Quốc huy là gì? Sự ra đời, ý nghĩa của Quốc huy nước Việt Nam
1. Khái niệm Quốc huy
Quc huy là huy hiệu tượng trưng cho quốc gia.
Quc huy ng thể xem như con dấu của các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc
Hội, hội đồng nhân dân; của các quan hành chính nhà nước như Chính phủ, U ban nhân
dân; của cơ quan xét xử như Toà án; của cơ quan kiểm sát như Viện kiểm sát đều phải có hình
quốc huy thể hiện quyền uy nhà nước.
Quc huy của mỗi quốc gia thường được quy định trong đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Quốc huy nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, giữa ngôi
sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ới nữa bánh xe răng cưa và dòng ch:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
2. Quá trình ra đời của Quốc huy
Câu chuyện về Quc huy Việt Nam bắt đầu tnhng năm 1950, khi một số quốc gia trên
thế giới chính thức thiết lập quan hngoại giao với Việt Nam. Đmở rộng quan hệ với các
ớc, khẳng định chủ quyền n tộc thông qua hot động ngoại giao, Bộ Ngoại giao đã
Công văn gửi Ban Thường vụ Quốc hội về việc sáng tác Quốc huy.
Năm 1951, cuộc thi sáng tác mẫu Quốc huy đã được phát động thu hút đông đảo họa
sỹ trên cả ớc tham gia. Họa sỹ Bùi Trang Chước đã có mt hành trình sáng tạo đầy n ợng
với 112 bản vẽ nghiên cứu, phác thảo và bản vẽ chi tiết. Trong đó, 15 bản phác thảo mẫu Quốc
huy của họa sđã được Ban Mthuật chọn gửi Bộ Tuyên truyn để trình Thủ ớng Chính
phủ.
Bản di bút "Tôi vẽ mẫu Quốc huy" của ha sỹ viết ngày 26/4/1985 đã kể rất cthvề hành
tnh sáng to mẫu Quốc huy. Ông viết:
"Năm 1953, nhân dịp Nhà in Bộ Tài chính biệt phái tôi một thời gian để vẽ mẫu bằng
huân chương cho Chính phủ, đồng chí Trịnh Xuân Côn, Ban Pháp chế PhThớng phụ
trách bộ phận huân chương, đã đưa cho tôi một số mẫu quốc huy của các nước hội chủ
nghĩa làm tài liệu tham khảo để tôi phác thảo mẫu quốc huy của ta.
Qua nghiên cứu quốc huy của bạn, đều dùng những bông lúa hoặc liềm, búa hay bánh xe
để ợng trưng cho công - nông nghiệp. Về nội dung bên trong dùng hình tượng mang đặc điểm
của đất nước, dân tộc mình. Dựa trên những gợi ý đó, tôi phác thảo một số mẫu về hình dáng
khác nhau, cũng dùng những bông lúa Việt Nam các đe hoặc bánh xe, tượng trưng cho công,
nông nghiệp.
Về nội dung bên trong, tôi dùng hình tượng cây tre hoặc con trâu. Song thấy cây tre con
trâu một số nước Á đông khác cũng có, tôi lại dùng địa danh lịch sử như Đền Hùng, Đống
Đa, Ô Quan Chưởng hoặc Khuê Văn Các, Chùa Một Cột, Tháp RùaNhưng tôi thấy các phác
thảo đó về hình dáng còn rắc rối, cầu kỳ và nội dung cũng chưa được ổn…
Phác thảo mẫu Quốc huy Việt Nam cuối cùng của tôi hồi đó trình bày theo hình tròn,
hai bên chung quanh là các bông lúa Việt Nam, có mấy bông rủ vào bên trong ôm cái đe ở giữa
phía dưới, ợng trưng cho công nông nghiệp, dưới đe là dải lụa sau này có chữ Việt Nam Dân
chCộng hòa, hai đầu dải lụa quấn hai bên bông lúa từ dưới lên mỗi bên hai đoạn. giữa
phía trên trong nền ngôi sao vàng trên nền đỏ. Dưới ngôi sao gần giữa trung tâm nền
vòng cung mặt trời, có tia chiếu sáng chung quanh, gợi lên hình ảnh của buổi bình minh.
Toàn bộ Quốc huy tôi dùng hai màu vàng đ. Khi thực hiện sơn mài sơn son thiếp
vàng, màu cổ truyền hoành phi câu đối của ta hay dùng. Các mẫu này sau đó được trình Bác
Hồ, Bác chọn góp ý: Hình tượng cái đe là thủ công nghiệp cá thể, nên dùng hình tượng tượng
trưng cho nền công nghiệp hiện đại"...
Sau khi chỉnh sửa theo góp ý của Bác Hồ, trong Di bút của nh, Họa sỹ Bùi Trang Chước
viết: "Mẫu Quốc huy lần này tôi cũng vẽ hình tròn, chung quanh hai bên có thêm những bông
lúa kéo dài lên trên tiếp giáp với nhau đỉnh trục đường vòng tròn, hai bên vẫn giữ những
bông lúa rủ xuống vào trong ôm lấy bánh xe thay cho cái đe, phía dưới, dải lụa giữa
ch"Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", hai đầu dải lụa vẫn quấn lên các bông lúa mỗi bên hai
đoạn, gốc các bông lúa bắt chéo nhau tạo thành đế Quốc huy thót hai đầu cho gọn. Phía bên
trong nền là ngôi sao, dưới ngôi sao để trống cho thoáng, không có mặt trời và tia chiếu sáng
chung quanh. Về màu sắc, riêng nền bên trong Quốc huy giải lụa màu đ, còn các ho
tiết khác như các bông lúa, ngôi sao và bánh xe đu là màu vàng"...
Mẫu Quốc huy này của Họa sỹi Trang Chước được Trung ương duyệt và có ý kiến chỉ
đạo chỉnh sửa một số chi tiết nhỏ. Khi đó, Họa sỹ i Trang Chước nhận nhiệm vụ tuyệt mt
của Chính phủ là vẽ và in tiền, do vậy, việc chnh sửa một vài chi tiết đã được giao cho Họa sỹ
Trần Văn Cẩn thực hiện.
Đến ngày 14/1/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lnh số 254-SL về việc ban bố mu
Quc huy nước Việt Namn chủ Cộng hòa. Kèm theo đó là Phụ lục số 1, 2 in mẫu vẽ Quc
huy màu vàng kim nhũ và Quốc huy không tô u.
3. Tác giả của mẫu vẽ Quốc huy
Quc huy Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh tượng trưng cho
lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam và tiền đồ xán lạn của nước Việt Nam. Bông lúa vàng
bao quanh ợng trưng cho nông nghiệp, bánh xe tượng trưng cho ng nghiệp chính giữa
dải lụa phía dưới ng chữ tên nước “Cộng hòa xã hi chủ nghĩa Việt Nam”.
Quc huy Việt Nam hiện nay (nguyên thủy là quốc huy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) được
Quc hi khóa I phê chuẩn năm 1955 tmẫu quốc huy do Chính phủ đề nghị. m 1976, khi
đất nước thống nhất, mẫu quốc huy được sửa đổi phần quốc hiệu.
Do những tranh chấp nhầm lẫn về tác giquốc huy suốt nhiều năm, Thủ ớng Phan
Văn Khải đã chỉ đạo bộ Văn hóa Thông tin thành lập tổ tư vấn để giám định tư liệu. Ngày
23/09/2004 Bộ Văn hóa – Thông tin đã thông báo kết luận khẳng đnh: “Mẫu quốc huy mt
cống hiến chung của giới Mỹ thuật Cách mạng Việt Nam, trong đó phải kể đến ng lao của
họa sỹ Bùi Trang Chưc người đã vẽ những mẫu quốc huy để làm cơ sở lựa chọn, hn thiện
họa sỹ Trần Văn Cẩn – người đã chỉnh sửa hoàn thiện mẫu quốc huy theo ý kiến chỉ đạo của
lãnh đạo để trình Quốc hội phê duyệt”.
Mẫu quốc huy gốc với tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòađược lưu trữ tại Trung tâm
lưu trữ quốc gia III (Bộ Nội vụ) với hai phụ bản in màu và in nét. Đáng tiếctừ sau năm 1976
do thiếu những quy chuẩn về việc sử dụng không được phổ biến nên hiện nay đang
tình trạng hình quốc huy không đồng nhất. Hình quốc huy trên đồng tiền, các bằng cấp, huân
huy chương, sách báo, trang thông tin điện tử, trên các trụ sở cơ quan nhà nước… mi hình
mi vẻ.
Nghiên cứu bản mẫu quốc huy chính thức chúng ta thấy về bố cục, tỉ lệ các hình tượng rất
cân đối, hài hòa, vững chắc. Hình dáng, đường nét của các bông lúa, hạt lúa, ngôi sao, bánh xe
răng cưa, dải lụa tên nước Việt Nam được chắt lc kĩ ỡng nên rất sinh động, tượng trưng
chuẩn mực. Màu sắc của quốc huy được phối hợp mạch lạc, hài hòa giữa đỏ, vàng nét
u. Mẫu quốc huy Việt Nam hoàn chỉnh về hình thức, sâu sắc vnội dung, đã thể hiện
đọng, súc tích về đất nước và dân tộc Vit Nam, với nền tảng công – nông nghiệp, với tưởng
cách mạng tinh thần đại đoàn kết, vi khát vọng hòa bìnhsự khẳng định chủ quyền thiêng
liêng của quốc gia.
Hình quốc huy các bạn đang xem mẫu quốc huy chính thức theo ng văn 1790/BNV-
TCBC của Bộ Nội vụ (ban hành 24/05/2013) gửi các cơ quan hành chính nhà nước về việc sử
dụng thống nhất và đồng bộ mẫu quốc huy.
4. Ý nghĩa của Quốc huy
Trước hết hình ngôi sao vàng 5 cánh đặt trung m nền đỏ của quốc huy. Màu đỏ ợng
trưng cho nhiệt huyết chiến đấu, là máu của các anh hùng liệt đã xả thân cứu nước màu
vàng là màu da của người Việt Nam. 5 cánh của ngôi sao là đại diện cho năm tầng lớp: sĩ, nông,
công, thương, binh cùng hợp lại, đoàn kết chống lại kẻ thù, xây dựng đất nước.
Hình ảnh bông lúa vàng bao quanh tượng trưng cho nông nghiệp, bánh xe tượng trưng cho
công nghiệp khẳng định: Việt Nam nước liên minh công - nông và ln đoàn kết cùng nhau
để xây dựng đất nước pt triển hơn.
Mang ý nghĩa biểu tượng của đất nước, của n tộc, Quốc Huyvật phẩm thường được
các nhà lãnh đạo, người làm trong quan nhà nước dùng để làm quà biếu tặng. vậy, ý nghĩa
quốc huy Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử dân tộc vượt thời gian.
5. Tội xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca
Căn cứ vào Điều 13 của Hiến pháp năm 2013 quy đnh thì Quốc kỳ, Quốc huy Quốc ca
được định nghĩa như sau:
Điu 13.
1. Quốc kỳ ớc Cộng hòa xã hội chnghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai
phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa ngôi sao vàng nămnh.
2. Quốc huy ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, giữa có ngôi
sao vàng năm cánh, xung quanh bông lúa, dưới nửa bánh xe răng ng chữ Cộng
hòa xã hi chủ nghĩa Việt Nam.
3. Quốc ca nước Cộng hòa xã hi chủ nga Việt Namnhạc và lời của bài Tiến quân ca.
Theo quy đnh của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi b sung 2017 t người nào có hành
vi xúc phạm đến Quốc k, Quốc huy Quốc ca thể truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội
xúc phạm Quốc kỳ, tội xúc phạm quốc huy, Quốc ca theo quy định tại Điều 351.
6. Cấu thành tội phạm Tội xúc phạm Quốc kỳ, tội xúc phạm quốc huy, Quốc ca
Một người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội danh được quy định trong Bộ lut
Hình sự nếu người đó đáp ứng đầy đủ nhng cấu tnh tội phạm của tội. Với tội xúc phạm
Quc k, tội xúc phạm Quốc huy và tội xúc phạm Quốc ca thì cấu tnh ti phạm cụ thnhư
sau:
- Về mặt khách thể của tội phạm: Tội phạm này xâm phạm đến trt tự quản hành chính,
xâm phạm biểu tượng Quốc gia.
- Đối tượng tác động Quốc k, Quốc huy Quốc ca (Quốc kỳ, Quốc huy Quốc ca
được dùng làm biểu trưng cho Nước cộng hòa Xã hi Chủ nghĩa Việt Nam).
- Về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi cố ý xúc phạm Quốc k, Quốc huy Quốc
ca của nước Cộng hòa hội Chủ nghĩa Việt Nam. nh vi này thể hiện ch viết, vẽ hoc
sửa chữa những nội dung không lành mạnh liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy Quốc ca.
Hành vi tính chất nhạo báng, s nhục hoặc những hành động khác làm biến dạng, phá
hỏng Quốc kỳ, Quốc huy Quốc ca.
- Về mặt chủ quan của ti phạm: Tội phạm được thực hiện với li cố ý. nghĩa chủ
thể nhn thức được hành vi của mình là nguy hiểm, mong muốn hậu quả xảy ra. Nếu được thực
hiện với li ý, do sơ xuất cẩu thmà hành vi xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy Quốc ca
t không phạm Tội xúc phạm Quốc kỳ, tội xúc phạm quốc kỳ Quốc ca theo quy định ti
Điều 351 Bộ Luật Hình sự năm 2015.
- Về mặt chủ thcủa tội phạm: Chủ thcủa tội danh này là chủ thể thường, bất kỳ người
o có năng lực trách nhiệm nh sự và đạt tuổi luật định.

Preview text:

Quốc huy là gì? Sự ra đời, ý nghĩa của Quốc huy nước Việt Nam
1. Khái niệm Quốc huy
Quốc huy là huy hiệu tượng trưng cho quốc gia.
Quốc huy cũng có thể xem như con dấu của các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc
Hội, hội đồng nhân dân; của các cơ quan hành chính nhà nước như Chính phủ, Uỷ ban nhân
dân; của cơ quan xét xử như Toà án; của cơ quan kiểm sát như Viện kiểm sát đều phải có hình
quốc huy thể hiện quyền uy nhà nước.
Quốc huy của mỗi quốc gia thường được quy định trong đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi
sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nữa bánh xe răng cưa và dòng chữ:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam"

2. Quá trình ra đời của Quốc huy
Câu chuyện về Quốc huy Việt Nam bắt đầu từ những năm 1950, khi một số quốc gia trên
thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Để mở rộng quan hệ với các
nước, khẳng định chủ quyền dân tộc thông qua hoạt động ngoại giao, Bộ Ngoại giao đã có
Công văn gửi Ban Thường vụ Quốc hội về việc sáng tác Quốc huy.
Năm 1951, cuộc thi sáng tác mẫu Quốc huy đã được phát động và thu hút đông đảo họa
sỹ trên cả nước tham gia. Họa sỹ Bùi Trang Chước đã có một hành trình sáng tạo đầy ấn tượng
với 112 bản vẽ nghiên cứu, phác thảo và bản vẽ chi tiết. Trong đó, 15 bản phác thảo mẫu Quốc
huy của họa sỹ đã được Ban Mỹ thuật chọn gửi Bộ Tuyên truyền để trình Thủ tướng Chính phủ.
Bản di bút "Tôi vẽ mẫu Quốc huy" của họa sỹ viết ngày 26/4/1985 đã kể rất cụ thể về hành
trình sáng tạo mẫu Quốc huy. Ông viết:
"Năm 1953, nhân dịp Nhà in Bộ Tài chính biệt phái tôi một thời gian để vẽ mẫu bằng và
huân chương cho Chính phủ, đồng chí Trịnh Xuân Côn, Ban Pháp chế Phủ Thủ tướng phụ
trách bộ phận huân chương, đã đưa cho tôi một số mẫu quốc huy của các nước xã hội chủ
nghĩa làm tài liệu tham khảo để tôi phác thảo mẫu quốc huy của ta.

Qua nghiên cứu quốc huy của bạn, đều dùng những bông lúa hoặc liềm, búa hay bánh xe
để tượng trưng cho công - nông nghiệp. Về nội dung bên trong dùng hình tượng mang đặc điểm
của đất nước, dân tộc mình. Dựa trên những gợi ý đó, tôi phác thảo một số mẫu về hình dáng
khác nhau, cũng dùng những bông lúa Việt Nam và các đe hoặc bánh xe, tượng trưng cho công, nông nghiệp.

Về nội dung bên trong, tôi dùng hình tượng cây tre hoặc con trâu. Song thấy cây tre con
trâu ở một số nước Á đông khác cũng có, tôi lại dùng địa danh lịch sử như Đền Hùng, Gò Đống
Đa, Ô Quan Chưởng hoặc Khuê Văn Các, Chùa Một Cột, Tháp Rùa… Nhưng tôi thấy các phác
thảo đó về hình dáng còn rắc rối, cầu kỳ và nội dung cũng chưa được ổn…

Phác thảo mẫu Quốc huy Việt Nam cuối cùng của tôi hồi đó là trình bày theo hình tròn,
hai bên chung quanh là các bông lúa Việt Nam, có mấy bông rủ vào bên trong ôm cái đe ở giữa
phía dưới, tượng trưng cho công nông nghiệp, dưới đe là dải lụa sau này có chữ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, hai đầu dải lụa quấn hai bên bông lúa từ dưới lên mỗi bên hai đoạn. Ở giữa
phía trên trong nền là ngôi sao vàng trên nền đỏ. Dưới ngôi sao gần giữa trung tâm nền là
vòng cung mặt trời, có tia chiếu sáng chung quanh, gợi lên hình ảnh của buổi bình minh.

Toàn bộ Quốc huy tôi dùng hai màu vàng và đỏ. Khi thực hiện sơn mài là sơn son thiếp
vàng, màu cổ truyền hoành phi câu đối của ta hay dùng. Các mẫu này sau đó được trình Bác
Hồ, Bác chọn góp ý: Hình tượng cái đe là thủ công nghiệp cá thể, nên dùng hình tượng tượng
trưng cho nền công nghiệp hiện đại"...

Sau khi chỉnh sửa theo góp ý của Bác Hồ, trong Di bút của mình, Họa sỹ Bùi Trang Chước
viết: "Mẫu Quốc huy lần này tôi cũng vẽ hình tròn, chung quanh hai bên có thêm những bông
lúa kéo dài lên trên tiếp giáp với nhau ở đỉnh trục đường vòng tròn, hai bên vẫn giữ những
bông lúa rủ xuống vào trong ôm lấy bánh xe thay cho cái đe, ở phía dưới, dải lụa ở giữa có
chữ "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", hai đầu dải lụa vẫn quấn lên các bông lúa mỗi bên hai
đoạn, gốc các bông lúa bắt chéo nhau tạo thành đế Quốc huy thót hai đầu cho gọn. Phía bên
trong nền là ngôi sao, dưới ngôi sao để trống cho thoáng, không có mặt trời và tia chiếu sáng
chung quanh. Về màu sắc, riêng nền bên trong Quốc huy và giải lụa là màu đỏ, còn các hoạ
tiết khác như các bông lúa, ngôi sao và bánh xe đều là màu vàng"...

Mẫu Quốc huy này của Họa sỹ Bùi Trang Chước được Trung ương duyệt và có ý kiến chỉ
đạo chỉnh sửa một số chi tiết nhỏ. Khi đó, Họa sỹ Bùi Trang Chước nhận nhiệm vụ tuyệt mật
của Chính phủ là vẽ và in tiền, do vậy, việc chỉnh sửa một vài chi tiết đã được giao cho Họa sỹ
Trần Văn Cẩn thực hiện.
Đến ngày 14/1/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 254-SL về việc ban bố mẫu
Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kèm theo đó là Phụ lục số 1, 2 in mẫu vẽ Quốc
huy có tô màu vàng kim nhũ và Quốc huy không tô màu.
3. Tác giả của mẫu vẽ Quốc huy
Quốc huy Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh tượng trưng cho
lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam và tiền đồ xán lạn của nước Việt Nam. Bông lúa vàng
bao quanh tượng trưng cho nông nghiệp, bánh xe tượng trưng cho công nghiệp và chính giữa
dải lụa phía dưới là dòng chữ tên nước “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Quốc huy Việt Nam hiện nay (nguyên thủy là quốc huy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) được
Quốc hội khóa I phê chuẩn năm 1955 từ mẫu quốc huy do Chính phủ đề nghị. Năm 1976, khi
đất nước thống nhất, mẫu quốc huy được sửa đổi phần quốc hiệu.
Do những tranh chấp và nhầm lẫn về tác giả quốc huy suốt nhiều năm, Thủ tướng Phan
Văn Khải đã chỉ đạo bộ Văn hóa – Thông tin thành lập tổ tư vấn để giám định tư liệu. Ngày
23/09/2004 Bộ Văn hóa – Thông tin đã thông báo kết luận khẳng định: “Mẫu quốc huy là một
cống hiến chung của giới Mỹ thuật Cách mạng Việt Nam, trong đó phải kể đến công lao của
họa sỹ Bùi Trang Chước – người đã vẽ những mẫu quốc huy để làm cơ sở lựa chọn, hoàn thiện
và họa sỹ Trần Văn Cẩn – người đã chỉnh sửa hoàn thiện mẫu quốc huy theo ý kiến chỉ đạo của
lãnh đạo để trình Quốc hội phê duyệt”.
Mẫu quốc huy gốc với tên nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được lưu trữ tại Trung tâm
lưu trữ quốc gia III (Bộ Nội vụ) với hai phụ bản in màu và in nét. Đáng tiếc là từ sau năm 1976
do thiếu những quy chuẩn về việc sử dụng và không được phổ biến rõ nên hiện nay đang có
tình trạng hình quốc huy không đồng nhất. Hình quốc huy trên đồng tiền, các bằng cấp, huân
– huy chương, sách báo, trang thông tin điện tử, trên các trụ sở cơ quan nhà nước… mỗi hình mỗi vẻ.
Nghiên cứu bản mẫu quốc huy chính thức chúng ta thấy về bố cục, tỉ lệ các hình tượng rất
cân đối, hài hòa, vững chắc. Hình dáng, đường nét của các bông lúa, hạt lúa, ngôi sao, bánh xe
răng cưa, dải lụa có tên nước Việt Nam được chắt lọc kĩ lưỡng nên rất sinh động, tượng trưng
và chuẩn mực. Màu sắc của quốc huy được phối hợp mạch lạc, hài hòa giữa đỏ, vàng và nét
nâu. Mẫu quốc huy Việt Nam hoàn chỉnh về hình thức, sâu sắc về nội dung, đã thể hiện cô
đọng, súc tích về đất nước và dân tộc Việt Nam, với nền tảng công – nông nghiệp, với lý tưởng
cách mạng và tinh thần đại đoàn kết, với khát vọng hòa bình và sự khẳng định chủ quyền thiêng liêng của quốc gia.
Hình quốc huy các bạn đang xem là mẫu quốc huy chính thức theo công văn 1790/BNV-
TCBC của Bộ Nội vụ (ban hành 24/05/2013) gửi các cơ quan hành chính nhà nước về việc sử
dụng thống nhất và đồng bộ mẫu quốc huy.
4. Ý nghĩa của Quốc huy
Trước hết là hình ngôi sao vàng 5 cánh đặt ở trung tâm nền đỏ của quốc huy. Màu đỏ tượng
trưng cho nhiệt huyết chiến đấu, là máu của các anh hùng liệt sĩ đã xả thân cứu nước và màu
vàng là màu da của người Việt Nam. 5 cánh của ngôi sao là đại diện cho năm tầng lớp: sĩ, nông,
công, thương, binh cùng hợp lại, đoàn kết chống lại kẻ thù, xây dựng đất nước.
Hình ảnh bông lúa vàng bao quanh tượng trưng cho nông nghiệp, bánh xe tượng trưng cho
công nghiệp khẳng định: Việt Nam là nước liên minh công - nông và luôn đoàn kết cùng nhau
để xây dựng đất nước phát triển hơn.
Mang ý nghĩa là biểu tượng của đất nước, của dân tộc, Quốc Huy là vật phẩm thường được
các nhà lãnh đạo, người làm trong cơ quan nhà nước dùng để làm quà biếu tặng. Vì vậy, ý nghĩa
quốc huy Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử dân tộc vượt thời gian.
5. Tội xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca
Căn cứ vào Điều 13 của Hiến pháp năm 2013 quy định thì Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca
được định nghĩa như sau: “Điều 13.
1. Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai
phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
2. Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi
sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài Tiến quân ca.”
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì người nào có hành
vi xúc phạm đến Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội
xúc phạm Quốc kỳ, tội xúc phạm quốc huy, Quốc ca theo quy định tại Điều 351.
6. Cấu thành tội phạm Tội xúc phạm Quốc kỳ, tội xúc phạm quốc huy, Quốc ca
Một người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội danh được quy định trong Bộ luật
Hình sự nếu người đó đáp ứng đầy đủ những cấu thành tội phạm của tội. Với tội xúc phạm
Quốc kỳ, tội xúc phạm Quốc huy và tội xúc phạm Quốc ca thì cấu thành tội phạm cụ thể như sau:
- Về mặt khách thể của tội phạm: Tội phạm này xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính,
xâm phạm biểu tượng Quốc gia.
- Đối tượng tác động là Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca (Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca
là được dùng làm biểu trưng cho Nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam).
- Về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi cố ý xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc
ca của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hành vi này thể hiện ở chỗ viết, vẽ hoặc
sửa chữa những nội dung không lành mạnh liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca.
Hành vi có tính chất nhạo báng, sỉ nhục hoặc có những hành động khác làm biến dạng, phá
hỏng Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca.
- Về mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Có nghĩa là chủ
thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, mong muốn hậu quả xảy ra. Nếu được thực
hiện với lỗi vô ý, do sơ xuất cẩu thả mà có hành vi xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ca
thì không phạm Tội xúc phạm Quốc kỳ, tội xúc phạm quốc kỳ và Quốc ca theo quy định tại
Điều 351 Bộ Luật Hình sự năm 2015.
- Về mặt chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội danh này là chủ thể thường, bất kỳ người
nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt tuổi luật định.