Quan hệ Bắc Nam | Kinh Tế chính trị quốc tế | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Quan hệ Bắc Nam thường được sử dụng để mô tả mối quan hệ giữa các quốc gia ở khu vực Bắc và Nam trên bản đồ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế chính trị quốc tế. Trong ngữ cảnh này, "Bắc" thường ám chỉ các nước phát triển, giàu có và công nghiệp hóa ở Bắc bán cầu, như Hoa Kỳ, Canada, châu Âu và Nhật Bản. Trái lại, "Nam" thường ám chỉ các nước đang phát triển và có thu nhập thấp hơn, đặc biệt là ở khu vực Nam Á, châu Phi và một số khu vực khác.
Môn: Kinh tế chính trị quốc tế
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Quan hệ Bắc – Nam (North – South relations)
nghiencuuquocte.org/2016/03/19/quan-he-bac-nam-north-south-relations/ 18 tháng 3, 2016
Tác giả: Hoàng Thanh Hằng
Quan hệ Bắc – Nam là thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa các nước công nghiệp phát
triển, giàu có nằm tập trung ở Bắc bán cầu với các nước nghèo, đang phát triển chủ
yếu nằm ở Nam bán cầu. Mối quan hệ này trở thành vấn đề của quan hệ quốc tế từ
sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai khi các nước phương Nam giành được độc lập,
thoát khỏi chế độ cai trị thực dân của các nước phương Bắc.
Khi mới thành lập vào năm 1945, Liên Hiệp Quốc chỉ có 51 quốc gia thành viên. Đến năm
2004, con số này tăng lên 192. Các quốc gia thành viên mới này chủ yếu đến từ các quốc
gia mới độc lập ở Châu Á và Châu Phi. Sau khi giành được độc lập, các nước phương
Nam tham gia vào quan hệ quốc tế với tư cách các quốc gia chủ quyền độc lập và nhận
thấy mình ở vị trí bất lợi, đặc biệt là trong các mối quan hệ về kinh tế. Chính vì vậy họ đã
đấu tranh với các nước phương Bắc trong việc thiết lập lại các quy tắc, chuẩn mực của
quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Những quy tắc, chuẩn
mực trong các vấn đề này trước đây hoàn toàn do các nước đế quốc, các cường quốc
thực dân đưa ra và áp đặt lên các nước thuộc địa, phụ thuộc. Các nước mới giành được
độc lập này tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc, nhằm
đấu tranh đưa ra các điều kiện mới trong quan hệ kinh tế quốc tế, cũng như liên kết với
nhau để đấu tranh cho các quyền lợi về chính trị của mình. 1/3 lOMoAR cPSD| 41487147
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các nước phương Bắc bắt đầu cung cấp viện trợ và đầu
tư cho các nước đang phát triển phương Nam, tuy nhiên con số này rất hạn chế. Các nước
phương Nam cũng có vai trò hạn chế trong việc định hình các chính sách thương mại quốc
tế. Ví dụ, Hiệp định Chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT) chủ yếu phản ánh lợi ích và nhu
cầu của các nước công nghiệp phát triển. Chính vì vậy, các nước đang phát triển đã tập trung
đấu tranh cho việc cải cách các tổ chức và thể chế thương mại quốc tế.
Năm 1964, Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) được
thành lập. Qua hội nghị này các nước đang phát triển mới giành được độc lập đến từ
Thế giới thứ ba đưa ra các yêu cầu cho việc thiết lập các điều khoản mới trong quan
hệ thương mại thế giới. UNCTAD đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các
biện pháp kinh tế nhằm bảo đảm giá cả của các hàng hóa sơ cấp và các biểu thuế đối
với các mặt hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển ở mức có lợi cho họ. Trước
thực tế khoảng cách giữa các nước giàu và nghèo ngày càng gia tăng, năm 1968 Hội
nghị cũng đã đưa ra yêu cầu các nước phát triển trích 1% tổng thu nhập quốc dân của
họ để giúp đỡ các nước đang phát triển.
Năm 1974, tại một phiên họp của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, một nhóm các nước Thế
giới thứ ba đã đưa ra yêu cầu về một Trật tự Kinh tế Quốc tế Mới (New International
Economic Order – NIEO). NIEO kêu gọi việc cải tổ lại hệ thống kinh tế quốc tế hiện tại
nhằm gia tăng vị thế của các nước đang phát triển phương Nam trong mối quan hệ với
các nước công nghiệp phát triển phương Bắc. Các yêu cầu bao gồm việc gia tăng sự
kiểm soát của các nước đang phát triển đối với nguồn tài nguyên của mình, thúc đẩy
công nghiệp hóa, gia tăng viện trợ phát triển, và giảm nợ. Đến những năm 1990, NIEO
vẫn không được thực thi, vì gặp phải sự phản đối của các nước phương Bắc và thiếu sự
nhất trí và ủng hội từ chính các nước đang phát triển.
Trong các vòng đàm phán của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vấn đề quan hệ
Bắc – Nam lại trở thành tâm điểm của các cuộc thảo luận. Sự thất bại của các vòng
đàm phán như tại Seattle (1999), Doha (Qatar) (2001), hay Cancun (2003), xuất phát từ
những mối quan tâm khác nhau và những bất đồng giữa các nước phát triển và đang
phát triển trong hàng loạt các vấn đề.
Ví dụ, Hội nghị Bộ trưởng của WTO diễn ra ở Cancun (Mexico) năm 2003 đã thất bại do
không giải quyết được bất đồng sâu sắc giữa các nước đang phát triển và các nước giàu
về những vấn đề từ cải cách nông nghiệp đến các quy định thương mại mới. Các nước
đang phát triển muốn các nước giàu bãi bỏ trợ cấp nông nghiệp, trong khi các nước giàu,
trong đó có các nước Châu Âu và Nhật Bản, muốn thúc đẩy cái gọi là “những vấn đề
Singapore” (Singapore issues) – gồm đầu tư ra nước ngoài, các chính sách về cạnh
tranh, chống tham nhũng và giảm tệ nạn quan liêu. Các nước đang phát triển cho rằng
việc thực hiện những vấn đề này rất tốn kém và có thể cản trở tự do của họ trong việc đề
ra chính sách kinh tế. Nhiều nước đang phát triển cáo buộc Mỹ và Châu Âu tìm cách ép
buộc các nước nghèo phải chấp nhận những quy định thương mại mà họ không muốn. 2/3 lOMoAR cPSD| 41487147
Trước khi hội nghị thất bại, hai bên đã nhất trí được với nhau về một số đề nghị mang tính
chất thỏa hiệp. Châu Âu cam kết sẽ bắt đầu bãi bỏ hình thức trợ cấp xuất khẩu đối với một số
mặt hàng nông phẩm của họ, nhưng không chấp nhận bãi bỏ hoàn toàn trợ cấp này và cũng
không đưa ra thời hạn cụ thể sẽ bãi bỏ hoàn toàn. Đổi lại, WTO sẽ mở rộng các hạng mục quy
định mà các nước phải tuân thủ, trong đó bao gồm cả các khoản mục đầu tư. Các nước đang
phát triển không muốn mở rộng quy định về lĩnh vực này vì lo ngại làm tổn hại tới các quy
định quốc gia trong vấn đề lao động, nhân quyền và bảo vệ môi trường. Mỹ cũng tỏ
ý có thể chấp nhận những yêu cầu về bãi bỏ trợ cấp nông nghiệp, nhưng cũng đặt ra
những điều kiện trao đổi. Như vậy, với sự thất bại của hội nghị này, Mỹ sẽ tiếp tục
duy trì chính sách trợ cấp hàng chục tỷ USD để giúp nông dân Mỹ cạnh tranh với các
mặt hàng nông phẩm nước ngoài.
Lý thuyết của các nhà tự do và cấu trúc giải thích mối quan hệ kinh tế giữa các nước phương
Bắc và phương Nam theo những cách khác nhau. Theo những nhà tự do, trong thương mại
quốc tế, các nước giàu và nghèo sẽ cùng được hưởng lợi. Những nhà tự do cho rằng các
mối quan hệ thương mại với các nước giàu sẽ cung cấp cho các nước nghèo vốn, công nghệ
… Và các công ty đa quốc gia (MNCs) sẽ là công cụ để truyền tải các nguồn lực này. Trong
khi đó những người theo chủ nghĩa cấu trúc cho rằng sự kém phát triển ở phương Nam có
những nguyên nhân từ sự phát triển ở các nước ở phương Bắc. Mối quan hệ thương mại
giữa phương Bắc và phương Nam theo những cách chỉ có lợi cho các nước phương Bắc và
khiến các nước phương Nam bị phụ thuộc vào các nước phương Bắc. Đầu tư từ các công ty
đa quốc gia chỉ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn, vì một hệ quả của việc này là bòn rút vốn
khỏi các nước đang phát triển hơn là đầu tư vào các nước này. Do đó, các nước phương Bắc
vẫn ở vị trí vùng lõi (core), và các nước phương Nam ở vị trí ngoại vi (periphery). Cả hệ thống
hoạt động theo hướng có lợi cho vùng lõi.
Tóm lại, với quá trình phi thực dân hóa, các quốc gia thuộc địa trở thành các quốc gia
độc lập đã đưa đến một cuộc cách mạng trong quan hệ quốc tế. Các quốc gia này với số
lượng lớn tham gia các diễn đàn quốc tế và đấu tranh cho các quyền chính trị của mình
trong quan hệ với các nước phát triển và các cường quốc thực dân trước đây. Mối quan
hệ này được giải thích theo nhiều cách khác nhau và bất chấp nhiều mâu thuẫn vẫn còn
tồn tại, các nước đang phát triển phương Nam trên con đường phát triển của mình vẫn
vừa hợp tác vừa đấu tranh với các nước giàu và phát triển của phương Bắc.
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế,
(TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013). 3/3