Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 44879730
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam Đinh Thị Quỳnh Hà 29 May 2016
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội Mục lục Trang LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho tới năm 1986 đã chuyển sang
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế hỗn hợp, phụ
thuộc cao vào xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xét về mặt kinh tế,
Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế
giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển
Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN,…Kinh
tế Việt Nam dưới sự điều hành của chính phủ còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải
quyết, các vấn đề tồn tại gắn liền với gốc rễ của bất ổn kinh tế vĩ mô đã ăn sâu,
bám chặt vào cơ cấu nội tại của nền kinh tế nước này, cộng với việc điều hành lOMoAR cPSD| 44879730
kém hiệu quả, liệu dẫn đến liên tục gặp lạm phát cũng như nguy cơ đình đốn nền kinh tế.
Chúng ta đã biết được Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản
xuất hàng hóa, quy định bản chất của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động
của chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động
của quy luật này. Chính vì thế, chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị, tìm
hiểu vai trò và tác động của nó tới nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, để có thể vận dụng nó khắc phục những nhược điểm của nền
kinh tế và phát triển đất nước. Vì vậy em đã quyết định lựa chọn đề tài “ Quy
luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam”.
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn và và dạy dỗ tận tình qua các bài giảng của
cô giáo Đinh Thị Quỳnh Hà. Rất mong sự đóng góp ý kiến của cô để bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: NỘI DUNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ
I. Nội dung của quy luật giá trị
1. Quan điểm của Mác về giá trị:
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế như : quy
luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật lưu thông tiền tệ,… Nhưng vai trò cơ sở
cho sự chi phối nền sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
a) Nội dung và yêu cầu chung của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng
hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy
tác dụng của quy luật giá trị.
Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa
dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Cụ thể: 1 lOMoAR cPSD| 44879730
- Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá
biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao
phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động
xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có
lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của
mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
- Trong lưu thông, hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết, có nghĩa trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
- Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì
giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên
trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của
nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị còn , giá cả còn phụ thuộc
vào các nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác
động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách
rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả
thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động
của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật
giá trị phát huy tác dụng.
b) Tác động của quy luật giá trị:
Trong sản xuất hàng hóa , quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
• Điều tiết sản xuất tức là điều hòa , phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông qua thông
qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật
cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ lên cao
hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành
ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng 2 lOMoAR cPSD| 44879730
lên. Ngược lại, khi cung ở ngành ấy vượt quá cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm
xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản
xuất phảo thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào nhành có giả cả hàng hóa cao.
• Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá
cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động. thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng háo là một chủ thể kinh
tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do
điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác
nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động xá biệt nhỏ hơn hao phí lao động
xã hội của hàng hóa ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao
phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao đỗng xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi,
lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ
phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động
xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ
chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. sự cạnh
tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã
hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người
có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt
nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ 3 lOMoAR cPSD| 44879730
đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm them tư liệu sản xuất, mở rộng
sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm
ăn kém cỏi, hoặc găoj rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản, trở thành nghèo khó.
c) Biểu hiện của quy luật giá trị trong tư bản tự do canh tranh và tư bản độc quyền:
- Trong thời kì tư bản tự do cạnh tranh: giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản
xuất. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Tiền
đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện
để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ
nghĩa phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác, sư liên
hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển.Trước đây,khi
chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất, giá cả xoay quanh giá trị. Giờ đây, giá
cả hàng hóa xoay quanh giá cả sản xuất. Giá trị là cơ sở, là nội dung bên trong
của giá cả sản cuât; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, giá cả thị
trường xoay quanh giá cả sản xuất.
- Thời kì tư bản độc quyền: giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. Do
chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc
quyền; giá cả độc quyền thấp khi bán, cao khi mua. Tuy vậy, giá cả độc quyền
vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc
quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền nhằm chiếm đoạt một phần giá trị
và giá trị thặng dư của người khác. II.
Một số quan điểm khác về giá trị:
1. William.Petty:
Theo ông, nếu như giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo
là giá cả thị trường của hàng hoá. Giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả
tự nhiên và quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường. 4 lOMoAR cPSD| 44879730
Đối với W.Petty, việc phân biệt giá cả tự nhiên - hao phí lao động trong
điều kiện bình thường với giá cả chính trị – lao động chi phí trong điều kiện
chính trị không thuận lợi có ý nghĩa to lớn. Ông là người đầu tiên trong lịch sử
đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao động.
Lý thuyết giá trị lao động của W.Petty còn chịu ảnh hưởng tư tưởng chủ
nghĩa trọng thương. Ông có luận điểm nổi tiếng là: “Lao động là cha còn đất là
mẹ của mọi của cải ”. Về phương diện của cải vật chất, đó là công lao to lớn của
ông, nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị – lao động khi kết luận “Lao động và
đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm” tức là cả lao động và đất đai
là nguồn gốc của giá trị.
2. A.Đam.Simith
Ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động
là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử
dụng và giá trị trao đổi và khẳng định giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi.
Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá là do hao phí lao động trung bình cần thiết
quyết định và đưa ra 2 định nghĩa về giá cả là giá cả tự nhiên và giá cả thị trường.
Về bản chất, giá cả thị trường là biểu hiện tiền tệ của giá trị.
Lý thuyết giá trị – lao động của A.Smith còn có hạn chế. Ông nêu lên 2
định nghĩa: Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết
định. Lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông là
người đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị–lao động. Thứ hai, ông cho rằng,
giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết
định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong
nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế TBCN, giá trị do các
nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô.. 5 lOMoAR cPSD| 44879730
Ông cho rằng “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi
thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Tư tưởng này xa rời lý
thuyết giá trị – lao động “Giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá
quyết định, lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị”.
3. David Ricardo
Ông phân biệt rõ 2 thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng
không phải là thước đo của nó. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối,
còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng
duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối. .Ricardo chỉ ra là định nghĩa “Giá trị lao
động hao phí quyết định” là đúng, còn định nghĩa “Giá trị lao động mà người ta
có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định” là không đúng. Theo ông,
không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn mà ngay cả trong nền sản
xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định.
Ricardo cũng khẳng định “Giá trị là do lao động hao phí quyết định” và
cấu tạo giá trị hàng hoá bao gồm 3 bộ phận là: c+v+m, nhưng ông cũng chưa
phân tích được sự dịch chuyển “c” vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào.
Phương pháp nghiên cứu của ông còn có tính siêu hình. Ông coi giá trị là
phạm trù vĩnh viễn. Ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá và giá cả sản xuất,
chưa thấy được mâu thuẩn giữa giá trị và giá trị sử dụng vì chưa có được lý
thuyết tính hai mặt của lao động. 4. J.Batis.SAY
J.B.Say đã đồng nhất giá trị với giá trị sử dụng và phủ nhận vai trò duy
nhất của lao động trong việc tạo ra giá trị của hàng hoá. Ông còn cho rằng, giá
trị chỉ được xác định trên thị trường – tức là chỉ được xác định trong trao đổi.
Thước đo giá trị của một vật phẩm chính là số lượng vật phẩm khác mà người 6 lOMoAR cPSD| 44879730
khác đưa lại để đổi lấy vật phẩm đó. Nói khác đi theo ông, giá trị được quyết
định với quan hệ cung – cầu. Rõ ràng ở đây, Say đã đồng nhất giá trị với giá cả thị trường. 5. Sismondi
Ông thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá. Ông
đã tiến thêm 1 bước so với D.Ricardo là đưa ra thước đo giá trị hàng hoá: “thời
gian lao động xã hội cần thiết”. Do đó, ông đã qui lao động thành mối liên hệ
giữa nhu cầu xã hội và thời gian lao động xã hội cần thiết để thoả mãn nhu cầu.
Tuy nhiên, so với D.Ricardo thì Sismondi còn có chỗ thụt lùi: D.Ricardo coi giá
trị tương đối của hàng hoá được đo bằng lượng lao động chi phí để sản xuất ra
hàng hoá, còn Sismondi, giá trị tương đối của hàng hoá được qui định bởi cạnh
tranh, bởi lượng cầu về hàng hoá.
6. Pi-e Giô-Dép PruĐông
Giá trị bao gồm 2 mặt mâu thẫn với nhau: Giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi, chúng phản ánh hai mặt khuynh hướng mâu thuẫn: dồi dào và khan hiếm.
Theo ông, giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào, còn giá trị trao đổi là hiện
thân của sư khan hiếm. Mâu thuẫn tưởng tượng này chỉ có thể xoá đi bằng việc
thiết lập sự trao đổi ngang giá, tức là “giá trị xác lập”. Do đó, ông đề nghị không
chỉ sản xuất những hàng hoá, mà còn đòi hỏi tạo ra sự trao đổi ngang giá để tất
cả các hàng hoá được thực hiện, tức là biến thành “giá trị xác lập”. Tức là, giá
trị mà nó xuất hiện trong trao đổi và thị trường chấp nhận, ông cho rằng trao đổi
và lao động là nguồn gốc giá trị.
C.Mác đã nhận xét. “Lý luận giá trị của Prudong” là sự giải thích một
cách không tưởng lý luận của Ricardo. Và bằng chính cách đó đã bóp méo, tầm
thường hoá cả những phạm trù giá trị khác. 7 lOMoAR cPSD| 44879730 III . Kết luận:
Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, đó là lao động cụ thể và trìu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội.
Mác định nghĩa lượng giá trị hàng hóa đo được bằng thời gian lao động xã hội
cân thiết, phê phán các quan điểm đi trước. Mác là người đầu tiên phát hiện ra
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Trên cơ ở phát hiện này, Mác đã
thực hiện một cuộc cách mạng trong khoa học kinh tế chính trị. Ông viết:” Tôi
là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và
khoa học kinh tế chính trị xoay quanh điểm này”.
Những tác động của quy luật giá trị đến nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn
tự nhiên, dào thải các yêu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt
khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong
xã hội. Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu
cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước
cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó,
đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 8 lOMoAR cPSD| 44879730
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM I.
Kinh tế thị trường:
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường. Có thể trừu tượng hoá một số đặc điểm cụ thể, phản ánh
sự giao thoa, chuyển tiếp và đan xen giữa các mô hình để quy về ba mô hình chủ yếu sau:
● Mô hình kinh tế thị trường tự do
● Mô hình kinh tế thị trường - xã hội
● Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam)
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đang được thực thi chỉ
ở hai nước (Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN và Trung Quốc -
kinh tế thị trường XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ
thử nghiệm. Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức
sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn.
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau: •
Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường,
vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh
tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng
yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng...) được nhà nước quản lý. Các
thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một
cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa. •
Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh 9 lOMoAR cPSD| 44879730
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân. •
Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành công. •
Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân
phối lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến
hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ,
công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển. •
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. •
Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân
được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. II.
Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế Việt Nam
1. Khái quát về nền kinh tế thị trường Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống
kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên 1990
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có
nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế
này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thêm vào đó, công tác lý
luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn. Gần 20 10 lOMoAR cPSD| 44879730
năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy
đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008,
Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
a) Giai đoạn trước Đại VI (1986)
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp. Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang
tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập
trung, bao cấp và đóng cửa.
b) Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung
chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước,
theo định hướng XHCN. Đại hội VI thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” trên con đường đi lên CNXH (Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Hội
nghị giữa kỳ Đại hội VII).
c) Giai đoạn từ ĐH IX (2001) đến nay 11 lOMoAR cPSD| 44879730
Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh
tế sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong
giai đoạn tiến lên CNXH, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Biểu hiện của quy luật giá trị
Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên CHXN ở
Việt Nam.Mục tiêu phát triển là nhằm “xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu”.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế vận động
theo những kinh tế vốn có của kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp, hộ gia đình
tự quyết định hành vi của mình để trả lời thỏa đáng 3 câu hỏi: sản xuất cái gì,
sản xuất cho ai, sản vuất như thế nào. Trên thị trường hàng hóa và dịch vụ, giá
cả điều tiết cung cầu. tiến hành đổi mới doanh nghiệp nhà nước, mở rộng quyền
tự chủ doanh nghiệp, xóa bỏ dần vieccj nhà nước bao cấp và sản xuất tiêu chực,
giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ lâu dài.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường. Mỗi thành phần kinh tế theo
đuổi mục đích riêng và bằng những cách khác nhau, chịu sự tác động của quy
luật kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải nắm giữ
vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt. Đó là những "đài chỉ huy", là huyết
mạch chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính
định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế
thị trường định hướng XHCN so với các mô hình kinh tế thị trường khác.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở
sức mạnh định hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải 12 lOMoAR cPSD| 44879730
ở quy mô và sự hiện diện của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả
hoặc hầu hết các ngành, các lĩnh vực.
Mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Chủ động hòa nhập, thực hiện đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực
để phát huy nội lực, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, định
hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới cơ chế quản lý: Xóa bỏ hoàn toàn cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế thị
trường Việt Nam
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh cơ chế quản lý, phát triển kinh tế thị trường.
- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nang cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước.
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Tiếp tục chủ đồng hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh
tế-xã hội và điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế.
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa, tác động đến sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Đây cũng là một quy luật kinh tế có vai trò quan
trọng đối với sự hình thành và phát triển nền kinh tế của nước ta trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy rất rõ ràng rằng quy luật giá trị 13 lOMoAR cPSD| 44879730
và những biểu hiện của nó như giá cả, tiền tệ, giá trị hàng hóa, …là lĩnh vực tác
động rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội.
Đảng và nhà nước nước ta đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
việc dổi mới xã hội và vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế đất nước. Việc
tuân theo nội dung của quy luật giá trị để hình thành và xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Tuy nhiên, sự vân dụng đó vẫn còn những hạn chế nhất định và rất cần phải
thực hiện các biện pháp kịp thời để khắc phục. 14 lOMoAR cPSD| 44879730
Tài liệu tham khảo:
[1] Giáo trình. (2010). Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] Lê Thành Nghiệp. (n.d.). Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
[3] Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng. (2009). Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và ột
phá. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] BCHTW. (2008). Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản - Nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban hành Chương trình
hành ộng của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.
[5] Nguyễn Văn Linh. (1986). “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương (khóa
VI) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII”. Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Downloaded by H? Th? Thu Trang (tranght942@gmail.com)