/15
lOMoARcPSD| 61432759
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
……0O0……
BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề tài số 2:
Quan niệm duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của ý thức trong thực
tiễn, từ đó phân tích vai trò của ý thức trong thực tiễn phát triển kinh tế
(hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay
Sinh viên
:
Nguyễn Thị Huyền
Mã sinh viên
:
11232914
Lớp
:
LLNL1105(223)_27
Khóa
:
65
Số thứ tự
:
25
Hà Nội – 2024
lOMoARcPSD| 61432759
MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
II. NỘI DUNG ...................................................................................................... 2
1. Khái niệm về ý thức ...................................................................................... 2
1.1. Nguồn gốc của ý thức.............................................................................. 2
1.2. Bản chất của ý thức ................................................................................ 4
2. Vai trò của ý thức trong thực tiễn ................................................................ 5
3. Vai trò của ý thức trong thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh)
ởViệt Nam hiện nay .......................................................................................... 8
3.1. Vai trò của nhân tố tri thức khoa học, công nghệ trong phát triển kinh
tế ..................................................................................................................... 8
3.2. Vai trò của nhân tố tình cảm, ý chí trong phát triển kinh tế .............. 11
III. KẾT LUẬN .................................................................................................. 12
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 13
lOMoARcPSD| 61432759
I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại được đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ kỹ thuật, quan niệm duy vật biện chứng đã trở thành một phần quan
trọng trong việc hiểu biết thế giới xung quanh ta. Trong bối cảnh đó, ý thức,
với tư cách một khía cạnh tinh tế của tâm hồn con người, có ý nghĩa quan
trọng như một đối tượng phân tích. Cụ thể, quan niệm duy vật biện chứng về
ý thức đã mở ra những góc nhìn mới, đặt ra những câu hỏi sâu sắc về vai t
của ý thức trong thực tiễn đời sống, kinh tế hội. Nhìn vào nền kinh tế
của Việt Nam ta trong suốt những năm qua, chuyển mình từ một nền kinh tế
lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng hội chủ
nghĩa, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực
trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nền kinh tế không chỉ tăng
trưởng về quy chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiển đáng kể.
Để nước ta triển vọng phát triển như thế, Đảng nhà nước ta đã không
ngừng thay đổi tưởng chính sách. Và để xây dựng chính sách phù hợp
với thực trạng kinh tế Việt Nam, ý thức đóng vai trò rất quan trọng thiết
thực trong duy của Đảng và nhà nước. Chính vì thế, đề tài em làm trong
tiểu luận này hướng đến việc phân tích sự ảnh hưởng của ý thức đối với quá
trình kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Chúng ta sẽ đi sâu vào các khía cạnh biện chứng của ý thức, tìm hiểu về cách
tương tác hình thành trong thực tế kinh tế, từ đó đưa ra những nhận thức
mới và phân tích sâu sắc về vai trò của ý thức trong quá trình phát triển kinh
tế tại quốc gia chúng ta.
lOMoARcPSD| 61432759
II. NỘI DUNG
1. Khái niệm về ý thức
1.1. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Khi phê phán chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” có trước, C.
Mác đã từng khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về ý thức: “Ý niệm
chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người
được cải biên đi trong đó” [C. Mác Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđđ, t.23,
tr.35]. Cũng bàn luận về “ý thức”, c nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
Lênin cũng khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ thuộc
tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất, thuộc tính
của một dạng vật chất sống tổ chắc cao nhất bộ óc người. Ý thức chức
năng của bộ óc người hoạt động bình thường.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thế ý thức. Phản
ánh là thuộc tính phổ biến của mi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên
hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó stái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này một hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng.
Lịch sử phát triển thuộc tính phản ánh của vật chất gắn liền với lịch sử tiến
hóa của thế giới vật chất. Từ phản ảnh vật lí, hóa học của giới tự nhiên sinh
kết cấu vật chất đơn giản cho đến giới tnhiên hữu sinh với thuộc tính
phản ánh phát triển n một trình độ mới – phản ảnh sinh học trong các cơ thể
sống cuối cùng, tâm động vật trình độ phản ánh cao nhất của loài động
lOMoARcPSD| 61432759
vật, bao gồm phản xạ không điều kiện điều kiện. Tuy nhiên đó chưa
phải ý thức mới “cái khai”, “cái tiền sử” gợi ý cho chúng ta tìm
hiểu “bộ óc có tư duy của con người” đã ra đời như thế nào.
Nguồn gốc xã hội
Hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời
của ý thức, thể hiện ở vai trò của nhân tố lao động và ngôn ngữ. Ph. Ăngghen
cũng đã nhấn mạnh những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của ý
thức qua: “Trước hết lao động, sau lao động đồng thời với lao động
ngôn ngữ, đó hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn,
làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người” [C. Mác Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.43.]
Lao động hoạt động đặc thù của con người, hoạt động bản chất người,
chủ động, sáng tạo và có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi
thẳng đứng, giải phóng hai tay. Khi con người trải qua hoạt động lâu dài, trong
những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau,
cùng với sự phát triển của tri thức khoa học giúp nhận thức tính của loài
người ngày càng sâu sắc. Nhận thức tính phát triển làm cho ý thức ngày
càng trở nên năng động, sáng tạo hơn.
Lao động mang tính hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh
nghiệm giữa các thành viên trong hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm,
trung tâm ngôn ngữ trong bộ óc con người được hình thành hoàn thiện dần.
Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn
ngữ, con người có thể khái quát, trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi
sự vật cảm tính.
lOMoARcPSD| 61432759
Như vậy, ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự
nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội,
trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội điều kiện
đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển
1.2. Bản chất của ý thức
Trong khi ch nghĩa duy tâm cường điệu vai trò của ý thức một cách thái quá,
trừu tượng tới mức thoát li hiện thực, biến nó thành một thực thể tồn tại độc
lập, thực tại duy nhất và nguồn gốc sinh ra vật chất, ngược lại, chủ nghĩa duy
vật siêu hình tầm thường hóa vai trò của nhận thức, coi ý thức cũng chỉ một
dạng vật chất hoặc chỉ sphản ánh giản đơn thì chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã xuất hiện để luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Do
đó, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét trong mối quan h
qua lại với vật chất, chủ yếu đời sống hiện thực tính thực tiễn của
con người. “Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người”
[V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.1]
Ý thức “hình ảnh” về hiện thực khách quan trong bộ óc con người. Cả ý
thức và vật chất đều hiện thực, nghĩa tồn tại thực, tuy nhiên giữa chúng
lại sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan
còn ý thức là hiện thực chủ quan. Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính
thứ nhất còn ý thức chỉ bản sao, “hỉnh ảnh” vthế giới đó, tính thứ hai.
Ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nội dung ý thức
phản ảnh chủ quan, bị chi phối bởi tính ảo, còn hình thức phản ánh lại
chủ quan. Ý thức cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong đầu óc của
con người và được cải biên đi ở trong đó.
Ý thức có đặc tính tính cực, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
lOMoARcPSD| 61432759
Đây đặc tính căn bản để phản ánh trình độ ý thức giữa người và động vật.
Ý thức không phải kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động
thế giới khách quan mà kết quả của quá trình phản ánh định hướng,
mục đích rệt. Từ đó, những tri thức mới ra đời áp dụng vào thực tiễn, cải
tạo hiện thực.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Ý thức là sản phẩm
lịch sử của sphát triển hội, bắt nguồn tự thực tiễn lịch sử - hội, phản
ánh những quan hệ hội khách quan. “Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản
phẩm hội, vẫn như vậy đến chừng nào con người còn tồn tại” [Karl Marx
và Friedrich Engels]
2. Vai trò của ý thức trong thực tiễn
Ý thức chỉ nhân tố chủ quan tính ảo nhưng lại vai tchi phối
sự phát triển của thế giới khách quan. Thế giới khách quan phát triển đến mức,
trình độ nào thì cốt lõi không thể không nằm ý thức. vậy, chúng ta không
thể không phủ nhận rằng ý thức vai trò rất quan trọng trong thực tiễn, được
thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, ý thức tạo nên điểm khác biệt giữa con người những động
vật khác
“Con người một loại động vật cấp cao”, tuy nhiên, điều đã khiến cho loài
người khác biệt với những loại động vật nói chung và loại khỉ nói riêng? Đó
việc biết chế tạo cộng cụ, biết săn bắt, biết ăn thức ăn chín ăn tinh bột,
nói cách khác, tất cả những điều này là ý thức, xuất phát từ ý thức con người
muốn duy trì đổi mới cuộc sống. Con người là loại vật duy nhất thể
duy, thể sáng tạo thể linh hoạt trong thực tiễn. Cũng chỉ loài người
có thể dựa vào thực tế khách quan mà đưa ra suy nghĩ, ý tưởng mới phù hợp
với thực tế biến vật chất trở nên tốt hơn phù hợp hơn. Chính ý thúc đã
lOMoARcPSD| 61432759
khiến loài người khác biệt vượt trội hơn so với bất loài nào trong thế
giới khách quan. Nhìn lại lịch sử phát triển của loài người, con người đã trải
qua hàng triệu năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy tiến hóa từ tinh
tinh, vượn thành người. Loài người trải qua cuộc sống hội từ săn bắt, ăn
sống đến sản xuất lửa, khí săn bắn, cho đến hội sản xuất tổ chức hơn,
văn minh hơn. Để có được những sự phát triển xã hội từ thô sơ đến văn minh
này hàng triệu năm sáng tạo và đổi mới bằng ý thức, sự tiến hóa này
không thể thấy được ở những loài vật khác trên Trái Đất.
Thứ hai, ý thức ảnh hưởng đến thay đi xã hội.
Xã hội luôn phát triển theo chiều hướng đi lên, từ xã hội nguyên thủy với lối
sống bầy đàn, ăn lông lổ cho tới hội hiện nay với duy mới mẻ, sáng
tạo. Đấy chính là nhờ ý thức - ý thức xã hội, bao gồm các giá trị, niềm tin và
chuẩn mực chung của một cộng đồng theo thời gian thể khuyến khích hoặc
cản trợ các thay đổi xã hội. Chúng ta cùng nhìn vào sự thay đổi trong ý thức
về bình đẳng hội, giữa nam nữ, giữa người da trắng người da màu,
giữa dân tộc đa số dân tc thiếu số,… Dẫu rằng khó có thể xóa sạch tư duy
phân biệt đã ăn sâu trong máu, nhưng với sự lên án mạnh mẽ, tiếng nói đòi
công bằng đầy quyết liệt, đã dẫn đến sự thay đổi trong luật pháp chính sách
nhằm cải thiện quyền lợi cho họ.
Thứ ba, ý thức chỉ đạo, thúc đẩy hoạt động, hành động của con người Ý
thức được xem như kim chỉ nam cho hành động. Ý thức đóng vai trò như
một bộ lọc thông tin và một khuôn khổ giúp con người hiểu và định hình thế
giới quanh họ. Nó giúp xác định cách thức mà một nhân phản ứng với môi
trường tương tác với người khác. Quan niệm, niềm tin, giá trị của một
cá nhân có thể dẫn dắt họ trong việc lựa chọn các hành động, từ đơn giản như
cách tiêu dùng đến phức tạp như cách tham gia vào các hoạt động chính trị
hay xã hội. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một
lOMoARcPSD| 61432759
cách chính xác cho hiện thực, từ đó giúp con người nhận thức được mình đang
đâu, cần làm cách thức đạt được mục tiêu. một khía cạch xa hơn,
những lý luận định hướng đúng đắn này sau đó được đưa vào quần chúng đ
góp phần động viên, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, sức mạnh vật chất nhờ
đó cũng tăng lên gấp bội.
Thứ tư, ý thức tính năng động, sáng tạo, tiền đề cho sự phát triển
của tri thức.
hội càng phát triển thì vai trò của ý thức càng lớn, nhất là trong thời đại
ngày này, thời đại của khoa học công nghệ hiện đại. Ý thức tính sáng
tạo rất lớn, điều này đã được chứng minh khi con người đã biết vận dụng
những tri thức đó để có được những phát minh đột phá trong lịch sử nhân loại.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng phải nằm tròn
khuôn phép, không thể vượt qua những tiến đề vật chất đã quy định. Nó phải
bắt đầu từ điều kiện khách quan rồi phát huy thêm năng lực chủ quan. Nếu
quên mất điều đó trong khi giải quyết vấn đề thực tiễn thì rất dễ rơi vào vũng
bùn của “quan duy ý chí” hoặc chủ quan giáo điều, chắc chắn thất bại. Ngược
lại, nếu chỉ dựa vào mỗi điều kiện khách quan để giải quyết vấn đề mà thiếu
đi nhân tố chủ quan thì vấn đvẫn giải quyết được nhưng ském hiệu quả.
Chúng ta thấy được khía cạnh năng động này của ý thức khi nhìn vào những
cuộc Cách mạng công nghiệp xuyên suốt lịch sử. Từ thời đại 1.0 đánh dấu sự
ra đời của cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên, khi sức mạnh của máy móc
thay thế lao động thủ công cho đến thời đại 4.0 thúc đẩy sự kết nối qua trí tu
nhân tạo, tđộng hóa. gần đây, thế hệ Cách mạng công nghiệp 5.0 tiếp
nối, đánh dấu một sự dấn thân mới trong lĩnh vực công nghiệp. Trong thời đại
5.0, công nghệ trí tuệ nhân tạo đứngtrung tâm quá trình sản xuất và hoạt
động kinh doanh. Điều này đem lại một sự cân bằng độc đái giữa khả năng
tính toán của máy móc snăng động, linh hoạt của con người. “Thời đại
lOMoARcPSD| 61432759
5.0 đánh dấu sự hòa quyện của con người máy móc, tạo ra khả năng kết
hợp sức mạnh trí tuệ nhân tạo với tinh thần sáng tạo của con người…” [Trích
dẫn học thuật từ Harari]. Đấy chính là đỉnh cao của vai trò ý thức khi khía
cạnh chủ quan và khách quan được song hành cùng nhau, phát huy tối đa để
biến tri thức thành sức mạnh để áp dụng vào thực tiễn đời sống.
3. Vai trò của ý thức trong thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở
Việt Nam hiện nay
3.1. Vai trò của nhân tố tri thức khoa học, công nghệ trong phát triển
kinh tế
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà quốc gia nào trên thế
giới này muốn phát triển kinh tế đều phải đi theo. Việt Nam cũng không phải
ngoại lệ khi từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng
nhà nước ta đã đề ra chủ trương chính của thời kỳ là “Xây dựng một nền nền
kinh tế XHCN cân đối hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp
lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp , đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ,
nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”. Do đó, trước thời kì đổi mới, nước
ra khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa, được chia thành 2 giai đoạn:
từ năm 1960 đến năm 1975 tiến hành CNH miền Bắc từ năm 1975 đến
năm 1985 tiến hành CNH trên phạm vi cả nước.
Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa, sự gắn kết chặt chẽ giữa CNH và
HĐH, sự gắn kết chặt chẽ giữa CNH và HĐH hiện nay là sự đổi mới về chất,
là nhu cầu của sự phát triển xã hội và cũng là quy định ca thời đại. Điều này,
trước tiên, được quyết định bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của khoa
học và công nghệ và vai trò hết sức to lớn của chúng đối với nền sản xuất xã
hội nói riêng, đối với toàn bộ hội nói chung. Mối quan hgiữa khoa học
lOMoARcPSD| 61432759
công nghệ với sản xuất lúc ấy tuân theo quy luật: sản xuất đi trước công
nghệ và công nghệ lại đi trước khoa hc.
Nhìn lại nước Việt Nam ta, một nước với xuất phát điểm ngành nông nghiệp
cổ truyền theo phương thức sản xuất lạc hậu châu Á đã kéo dài hàng nghìn
năm, để có thể đi vào nền sản xuất hiện đại, chúng ta cần phải tiến hành một
quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả các hoạt động hội, trước
tiên hoạt động sản xuất từ chủ yếu lao động thủ công sang chủ yếu
lao động kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động. Đây ng lúc
khoa học và công nghệ phát huy vai trò then chốt của mình trong kinh tế Việt
Nam, được biểu hiện cụ thể trên những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, khoa học công nghệ vai trò quyết định trong việc nâng cao
năng suất và hiệu quả kinh tế, thông qua trang bị và trang bị lại các máy móc,
kỹ thuật, công nghệ hiện đại, giúp cải tiến quy trình sản xuất. tăng năng suất
lao động, giảm chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm. Việt Nam đã và đang
áp dụng công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, công nghiệp chế biến sản
xuất, từ đó tạo ra các sản phẩm gtrị gia tăng cao hơn. Chúng ta thể
thấy Việt Nam, ngành công nghiệp dệt may da giày đang phát triển rất
nhanh chóng, thu hút được nhiều vốn đầu nước ngoài giúp đẩy nhanh lượng
hàng hóa xuất khẩu đem lại nguồn kim ngạch rất lớn cho đất nước. Cụ thể,
theo báo cáo của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), năm 2020, Việt Nam
đã vượt Băng-la-đét trở thành quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai
thế giới, theo Niên giám Da giày thế giới, năm 2021, lần đầu tiên Việt Nam
chiếm trên 10% thị phần giày xuất khẩu toàn cầu với khoảng 1,2 tỷ đôi. Một
trong các yếu tố làm nên sự thành công đó là nhờ tính tự động hóa cao
vận hành đơn giản mà công nghệ máy laser mang lại. Cắt vải bằng công nghệ
laser rất được ưa chuộng tin dừng trong ngành dệt may cũng như da giày,
lOMoARcPSD| 61432759
giúp nâng cao chất lượng trong từng sản phẩm kết hợp với mẫu đa dạng
phong phú.
Thứ hai, khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng, khai thác phát huy nguồn lực con người. Đầu vào
giáo dục đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao yếu tố để Việt Nam phát
triển bền vững. Có nhiều cách để chúng ta thực hiện việc trang bị và trang bị
lại công nghiệp hiện đại, tiên tiến choc ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
dù bằng cách thức nào đi chăng nữa thì điều quan trọng và có tính quyết định
đây là cần có những con người đủ tri thứcnăng lực để khai thác, sử dụng
hiệu quả các thiết bị hiện đại. Hay nói cách khác, sự chuyển đổi từ lao động
giá rẻ sang lao động chất lượng cao dựa trên kiến thức công nghệ mục
tiêu chiến lược.
Thứ ba, khoa học công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi
trường thông tin và thị trường thông tin – huyết mạch của CNH, HĐH và của
cả nền kinh tế. Trong thời đại với phương tiện thông tin đại chúng phát triển
mạnh mẽ thì công nghệ khoa học giúp việc kết nối giữa các lực lượng dễ
dàng hơn, người lao động sẽ thuận tiện hơn trong việc tìm kiếm việc làm, môi
trường làm việc phù hợp với chuyên môn đào tạo. trang thiết bị, máy móc
hiện đại, có những con người đã được đào tạo tay nghề và có kỹ năng, kỹ xảo
cao nhưng nếu thiếu thông tin, kết nối sẽ dẫn đến không biết đầu chúng vào
đâu cho đúng kịp thời để sinh lợi nhanh.
Thứ tư, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ
chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và xã hội. Nhiệm vụ quan
trọng của công tác tổ chức, quản liên kết các yếu tố trang thiết bị, máy
móc kỹ thuật, con người và thông tin lại với nhau thành một tổ hợp vận hành
hợp lý, đồng đều nhằm tối đá hóa năng suất.
lOMoARcPSD| 61432759
Thứ năm, khoa học công nghệ giúp nền kinh tế phát triển phát triển bền
vững. Cụ thể, khoa học công nghệ giúp Việt Nam đối mặt với các thách
thức về môi trường như biến đổi khí hậu, quản nguồn nước phát triển
năng lượng sạch. Bảo vệ môi trường đi đôi với phát triển kinh tế, chính vậy,
các công nghệ mới trong quản lý tài nguyên và bảo vệ thiên nhiên đang ngày
càng được chú trọng.
3.2. Vai trò của nhân tố tình cảm, ý chí trong phát triển kinh tế.
Nhân tố tình cảm và ý chí trong phát triển kinh tế có vài trò không kém phần
quan trọng so với các yếu tố khác như tri thức khoa học công nghệ. Cảm
xúc và ý chí của con người có thể ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi, quyết định
và thậm chí là sự thành công của các tổ chức và nền kinh tế tổng thể. Sau đây
là một số khía cạnh nổi bật về vai t của nhân tố tình cảm và ý chí trong phát
triển kinh tế:
Thứ nhất, tình cảm ý chí làm tăng động lực làm việc năng suất. Tình
cảm yếu ttâm của con người, ảnh hưởng đến quyết định hành vi.
Tình cảm tích cực như cảm giác hài lòng, động viên trân trọng thể cải
thiện đáng kể năng suất làm việc của nhân viên. Ngược lại, cảm xúc tiêu cực
thể gây ra stress, giảm khả năng tập trug hiệu quả công việc. Do đó, việc
tạo ra một môi trường làm việc hỗ trợ tích cực rất quan trọng để tối đa
năng suất lao động
Thứ hai, quyết định kinh doanh không chỉ dựa trên các phân tích trí mà còn
chịu ảnh hưởng bởi cảm xúc nhận thức nhân. Ý chí mạnh mẽ khả
năng kiểm soát cảm xúc thể giúp các nhà lãnh đạo đưa ra các quyết định
sáng suốt hơn trong bối cảnh áp lực và bất định.
Thứ ba, ý chí kiên định và niềm đam những yếu tố quan trọng đối với
sự thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Những người
lOMoARcPSD| 61432759
sáng lập có động lực cao và khả năng chịu đựng thất bại thường nhiều khả
năng vượt qua khó khăn và thách thức để đạt được thành công.
Thứ tư, cảm xúc cũng có thể ảnh hưởng đến hành vi đầu tư của cá nhân và t
chức. Trong nhiều trường hợp, sự sợ hãi hoặc vội vã có thể dẫn đến các quyết
định đầu tư không hiệu quả. Ý chí mạnh mẽ và khả năng quản lý cảm xúc
thể giúp các nhà đầu tư duy trì một chiến lược hợp lý và kiên định.
Thứ năm, người lãnh đạo khả năng hiểu và quản cảm xúc của bản thân
người khác (kỹ năng thông cảm) thường hiệu quả hơn trong việc điều hành
doanh nghiệp. Họ có thể tạo dựng mối quan hệ tốt hơn với nhân viên, đối tác
và khách hàng, qua đó thúc đẩy một môi trường làm việc hợp tác và sáng tạo.
Thứ sáu, tình cảm tích cực tại nơi làm việc sự quan tâm đến cảm xúc của
nhân viên thể giúp tăng cường lòng trung thành giữ chân nhân viên giỏi.
Nhân viên cảm thấy được trân trọng hài lòng với công việc sẽ có xu hướng
gắn bó lâu dài với tổ chức.
III. KẾT LUẬN
Ý thức là nhân tố cùng quan trong trong thế giới quan nói chung và sự phát triển
kinh tế (kinh doanh) ở Việt Nam nói riêng. Tận dụng được vai trò to lớn của ý thức
trong thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã nhìn nhận đúng thực trạng đất nước và tận
dụng triệt để nguồn tri thức về kinh tế, khoa hc, công nghệ để được những chính
sách, đường lối đổi mới phù hợp. Đất nước ta vẫn một nước đang trên đà phát
lOMoARcPSD| 61432759
triển, tuy không thể sánh với các cường quốc trên thế giới, nhưng một đất nước với
xuất phát điểm nhỏ bé, lạc hậu cùng hơn 1000 năm dưới ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc thì với một ý chí kiên cường, mạnh mẽ, đã và đang phát triển tích cực
hơn từng ngày. Nền kinh tế chuyển từ "Kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
sang chế thị trường sự quản của Nhà nước " đã đánh dấu một chấm son
trong lịch skinh tế - xã hi cùng nhiều thành tựu khác rất đáng khích lệ. Tất cả đấy
chứng minh cho sự đúng đắn của Đảng nnước ta khi khẳng định rằng: “Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng H Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng”. Điều này được thể hiện khía cạnh ý thức của triết học
được trình bày trong tiểu luận.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
2. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin – NXB Chính trị quốc gia Sự thật
4. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính:
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?
dDocName=MOFUCM194860
5. Bộ Công Thương Việt Nam
https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/cong-nghiep-hoa-o-
vietnam-va-qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61432759
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân ……0O0…… BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Đề tài số 2:
Quan niệm duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của ý thức trong thực
tiễn, từ đó phân tích vai trò của ý thức trong thực tiễn phát triển kinh tế
(hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay Sinh viên : Nguyễn Thị Huyền Mã sinh viên : 11232914 Lớp : LLNL1105(223)_27 Khóa : 65 Số thứ tự : 25 Hà Nội – 2024 lOMoAR cPSD| 61432759 MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
II. NỘI DUNG ...................................................................................................... 2
1. Khái niệm về ý thức ...................................................................................... 2
1.1. Nguồn gốc của ý thức.............................................................................. 2
1.2. Bản chất của ý thức ................................................................................ 4
2. Vai trò của ý thức trong thực tiễn ................................................................ 5
3. Vai trò của ý thức trong thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh)
ởViệt Nam hiện nay .......................................................................................... 8
3.1. Vai trò của nhân tố tri thức khoa học, công nghệ trong phát triển kinh
tế ..................................................................................................................... 8
3.2. Vai trò của nhân tố tình cảm, ý chí trong phát triển kinh tế .............. 11
III. KẾT LUẬN .................................................................................................. 12
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 13 lOMoAR cPSD| 61432759 I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại được đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ kỹ thuật, quan niệm duy vật biện chứng đã trở thành một phần quan
trọng trong việc hiểu biết thế giới xung quanh ta. Trong bối cảnh đó, ý thức,
với tư cách là một khía cạnh tinh tế của tâm hồn con người, có ý nghĩa quan
trọng như một đối tượng phân tích. Cụ thể, quan niệm duy vật biện chứng về
ý thức đã mở ra những góc nhìn mới, đặt ra những câu hỏi sâu sắc về vai trò
của ý thức trong thực tiễn đời sống, kinh tế và xã hội. Nhìn vào nền kinh tế
của Việt Nam ta trong suốt những năm qua, chuyển mình từ một nền kinh tế
lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực
và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nền kinh tế không chỉ tăng
trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiển đáng kể.
Để nước ta có triển vọng phát triển như thế, Đảng và nhà nước ta đã không
ngừng thay đổi tư tưởng và chính sách. Và để xây dựng chính sách phù hợp
với thực trạng kinh tế Việt Nam, ý thức đóng vai trò rất quan trọng và thiết
thực trong tư duy của Đảng và nhà nước. Chính vì thế, đề tài em làm trong
tiểu luận này hướng đến việc phân tích sự ảnh hưởng của ý thức đối với quá
trình kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Chúng ta sẽ đi sâu vào các khía cạnh biện chứng của ý thức, tìm hiểu về cách
nó tương tác và hình thành trong thực tế kinh tế, từ đó đưa ra những nhận thức
mới và phân tích sâu sắc về vai trò của ý thức trong quá trình phát triển kinh
tế tại quốc gia chúng ta. lOMoAR cPSD| 61432759 II. NỘI DUNG
1. Khái niệm về ý thức
1.1. Nguồn gốc của ý thức  Nguồn gốc tự nhiên
Khi phê phán chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” có trước, C.
Mác đã từng khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về ý thức: “Ý niệm
chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biên đi ở trong đó” [C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđđ, t.23,
tr.35]. Cũng bàn luận về “ý thức”, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin cũng khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc
tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính
của một dạng vật chất sống có tổ chắc cao nhất là bộ óc người. Ý thức là chức
năng của bộ óc người hoạt động bình thường.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thế có ý thức. Phản
ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên
hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng.
Lịch sử phát triển thuộc tính phản ánh của vật chất gắn liền với lịch sử tiến
hóa của thế giới vật chất. Từ phản ảnh vật lí, hóa học của giới tự nhiên vô sinh
có kết cấu vật chất đơn giản cho đến giới tự nhiên hữu sinh với thuộc tính
phản ánh phát triển lên một trình độ mới – phản ảnh sinh học trong các cơ thể
sống và cuối cùng, tâm lí động vật là trình độ phản ánh cao nhất của loài động lOMoAR cPSD| 61432759
vật, bao gồm phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Tuy nhiên đó chưa
phải là ý thức mà mới là “cái sơ khai”, “cái tiền sử” gợi ý cho chúng ta tìm
hiểu “bộ óc có tư duy của con người” đã ra đời như thế nào.  Nguồn gốc xã hội
Hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời
của ý thức, thể hiện ở vai trò của nhân tố lao động và ngôn ngữ. Ph. Ăngghen
cũng đã nhấn mạnh những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của ý
thức qua: “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là
ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn,
làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người” [C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.43.]
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người,
chủ động, sáng tạo và có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi
thẳng đứng, giải phóng hai tay. Khi con người trải qua hoạt động lâu dài, trong
những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau,
cùng với sự phát triển của tri thức khoa học giúp nhận thức lý tính của loài
người ngày càng sâu sắc. Nhận thức lý tính phát triển làm cho ý thức ngày
càng trở nên năng động, sáng tạo hơn.
Lao động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh
nghiệm giữa các thành viên trong xã hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm,
trung tâm ngôn ngữ trong bộ óc con người được hình thành và hoàn thiện dần.
Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn
ngữ, con người có thể khái quát, trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. lOMoAR cPSD| 61432759
Như vậy, ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự
nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội,
trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội là điều kiện
đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển
1.2. Bản chất của ý thức
Trong khi chủ nghĩa duy tâm cường điệu vai trò của ý thức một cách thái quá,
trừu tượng tới mức thoát li hiện thực, biến nó thành một thực thể tồn tại độc
lập, thực tại duy nhất và nguồn gốc sinh ra vật chất, ngược lại, chủ nghĩa duy
vật siêu hình tầm thường hóa vai trò của nhận thức, coi ý thức cũng chỉ là một
dạng vật chất hoặc chỉ là sự phản ánh giản đơn thì chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã xuất hiện để luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Do
đó, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ
qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của
con người. “Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người”
[V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.1]
 Ý thức là “hình ảnh” về hiện thực khách quan trong bộ óc con người. Cả ý
thức và vật chất đều là hiện thực, có nghĩa là tồn tại thực, tuy nhiên giữa chúng
lại có sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan
còn ý thức là hiện thực chủ quan. Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính
thứ nhất còn ý thức chỉ là bản sao, là “hỉnh ảnh” về thế giới đó, là tính thứ hai.
 Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nội dung mà ý thức
phản ảnh là chủ quan, bị chi phối bởi tính ảo, còn hình thức phản ánh lại là
chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong đầu óc của
con người và được cải biên đi ở trong đó.
 Ý thức có đặc tính tính cực, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. lOMoAR cPSD| 61432759
Đây là đặc tính căn bản để phản ánh trình độ ý thức giữa người và động vật.
Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động
thế giới khách quan mà là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, có
mục đích rõ rệt. Từ đó, những tri thức mới ra đời áp dụng vào thực tiễn, cải tạo hiện thực.
 Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Ý thức là sản phẩm
lịch sử của sự phát triển xã hội, bắt nguồn tự thực tiễn lịch sử - xã hội, phản
ánh những quan hệ xã hội khách quan. “Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản
phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến chừng nào con người còn tồn tại” [Karl Marx và Friedrich Engels]
2. Vai trò của ý thức trong thực tiễn
Ý thức dù chỉ là nhân tố chủ quan và là tính ảo nhưng nó lại có vai trò chi phối
sự phát triển của thế giới khách quan. Thế giới khách quan phát triển đến mức,
trình độ nào thì cốt lõi không thể không nằm ở ý thức. Vì vậy, chúng ta không
thể không phủ nhận rằng ý thức có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn, nó được
thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, ý thức tạo nên điểm khác biệt giữa con người và những động vật khác
“Con người là một loại động vật cấp cao”, tuy nhiên, điều gì đã khiến cho loài
người khác biệt với những loại động vật nói chung và loại khỉ nói riêng? Đó
là việc biết chế tạo cộng cụ, biết săn bắt, biết ăn thức ăn chín và ăn tinh bột,
nói cách khác, tất cả những điều này là ý thức, xuất phát từ ý thức con người
muốn duy trì và đổi mới cuộc sống. Con người là loại vật duy nhất có thể tư
duy, có thể sáng tạo và có thể linh hoạt trong thực tiễn. Cũng chỉ có loài người
có thể dựa vào thực tế khách quan mà đưa ra suy nghĩ, ý tưởng mới phù hợp
với thực tế và biến vật chất trở nên tốt hơn và phù hợp hơn. Chính ý thúc đã lOMoAR cPSD| 61432759
khiến loài người khác biệt và vượt trội hơn so với bất kì loài nào trong thế
giới khách quan. Nhìn lại lịch sử phát triển của loài người, con người đã trải
qua hàng triệu năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy và tiến hóa từ tinh
tinh, vượn thành người. Loài người trải qua cuộc sống xã hội từ săn bắt, ăn
sống đến sản xuất lửa, vũ khí săn bắn, cho đến xã hội sản xuất có tổ chức hơn,
văn minh hơn. Để có được những sự phát triển xã hội từ thô sơ đến văn minh
này là hàng triệu năm sáng tạo và đổi mới bằng ý thức, mà sự tiến hóa này
không thể thấy được ở những loài vật khác trên Trái Đất.
Thứ hai, ý thức ảnh hưởng đến thay đổi xã hội.
Xã hội luôn phát triển theo chiều hướng đi lên, từ xã hội nguyên thủy với lối
sống bầy đàn, ăn lông ở lổ cho tới xã hội hiện nay với tư duy mới mẻ, sáng
tạo. Đấy chính là nhờ ý thức - ý thức xã hội, bao gồm các giá trị, niềm tin và
chuẩn mực chung của một cộng đồng theo thời gian có thể khuyến khích hoặc
cản trợ các thay đổi xã hội. Chúng ta cùng nhìn vào sự thay đổi trong ý thức
về bình đẳng xã hội, giữa nam và nữ, giữa người da trắng và người da màu,
giữa dân tộc đa số và dân tộc thiếu số,… Dẫu rằng khó có thể xóa sạch tư duy
phân biệt đã ăn sâu trong máu, nhưng với sự lên án mạnh mẽ, tiếng nói đòi
công bằng đầy quyết liệt, đã dẫn đến sự thay đổi trong luật pháp và chính sách
nhằm cải thiện quyền lợi cho họ.
Thứ ba, ý thức chỉ đạo, thúc đẩy hoạt động, hành động của con người Ý
thức được xem như là kim chỉ nam cho hành động. Ý thức đóng vai trò như
một bộ lọc thông tin và một khuôn khổ giúp con người hiểu và định hình thế
giới quanh họ. Nó giúp xác định cách thức mà một cá nhân phản ứng với môi
trường và tương tác với người khác. Quan niệm, niềm tin, và giá trị của một
cá nhân có thể dẫn dắt họ trong việc lựa chọn các hành động, từ đơn giản như
cách tiêu dùng đến phức tạp như cách tham gia vào các hoạt động chính trị
hay xã hội. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một lOMoAR cPSD| 61432759
cách chính xác cho hiện thực, từ đó giúp con người nhận thức được mình đang
ở đâu, cần làm gì và cách thức đạt được mục tiêu. Ở một khía cạch xa hơn,
những lý luận định hướng đúng đắn này sau đó được đưa vào quần chúng để
góp phần động viên, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, sức mạnh vật chất nhờ
đó cũng tăng lên gấp bội.
Thứ tư, ý thức có tính năng động, sáng tạo, là tiền đề cho sự phát triển của tri thức.
Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức càng lớn, nhất là trong thời đại
ngày này, thời đại của khoa học và công nghệ hiện đại. Ý thức có tính sáng
tạo rất lớn, điều này đã được chứng minh khi con người đã biết vận dụng
những tri thức đó để có được những phát minh đột phá trong lịch sử nhân loại.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng phải nằm tròn
khuôn phép, không thể vượt qua những tiến đề vật chất đã quy định. Nó phải
bắt đầu từ điều kiện khách quan rồi phát huy thêm năng lực chủ quan. Nếu
quên mất điều đó trong khi giải quyết vấn đề thực tiễn thì rất dễ rơi vào vũng
bùn của “quan duy ý chí” hoặc chủ quan giáo điều, chắc chắn thất bại. Ngược
lại, nếu chỉ dựa vào mỗi điều kiện khách quan để giải quyết vấn đề mà thiếu
đi nhân tố chủ quan thì vấn đề vẫn giải quyết được nhưng sẽ kém hiệu quả.
Chúng ta thấy rõ được khía cạnh năng động này của ý thức khi nhìn vào những
cuộc Cách mạng công nghiệp xuyên suốt lịch sử. Từ thời đại 1.0 đánh dấu sự
ra đời của cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên, khi sức mạnh của máy móc
thay thế lao động thủ công cho đến thời đại 4.0 thúc đẩy sự kết nối qua trí tuệ
nhân tạo, tự động hóa. Và gần đây, thế hệ Cách mạng công nghiệp 5.0 tiếp
nối, đánh dấu một sự dấn thân mới trong lĩnh vực công nghiệp. Trong thời đại
5.0, công nghệ và trí tuệ nhân tạo đứng ở trung tâm quá trình sản xuất và hoạt
động kinh doanh. Điều này đem lại một sự cân bằng độc đái giữa khả năng
tính toán của máy móc và sự năng động, linh hoạt của con người. “Thời đại lOMoAR cPSD| 61432759
5.0 đánh dấu sự hòa quyện của con người và máy móc, tạo ra khả năng kết
hợp sức mạnh trí tuệ nhân tạo với tinh thần sáng tạo của con người…” [Trích
dẫn học thuật từ Harari]. Đấy chính là đỉnh cao của vai trò ý thức khi mà khía
cạnh chủ quan và khách quan được song hành cùng nhau, phát huy tối đa để
biến tri thức thành sức mạnh để áp dụng vào thực tiễn đời sống. 3.
Vai trò của ý thức trong thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay
3.1. Vai trò của nhân tố tri thức khoa học, công nghệ trong phát triển kinh tế
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà quốc gia nào trên thế
giới này muốn phát triển kinh tế đều phải đi theo. Việt Nam cũng không phải
ngoại lệ khi mà từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng và
nhà nước ta đã đề ra chủ trương chính của thời kỳ là “Xây dựng một nền nền
kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và
lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”. Do đó, trước thời kì đổi mới, nước
ra có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa, được chia thành 2 giai đoạn:
từ năm 1960 đến năm 1975 tiến hành CNH ở miền Bắc và từ năm 1975 đến
năm 1985 tiến hành CNH trên phạm vi cả nước.
Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa, sự gắn kết chặt chẽ giữa CNH và
HĐH, sự gắn kết chặt chẽ giữa CNH và HĐH hiện nay là sự đổi mới về chất,
là nhu cầu của sự phát triển xã hội và cũng là quy định của thời đại. Điều này,
trước tiên, được quyết định bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của khoa
học và công nghệ và vai trò hết sức to lớn của chúng đối với nền sản xuất xã
hội nói riêng, đối với toàn bộ xã hội nói chung. Mối quan hệ giữa khoa học lOMoAR cPSD| 61432759
và công nghệ với sản xuất lúc ấy tuân theo quy luật: sản xuất đi trước công
nghệ và công nghệ lại đi trước khoa học.
Nhìn lại nước Việt Nam ta, một nước với xuất phát điểm là ngành nông nghiệp
cổ truyền theo phương thức sản xuất lạc hậu châu Á đã kéo dài hàng nghìn
năm, để có thể đi vào nền sản xuất hiện đại, chúng ta cần phải tiến hành một
quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả các hoạt động xã hội, trước
tiên là hoạt động sản xuất – từ chủ yếu là lao động thủ công sang chủ yếu là
lao động có kỹ thuật – nhằm nâng cao năng suất lao động. Đây cũng là lúc
khoa học và công nghệ phát huy vai trò then chốt của mình trong kinh tế Việt
Nam, được biểu hiện cụ thể trên những khía cạnh sau đây:
 Thứ nhất, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định trong việc nâng cao
năng suất và hiệu quả kinh tế, thông qua trang bị và trang bị lại các máy móc,
kỹ thuật, công nghệ hiện đại, giúp cải tiến quy trình sản xuất. tăng năng suất
lao động, giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm. Việt Nam đã và đang
áp dụng công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, công nghiệp chế biến và sản
xuất, từ đó tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Chúng ta có thể
thấy ở Việt Nam, ngành công nghiệp dệt may và da giày đang phát triển rất
nhanh chóng, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài giúp đẩy nhanh lượng
hàng hóa xuất khẩu đem lại nguồn kim ngạch rất lớn cho đất nước. Cụ thể,
theo báo cáo của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), năm 2020, Việt Nam
đã vượt Băng-la-đét trở thành quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai
thế giới, theo Niên giám Da giày thế giới, năm 2021, lần đầu tiên Việt Nam
chiếm trên 10% thị phần giày xuất khẩu toàn cầu với khoảng 1,2 tỷ đôi. Một
trong các yếu tố làm nên sự thành công đó là nhờ có tính tự động hóa cao và
vận hành đơn giản mà công nghệ máy laser mang lại. Cắt vải bằng công nghệ
laser rất được ưa chuộng và tin dừng trong ngành dệt may cũng như da giày, lOMoAR cPSD| 61432759
giúp nâng cao chất lượng trong từng sản phẩm kết hợp với mẫu mã đa dạng phong phú.
 Thứ hai, khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người. Đầu tư vào
giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố để Việt Nam phát
triển bền vững. Có nhiều cách để chúng ta thực hiện việc trang bị và trang bị
lại công nghiệp hiện đại, tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
dù bằng cách thức nào đi chăng nữa thì điều quan trọng và có tính quyết định
ở đây là cần có những con người đủ tri thức và năng lực để khai thác, sử dụng
hiệu quả các thiết bị hiện đại. Hay nói cách khác, sự chuyển đổi từ lao động
giá rẻ sang lao động chất lượng cao dựa trên kiến thức và công nghệ là mục tiêu chiến lược.
 Thứ ba, khoa học và công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi
trường thông tin và thị trường thông tin – huyết mạch của CNH, HĐH và của
cả nền kinh tế. Trong thời đại với phương tiện thông tin đại chúng phát triển
mạnh mẽ thì công nghệ và khoa học giúp việc kết nối giữa các lực lượng dễ
dàng hơn, người lao động sẽ thuận tiện hơn trong việc tìm kiếm việc làm, môi
trường làm việc phù hợp với chuyên môn đào tạo. Có trang thiết bị, máy móc
hiện đại, có những con người đã được đào tạo tay nghề và có kỹ năng, kỹ xảo
cao nhưng nếu thiếu thông tin, kết nối sẽ dẫn đến không biết đầu tư chúng vào
đâu cho đúng kịp thời để sinh lợi nhanh.
 Thứ tư, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ
chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và xã hội. Nhiệm vụ quan
trọng của công tác tổ chức, quản lý và liên kết các yếu tố trang thiết bị, máy
móc kỹ thuật, con người và thông tin lại với nhau thành một tổ hợp vận hành
hợp lý, đồng đều nhằm tối đá hóa năng suất. lOMoAR cPSD| 61432759
 Thứ năm, khoa học và công nghệ giúp nền kinh tế phát triển phát triển bền
vững. Cụ thể, khoa học và công nghệ giúp Việt Nam đối mặt với các thách
thức về môi trường như biến đổi khí hậu, quản lý nguồn nước và phát triển
năng lượng sạch. Bảo vệ môi trường đi đôi với phát triển kinh tế, chính vì vậy,
các công nghệ mới trong quản lý tài nguyên và bảo vệ thiên nhiên đang ngày càng được chú trọng.
3.2. Vai trò của nhân tố tình cảm, ý chí trong phát triển kinh tế.
Nhân tố tình cảm và ý chí trong phát triển kinh tế có vài trò không kém phần
quan trọng so với các yếu tố khác như tri thức khoa học và công nghệ. Cảm
xúc và ý chí của con người có thể ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi, quyết định
và thậm chí là sự thành công của các tổ chức và nền kinh tế tổng thể. Sau đây
là một số khía cạnh nổi bật về vai trò của nhân tố tình cảm và ý chí trong phát triển kinh tế:
 Thứ nhất, tình cảm và ý chí làm tăng động lực làm việc và năng suất. Tình
cảm là yếu tố tâm lý của con người, ảnh hưởng đến quyết định và hành vi.
Tình cảm tích cực như cảm giác hài lòng, động viên và trân trọng có thể cải
thiện đáng kể năng suất làm việc của nhân viên. Ngược lại, cảm xúc tiêu cực
có thể gây ra stress, giảm khả năng tập trug và hiệu quả công việc. Do đó, việc
tạo ra một môi trường làm việc hỗ trợ và tích cực là rất quan trọng để tối đa năng suất lao động
 Thứ hai, quyết định kinh doanh không chỉ dựa trên các phân tích lý trí mà còn
chịu ảnh hưởng bởi cảm xúc và nhận thức cá nhân. Ý chí mạnh mẽ và khả
năng kiểm soát cảm xúc có thể giúp các nhà lãnh đạo đưa ra các quyết định
sáng suốt hơn trong bối cảnh áp lực và bất định.
 Thứ ba, ý chí kiên định và niềm đam mê là những yếu tố quan trọng đối với
sự thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp và sáng tạo. Những người lOMoAR cPSD| 61432759
sáng lập có động lực cao và khả năng chịu đựng thất bại thường có nhiều khả
năng vượt qua khó khăn và thách thức để đạt được thành công.
 Thứ tư, cảm xúc cũng có thể ảnh hưởng đến hành vi đầu tư của cá nhân và tổ
chức. Trong nhiều trường hợp, sự sợ hãi hoặc vội vã có thể dẫn đến các quyết
định đầu tư không hiệu quả. Ý chí mạnh mẽ và khả năng quản lý cảm xúc có
thể giúp các nhà đầu tư duy trì một chiến lược hợp lý và kiên định.
 Thứ năm, người lãnh đạo có khả năng hiểu và quản lý cảm xúc của bản thân
và người khác (kỹ năng thông cảm) thường hiệu quả hơn trong việc điều hành
doanh nghiệp. Họ có thể tạo dựng mối quan hệ tốt hơn với nhân viên, đối tác
và khách hàng, qua đó thúc đẩy một môi trường làm việc hợp tác và sáng tạo.
 Thứ sáu, tình cảm tích cực tại nơi làm việc và sự quan tâm đến cảm xúc của
nhân viên có thể giúp tăng cường lòng trung thành và giữ chân nhân viên giỏi.
Nhân viên cảm thấy được trân trọng và hài lòng với công việc sẽ có xu hướng
gắn bó lâu dài với tổ chức. III. KẾT LUẬN
Ý thức là nhân tố vô cùng quan trong trong thế giới quan nói chung và sự phát triển
kinh tế (kinh doanh) ở Việt Nam nói riêng. Tận dụng được vai trò to lớn của ý thức
trong thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã nhìn nhận đúng thực trạng đất nước và tận
dụng triệt để nguồn tri thức về kinh tế, khoa học, công nghệ để có được những chính
sách, đường lối đổi mới phù hợp. Đất nước ta vẫn là một nước đang trên đà phát lOMoAR cPSD| 61432759
triển, tuy không thể sánh với các cường quốc trên thế giới, nhưng một đất nước với
xuất phát điểm nhỏ bé, lạc hậu cùng hơn 1000 năm dưới ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc thì với một ý chí kiên cường, mạnh mẽ, đã và đang phát triển tích cực
hơn từng ngày. Nền kinh tế chuyển từ "Kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước " đã đánh dấu một chấm son
trong lịch sử kinh tế - xã hội cùng nhiều thành tựu khác rất đáng khích lệ. Tất cả đấy
chứng minh cho sự đúng đắn của Đảng và nhà nước ta khi khẳng định rằng: “Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng”. Điều này được thể hiện rõ ở khía cạnh ý thức của triết học
được trình bày trong tiểu luận.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
2. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin – NXB Chính trị quốc gia Sự thật
4. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính:
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM194860
5. Bộ Công Thương Việt Nam
https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/cong-nghiep-hoa-o-
vietnam-va-qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html