sống hữu danh vô thực, họ bắt đầu chú trọng đến lợi ích vật chất,
biết vươn lên làm giàu, đề cao tính cá nhân, sự tự do,…Hiện nay, từ cách thức lao động sản
xuất, cách thức tư duy, cách thức ứng xử, hưởng thụ, thỏa mãn nhu cầu sống của người Việt
đã ít nhiều khác xa các thế hệ cha ông ngày trước. Trong đời sống hiện tại, người Việt đang
cố gắng khắc phục những biểu hiện của nếp sống cũ: tác phong lề mề, thủ công, trì trệ, làm
ăn nhỏ, manh mún,… xây dựng các giá trị mới như trọng lý, trọng khoa học, trọng hiệu quả,
đề cao tự do cá nhân (đặc biệt rõ nét trong lối sống của tầng lớp thanh niên thành thị, trí thức, doanh nhân).
Nhân sinh quan mới của con người Việt Nam hiện nay không chỉ là sự kế thừa và phát
huy nhân sinh quan truyền thống. Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đã
hình thành nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp, sự tồn tại của chúng trong lối sống hiện đại thể
hiện tính liên tục của nhân sinh quan và bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. Hơn nữa,
trong lối sống của con người Việt Nam mà chúng ta xây dựng để đáp ứng yêu cầu đổi mới và
hội nhập phải là: dân tộc, hiện đại, văn minh. Để làm được điều đó, chúng ta phải biết khơi
dậy và phát huy hiệu quả những giá trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống như: truyền
thống hiếu học, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, trọng tình trọng nghĩa, lối sống cần
cù, tiết kiệm,… tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế …(CHUYỂN QUA PHẦN SAU)
b. Một số mặt hạn chế tr
ong nhân sinh quan của người Việt:
+ Hiếu học: Truyền thống hiếu học là một đặc trưng của người Việt, là một đức tính tốt của
người Việt vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, mặt trái của hiếu học là hiếu danh, trọng
danh. Đi liền với tính trọng danh là thói háo danh, mua danh: được thể hiện rõ qua nạn bằng
giả, bằng thật học giả trong xã hội ta hiện nay mà các phương tiện thông tin đại chúng đã nêu
ra. Trong một xã hội mà sự thăng tiến của mỗi cá nhân gắn liền với độ cao tăng dần của bằng
cấp thì “cuộc đua” để có được bằng nọ, chứng chỉ kia là điều tất yếu. Nhiều người giỏi, tài
thực sự, nhưng vì không có đủ bằng cấp mà chấp nhận thua thiệt, không đạt được vị trí xứng
đáng, không được mọi người thừa nhận. Một số người không học được để lấy bằng thâ ~t thì
tất yếu phải mua bằng giả. Học để lấy bằng cấp đã trở thành gánh nặng công danh chứ không còn là nhu cầu tri thức. VIDEO
Vì chịu ảnh hưởng bởi thứ triết lý nhân sinh “học để làm quan” (với những chuẩn mực
về sự dùi mài kinh sử để vượt qua các kỳ thi, đảm bảo cho mình một địa vị xã hội, để hưởng
vinh hoa phú quý), nên người Việt học hành thường không đến nơi đến chốn. Ngày nay, vào
các thư viện trong các trường đại học hay các thư viện lớn ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy
số người đến đọc sách, học tập, nghiên cứu không ít, nhưng theo các cuộc điều tra xã hội học
đều cho thấy, số người đến thư viện đọc sách, học tập, nghiên cứu vì say mê khoa học không
nhiều, mà họ đến đó đọc sách hay học tập để thi, để hoàn thành một chứng chỉ, hay làm xong
một việc nhất định nào đó rồi bỏ đấy. Do đó, khi học tập, nghiên cứu, người Việt nặng về
giáo điều, sao chép và thuộc lòng các lý thuyết sẵn có. Với lối học “tầm chương” đó đã trói
buộc những sáng kiến của con người, kìm hãm lối suy tư phản biện, dẫn đến thiếu tự tin,
không dám vượt bỏ quá khứ.
+ Triết lý sống trọng tình nghĩa, duy tình, duy cảm của người Việt lại dẫn đến lối sống
dung hòa, xu thời, cam chịu, du di, xuề xòa, nhút nhát, tùy tiện, thiếu triệt để, ý thức pháp
luật chưa cao – đây chính là nhược điểm đáng kể đối với việc xây dựng nhân sinh quan mới
và tác phong công nghiệp gắn với tư duy duy lý trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Lối sống thiếu triệt để của người Việt bắt nguồn từ triết lý sống duy tình, duy cảm đã
góp phần hình thành lối làm ăn tùy tiện, manh mún, không biết lo xa, hạch toán, thiếu khả
năng lao động liên kết, thiếu đầu óc tính toán trong kinh doanh, sản xuất, chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm, thiển cận, thực dụng, tính tổ chức, kỷ luật kém,… Lối tư duy và lối sống đó
cũng đã hình thành phương thức “ăn xổi, ở thì”, đề cao những lợi ích thiết thực ngay trước
mắt chứ ít chú tâm đến những lợi ích chiến lược, lâu dài hay phải làm những gì to tát, lâu bền.
Lối sống du di, xuề xòa của người Việt truyền thống đã tác động không nhỏ đến cuộc
sống lao động sản xuất của họ. Với Việt Nam, sản xuất nông nghiệp là sản xuất theo thời vụ
(do thời tiết có hai mùa nóng lạnh khác biệt, buộc con người phải sản xuất theo), đã dẫn tới
hình thành hiện tượng ngày mùa thì vất vả, đầu tắt mặt tối, còn tháng ba ngày tám thì có
nhiều thời gian nghỉ ngơi/nhàn rỗi/nông nhàn. Ở một số vùng có nghề phụ (nghề thủ công),
người nông dân dùng thời gian nông nhàn tham gia sản xuất vào các ngành nghề phụ, còn
vùng không có nghề thủ công thì người dân coi như rỗi rãi hàng tháng. Do rỗi rãi, không có
việc làm thúc giục, đã hình thành ở người Việt tác phong khoan thai, chậm chạp, không tiếc
thời gian: “Đi đâu mà vội mà vàng/Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây/Thủng thẳng như
chúng anh đây/Chẳng đá nào vấp chẳng dây nào quàng”.Tâm thế quen không tuân thủ chặt
chẽ yếu tố thời gian trong lao động sản xuất sẽ là một trở ngại lớn khi người Việt tiếp hợp
vào xã hội công nghiệp – cuộc sống đòi hỏi phải khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời thì
người Việt vẫn mang theo hành trang của nếp sống “giờ cao su”.
Tư duy nặng về kinh nghiệm (Trăm hay không bằng tay quen) đã tạo nên lối sống gia
trưởng, lão quyền (người cao tuổi được coi là người có nhiều kinh nghiệm sống hơn cả), dẫn
đến tư tưởng “trọng trưởng khinh ấu” của người Việt. Với cách nghĩ và cách làm theo kinh
nghiệm thì hoạt động của con người thường hướng về quá khứ, bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới,
thường tìm cách phủ nhận năng lực của người đi sau (mặc dù trong thâm tâm biết rằng họ hơn mình).
Và cũng do ảnh hưởng của thứ văn hóa coi trọng tinh thần, khinh chê vật chất (vì cho
nó là tầm thường, hạ đẳng) nên người Việt cũng hình thành thói hư danh, ảo tưởng,sĩ diện.
Người Việt thường dấu cái nghèo, cái khổ “Tốt danh hơn lành áo; Một miếng giữa làng bằng
một sàng xó bếp; Một quan tiền công không bằng một đồng tiền thưởng; Ở đời muôn sự của
chung/Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”, không mấy khi người Việt thú thật nỗi cực
nhọc, vất vả đã từng phải chịu đựng, dẫn đến kiêu căng.
+ Ý thức cộng đồng, tính gắn kết, cố kết cộng đồng là một trong những đặc điểm truyền
thống nổi bật của người Việt Nam. Song, mặt trái của tính cộng đồng dẫn tới tính cục bộ, kéo
bè kéo cánh, ê kíp – đây cũng là một trong những hạn chế khiến người Việt rất khó hòa nhập
được với nền kinh tế toàn cầu hóa vì nếu tham gia vào quá trình kinh tế toàn cầu với một đầu
óc cục bộ, vì lợi ích của cá nhân, đơn vị, địa phương thì chính người Việt lại tự hại mình và hại lẫn nhau.
Tình trạng níu kéo nhau, không muốn cho người khác hơn mình “Khôn độc không
bằng ngốc đàn”, thói ghen ghét, đố kỵ khi thấy người khác hơn mình, tài năng và thành đạt
hơn mình,… khiến cho người Việt không tạo ra được một sự hiệp thông thống nhất, dẫn đến
việc một người làm thì tốt, ba người làm thì tồi, bảy người làm thì hỏng.
+ Ý tưởng về sự hòa hợp với thiên nhiên đã trang bị cho người Việt một sự nhận thức về tự
nhiên, biết nắm lấy cái bản thể cốt lõi của thiên nhiên mà hành động cho phù hợp với cuộc
sống mưu sinh của mình. Người Việt đã vận dụng những tri thức về tự nhiên đó để biết thích
ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo tự nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai,… Song,
chính bởi sự gắn bó, thân thiện, hòa mình với thiên nhiên, với trời đất, dẫn đến chỗ người
Việt hình thành lối sống lệ thuộc, trông chờ, ỷ lại vào thiên nhiên ưu đãi, nên dễ sinh ra lười
biếng lao động và giản lược hóa một cách thực dụng trong việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên một cách tùy ý, thiếu tôn trọng sự toàn vẹn, tuần hoàn của thiên nhiên, thiếu ý thức
trong việc vừa khai thác vừa tái tạo lại nó, dường như trong suốt quá trình sống của mình,
người Việt đã quay lưng lại với môi trường sống tự nhiên của chính mình.
Lối sống phụ thuộc vào tự nhiên, trong khi đó tự nhiên, thời tiết thì lại luôn thất
thường, đỏng đảnh. Đối diện với sự biến thiên đó, đáng lẽ phải biết tìm cách làm chủ và tự
do trước thiên nhiên, thì người Việt lại quá lệ thuộc vào “Trời”, nên trong quá trình sống hay
lao động sản xuất, người Việt thường tin vào số phận, may rủi, trông chờ vào thiên nhiên,
dẫn đến dễ chán nản, chùn bước khi gặp phải khó khăn.
Lối lao động, sản xuất chỉ biết dựa trên tri thức kinh nghiệm về thời tiết, về trông
mong ở trời đất của người Việt truyền thống khiến cho người Việt hiện nay thiếu ý thức
nghiên cứu khoa học trong sản xuất.
Những kết quả nghiên cứu nêu trên khiến chúng ta phải nhìn lại mình, nhất là trong điều ⇒
kiện hiện nay, nhận thức lại chính mình là một trong những nội dung quan trọng của sự
nghiệp đổi mới, nhận thức những hạn chế của mình để tìm cách khắc phục, vượt qua, phá bỏ
những rào cản, những trở lực, những sức ỳ khá nặng nề cho bước đi lên của đất nước.
Lựa chọn những gì trong nhân sinh quan truyền thống giúp hình thành lối sống, nếp
sống mới cho người Việt đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập cần một quá trình và sự sáng
suốt không chỉ của một cá nhân, một nhóm xã hội mà của cả cộng đồng. Để hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực và phát huy những giá trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống trong
việc hình thành lối sống mới cho người Việt, thiết nghĩ, cần phải có một hệ thống các nhóm
giải pháp phù hợp, thực tế và mang tính khả thi. Link video:
Lối sống giới trẻ hiện nay:
https://www.youtube.com/watch?v=-JPehVPJwi8&t=15s (từ 00:00 -02:00 )
Lối sống tiêu tiền vay nợ:
https://www.youtube.com/watch?v=QYIeA6gnfB8 ( Giải thích lối sống buông thả thông qua khảo sát ở Hàn Quốc)
Lối sống trọng danh nghĩa:
https://www.youtube.com/watch?v=npqdVxlkRI4 (Bằng cấp giả )
Lối sống ham ăn, lười làm:
https://www.youtube.com/watch?v=lEo4_dbf0D8 (Ham muốn việc nhẹ lương cao, lừa lọc) Lối sống hiếu học:
https://youtu.be/335FLxTzOhU (Nguyễn Ngọc Ký)
https://youtu.be/2f-3CYPCac8 (Mạc Đĩnh Chi)