Quy luật lượng chất Triết học - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Quy luật lượng chất Triết học - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 40425501
Học viện Ngoại giao
---------***----------
TIỂU LUẬN
Môn học: Triết học Mác-Lênin
Đề tài:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và vận dụng vào học tập, cuộc sống
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3
4. Cấu trúc tiểu luận ......................................................................................... 3
B. NỘI DUNG ........................................................................................................... 4
Chương I: Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa .............................. 4
từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất ...................... 4
1.1. Nội dung các khái niệm liên quan ............................................................ 4
lOMoARcPSD| 40425501
2
1.2. Nội dung mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về
chất ..................................................................................................................... 7
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận ........................................................................ 8
Chương II: Vận dụng quy luật vào học tập và cuộc sống ................................. 9
2.1. Từng bước tích lũy về lượng để tạo tiền đề cho sự thay đổi về chất ..... 9
2.2. Cần tránh hai khuynh hướng “tả khuynh” và “hữu khuynh” ............ 10
2.3. Vận dụng linh hoạt, phù hợp các hình thức của bước nhảy ................ 11
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 13
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quy luật chuyển hóa tnhững sthay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất một trong ba quy luật bản thuộc nguyên về sự phát triển trong chủ
nghĩa duy vật biện chứng được đề xướng bởi học thuyết triết học của Karl Marx
1
Friedrich Engels
2
. Quy luật chuyển hóa này cho phép con người tìm hiểu về ch
thức tính chất của sphát triển, từ đâu mà xuất hiện những sự thay đổi về chất, và
ngược lại, những sự thay đổi về chất này tác động qua lại như thế nào đối với
lượng của sự vật. Chính bởi vậy quy luật chuyển hóa tnhững sự thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất đóng vai trò nền tảng cho việc nghiên cứu sự
phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới chung, đồng thời cũng tạo sở
cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng.
Trong thực tiễn đời sống, quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất còn có ý nghĩa đối với nhận thức hành động của
mỗi cá nhân. đây, tôi muốn đề cập đến những thay đổi, phát triển trong đời sống
học tập, sinh hoạt của sinh viên. Đặc biệt, đối với các bạn sinh viên năm nhất, khi
vừa có những chuyển giao từ THPT lên Đại học, đối mặt với sự khác nhau giữa hai
môi trường thì quy luật này thể giúp định hình được phương pháp học tập đúng
đắn, hiệu quả và phù hợp với bản thân hơn, tránh lặp lại những sai lầm về sau. Biết,
1
Các Mác
2
Ph. Ăng-ghen
lOMoARcPSD| 40425501
3
hiểu vận dụng tốt quy luật này sẽ là tiền đề vững chắc để sinh viên rèn luyện
phát triển duy, ứng xử của bản thân, hành trang cho việc xây dựng sự nghiệp
trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quy luật chuyển hóa tnhững sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất trong chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết để hiểu được bản
chất, ý nghĩa cũng như vị trí của quy luật này đối với học thuyết triết học Marx-
Lenin. Từ đó, thể rút ra được những ứng dụng của quy luật trong thực tiễn cuộc
sống, giúp các bạn có thêm những trải nghiệm thú, bổ ích đối với môn học cũng
như thể cải thiện, phát triển đời sống học tập, sinh hoạt trở nên lành mạnh, tích
cực hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu quy luật chuyển hóa tnhững sự thay đổi v
lượng dẫn đến những thay đổi vchất, được áp dụng trong phạm vi đối với sinh viên
nói chung.
4. Cấu trúc tiểu luận
Tiểu luận gồm ba phần chính: mở đầu, nội dung, kết luận danh mục tham
khảo
Trong phần nội dung có hai chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển a từ những sự thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
Chương II: Vận dụng quy luật vào học tập và cuộc sống
lOMoARcPSD| 40425501
4
B. NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa
từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
1.1. Nội dung các khái niệm liên quan
1.1.1. Chất
Cần phải nói rằng, trong lịch sử triết học từ trước đến nay đã xuất hiện nhiều
quan điểm khác nhau vkhái niệm chất, lượng mối quan hệ giữa chúng. Những
quan điểm đó chủ yếu phụ thuộc vào thế giới quan phương pháp luận của từng
nhà triết học, từng trường phái triết học riêng.
Phép biện chứng duy vật thuộc triết học Marx-Lenin cho rằng: Chất là phạm
trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và là sự thống
nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Trên cơ sở này, ta có thể dựa vào chất mà phân biệt các sự vật với nhau.
Một số đặc điểm của chất:
Một là, chất tính khách quan: trước hết, chất là cái vốn của sự vật. Mỗi
sự vật, hiện tượng trong thế giới đều những chất vốn có, làm nên chính chúng.
Nhờ đó, chúng mới không bị nhầm lẫn với các sự vật, hiện tượng khác.
Hai là, chất được tạo thành từ những thuộc tính của sự vật (chủ yếu là những
thuộc tính bản). Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, yếu t
tạo thành sự vật… Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc
được hình thành trong sự vận động phát triển của nó. Tuy nhiên, ta chỉ thể nhận
ra những thuộc tính của sự vật thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản
thân chúng ta hoặc thông qua quan hệ, mối liên hệ giữa nó và những sự vật khác.
dụ: chúng ta chỉ thể nhận biết đồ ăn mặn hay ngọt, chua hay cay bằng
cách nếm thử, tạo ra sự tiếp xúc giữa vị giác chúng ta với đồ ăn.
Mặt khác, không phải thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc
tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được
tổng hợp lại tạo nên chất của sự vật. Chỉ khi nào chúng thay đổi hoặc mất đi thì sự
vật mới thay đổi mất đi. Nhưng như đã nói trước, thuộc tính của vật chỉ được
lOMoARcPSD| 40425501
5
bộc lộ qua mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng xung quanh. vậy sự phân chia
thuộc tính cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính tương đối.
Ba là, mỗi sự vật đều có nhiều chất tùy theo góc độ xem xét. Bởi lẽ, mỗi sự
vật đều rất nhiều thuộc tính mà mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất khác nhau.
Trong hiện thực khách quan, không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có
chất nằm ngoài sự vật.
1.1.2. Lượng
Lượng phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật.
Cũng giống chất, lượng là cái vốn của sự vật, nhưng lượng chưa làm cho
sự vật là nó, chưa thể làm nó trở nên khác biệt so với những cái khác. Lượng có tính
khách quan tồn tại cùng với chất của sự vật. Do đó bất cứ sự vật nào cũng bao
gồm hai mặt chất và lượng.
Trong thực tế, lượng của sự vật có thể được xác định bằng thông số chính xác
hoặc thông số trừu tượng. Thông số chính xác thường biểu thị dưới dạng những đơn
vị đo lường cụ thể.
Ví dụ: đỉnh Phan Xi Păng thuộc dãy Hoàng Liên Sơn ở nước ta cao 3143m.
Bên cạnh đó, có những lượng chỉ thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái
quát như IQ
3
(chỉ số thông minh), EQ
4
(chỉ số cảm xúc),...
những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật song
cũng có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính
quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại
biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
3
Intelligence Quotient
4
Emotional Quotient
lOMoARcPSD| 40425501
6
1.1.3. Độ
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi
về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Độ là mối liên hệ, thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật. Trong
độ, sự vật vẫn còn chứ chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn của một độ
nhất định, lượng thường xuyên biến đổi nhưng chất thì tương đối ổn định.
dụ: “độ” của một con người xét về mặt tuổi là từ khi sinh ra cho đến khi
chết.
1.1.4. Điểm nút
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
dụ: tại 0 độ C, nước chuyển từ thể lỏng sang thể rắn. Vậy 0 độ C chính
điểm nút để nước thay đổi chất.
1.1.5. Bước nhảy
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, khiến cho chất
mới ra đời.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Ví dụ: sự chuyển hóa từ thể lỏng sang thể rắn của nước là một bước nhảy. Có
sự thay đổi này nước đã trải qua quá trình thay đổi nhiệt độ đạt đến điểm
nút là 0 độ C.
Bước nhảy sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật điểm
khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
Một là, dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy, ta thể phân chia thành bước
nhảy đột biến bước nhảy dần dần. Cần phân biệt ớc nhảy dần dần với sự thay
đổi dần dần về lượng của sự vật.
Hai là, dựa vào quy thực hiện bước nhảy của sự vật thể chia thành bước
nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Trong thực tế, vì các svật thuộc tính đa dạng
nên muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ.
lOMoARcPSD| 40425501
7
Ngoài ra, dựa vào sự thay đổi về chất của hội, người ta còn thể phân chia
thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có tính tiến hóa.
1.2. Nội dung mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
1.2.1. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng sự thống nhất giữa mặt chất mặt
lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Quy định về lượng sẽ không bao giờ tồn tại
nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động
phát triển của sự vật, có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Tuy nhiên, không phải
lúc nào sự thay đổi về lượng cũng làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của
sự vật. Ở trong “độ”, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi
bản. Phải đến khi lượng của sự vật được tích lũy vượt qua được giới hạn đó, đạt
đến điểm nút thì chất cũ mất đi và lúc này chất mới thay thế chất cũ.
1.2.2. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy
thể hiện ở chỗ chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, thể khái quát quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất như sau: “Mọi sự vật đều sự thống nhất giữa lượng
và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sdẫn đến sự thay đổi về chất của
sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới lại có chất mới cao hơn… Quá trình tác động này diễn ra liên tục làm cho sự vật
không ngừng biến đổi”
Hay dễ hiểu hơn, như Friedrich Engels từng phát biểu thì: “Những thay đổi
đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác
nhau về chất.” (C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, 1994, trang 179)
lOMoARcPSD| 40425501
8
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
1.3.1. Nhận thức
Một là, đứng trước một sự vật, sự việc, hiện tượng, cần cân nhắc, xem xét kỹ
lưỡng cả mặt chất mặt lượng của sự vật, hiện tượng đó. Nhờ vậy, chúng ta mới
được cái nhìn đúng đắn, toàn diện về đời sống xung quanh.
Hai là, cần biết xem xét, nghiên cứu sự biến đổi về lượng của sự vật dẫn đến
sự biến đổi về chất như thế nào.
1.3.2. Thực tiễn
Một là, từng bước tích lũy về lượng đtạo tiền đề cho sự thay đổi về chất.
“Tích tiểu thành đại", “Góp gió thành bão",... thực chất những việc làm đại của
con người bao giờ cũng sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con
người đó. Phương pháp này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” để thực hiện những bước nhảy liên tục.
Hai là, khi đã tích lũy đủ vsố lượng tcần phải quyết tâm để tiến hành
bước nhảy, phải kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất. Trên cơ sở phương pháp này, chúng ta thể khắc phục được tư tưởng bảo thủ,
trì trệ, hữu khuynh” thường được biểu hiện chỗ coi sphát triển chỉ thay đổi
đơn thuần về lượng.
Ba , trường hợp không muốn thay đổi chất của sự vật thì phải giữ độ, tức cần
biết cách kiểm soát lượng trong khoảng giới hạn nhất định.
Bốn , cần phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Bước
nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được thực
hiện một cách cẩn thận. Thực hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm,
điều kiện hoàn cảnh cụ thể để tránh được những hậu quả không đáng như không
đạt được sthay đổi về chất nmong muốn và phải thực hiện lại từ đầu sự thay đổi
về lượng.
Ngoài ra, sthay đổi về chất của svật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách
tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ
kết cấu, bản chất sự vật đó.
lOMoARcPSD| 40425501
9
Chương II: Vận dụng quy luật vào học tập và cuộc sống
2.1. Từng bước tích lũy về lượng để tạo tiền đề cho sự thay đổi về chất
Muốn những biến đổi về chất, ta cần kiên trì để biến đổi về lượng. Bởi lẽ
chỉ khi lượng đạt đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy thì khi đó chất cũ
mới được thay thế bằng chất mới. Quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên cũng
hoàn toàn tương tự, cần sự đầu về mặt thời gian, công sức đtích lũy đủ kiến
thức, kỹ năng phục vụ cho việc phát triển và nâng cao bản thân.
Trước hết, sinh viên cần phải từng bước tích lũy kiến thức các môn học. Dựa
trên đặc thù các môn ở chương trình đại học thường có tính chuyên môn và hàn lâm
cao, việc tích lũy kiến thức của sinh viên cần thực hiện không chỉ từng ngày mà còn
trong từng giờ lên lớp. Nhờ đó mà kiến thức mới thể thấm sâu, phát triển, tạo
nên một lượng giá trị đủ để tạo thành chất mới. Quá trình tích lũy kiến thức này
chính quá trình phát triển lượng ở sinh viên, điểm nút sẽ các kỳ thi bước nhảy
chính là quá trình thi cử. Chất mới sdiễn ra khi sinh viên thực hiện được bước nhảy
thành công, là khi đã hoàn thành môn học chuyển đến những môn học tiếp theo.
Trong trường hợp sinh viên rơi vào tình trạng “nước đến chân mới nhảy”, gần thi
mới bắt đầu ôn bài tsẽ không thể tích y được đủ về lượng, dẫn đến việc không
thể thực hiện được bước nhảy và thay đổi thành chất mới, thậm chí phải quay lại từ
đầu quá trình phát triển lượng, nói cách khác là học lại.
Tương tự với quá trình học tập, việc tích lũy điểm rèn luyện, điểm sinh hoạt
cộng đồng cũng yêu cầu sinh viên phải học cách tăng dần dần từ lượng để biến đổi
thành chất mới. Hầu hết các trường đại học nước ta, bên cạnh việc tích y đủ số
tín chỉ, thì cũng yêu cầu điểm rèn luyện đối với sinh viên khi tốt nghiệp. Sinh viên
sau quá trình tham gia tích lũy điểm rèn luyện bằng cách tham gia các hoạt động sinh
hoạt cộng đồng, tình nguyện, hiến máu, câu lạc bộ, đội, nhóm… có thể trau dồi cho
bản thân cả về đạo đức lẫn kỹ năng để phát triển một cách toàn diện hơn. Việc trở
thành một tân cử nhân đủ đạo đức, kiến thức kỹ năng chính biểu hiện của
việc sinh viên đã trở thành chất mới sau quá trình tích lũy đủ lượng cần thiết môi
trường đại học.
Một ứng dụng khác của quy luật tnhững sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất của sinh viên việc tiếp thu những kỹ năng mới, tích cực trau dồi
lOMoARcPSD| 40425501
10
những kỹ năng chuyên môn, các mối quan hệ xung quanh… để thể kiếm được
việc làm tốt sau khi ra trường. Tình trạng thất nghiệp Việt Nam trong thời điểm
hiện tại vẫn một bài toán nan giải, cộng với việc đào thải nhân lực không ngừng
của thế giới thì sinh viên cần trang bị đủ kỹ năng chuyên môn và các kỹ năng mềm
khác để có thể tồn tại được trên thị trường lao động. Sinh viên có thể tích lũy được
lượng kỹ năng, kiến thức này thông qua việc đi làm thêm, làm thực tập sinh… tại các
tập đoàn, công ty, doanh nghiệp trong nước; hoặc cũng có thể tham gia vào các cuộc
thi dành cho sinh viên liên quan đến ngành nghề mình đang theo đuổi.
dụ: Cuộc thi Nhà truyền thông tài ba (IC Master) dành cho những bạn sinh
viên có đam mê với ngành truyền thông, marketing.
Cuộc thi Startup Zone dành cho các bạn sinh viên muốn thử sức với việc khởi
nghiệp.
Bằng cách tích lũy được những kiến thức kỹ năng chuyên môn từ khi n
ngồi trên giảng đường, sinh viên sẽ dễ dàng kiếm được công việc mình yêu thích sau
khi tốt nghiệp. Quá trình này chính tích lũy về lượng, để đến khi thực hiện được
bước nhảy, tức kiếm được công việc mình mong muốn, các bạn sinh viên schính
thức bước vào thị trường lao động, trở thành một chất mới.
2.2. Cần tránh hai khuynh hướng “tả khuynh” và “hữu khuynh”
Trong trường hợp nhận thức không đúng quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi vlượng dẫn đến sự thay đổi về chất, chúng ta rất dễ gặp phải hiện tượng “tả
khuynh” hoặc “hữu khuynh”.“Tả khuynh” biểu hiện ở tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nóng vội, muốn nhanh chóng có được sự thay đổi về chất nhưng lại không nghĩ đến
việc tích lũy dần dần những thay đổi về lượng. Ngược lại, “hữu khuynh” là tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, thể hiện việc lượng đã được tích lũy đđến mức điểm nút nhưng
lại không dám, không muốn thực hiện bước nhảy để được sự thay đổi về chất.
đối lập nhau song đây đều là hai khuynh hướng mà ta cần tránh khi áp dụng quy luật
này, để quá trình tích lũy lượng, hình thành chất mới được thực hiện đúng cách, đúng
hướng và đạt được kết quả cao nhất.
Khi bắt đầu bước vào thị trường lao động, chúng ta sẽ một qtrình rèn
luyện, trau dồi kiến thức và kỹ năng, để từ vị trí thực tập sinh, nhân viên có thể tiến
lên làm nhân viên cấp cao, quản lý hay thậm chí là các vị trí lãnh đạo của tập đoàn,
lOMoARcPSD| 40425501
11
công ty. Những vị trí này đều đòi hỏi chuyên môn, kỹ năng cao… buộc ta phải biết
tích lũy, đầu tư trong một thời gian dài. Những yếu tố chuyên môn, kỹ năng hay mối
quan hđều thuộc về phần lượng. Việc tích lũy lượng cần thực hiện một cách khoa
học, hợp lý, tránh xu hướng “tả khuynh” - nóng vội, hấp tấp, chỉ chăm chăm đến việc
thay đổi chất không quan tâm đến quá trình tích lũy về lượng. Điều này đôi khi
khiến ta dễ đánh mất mình, tìm mọi thủ đoạn, mọi cách đđạt được chất mới - tức vị
trí quản lý, lãnh đạo nhanh hơn. Song chưa tích lũy đủ về lượng đã chuyển hóa
thành chất mới nên ta dễ gặp nhiều khó khăn, thách thức và đôi khi là cả thất bại.
chưa có đủ kỹ năng, kiến thức mà khi lãnh đạo ta dễ gặp phải những sai lầm, không
nhận được sự ủng hộ, đồng tình từ những người xung quanh và kết quả là trở thành
một người quản lý, lãnh đạo không thành công. Đây chính hậu quả cho những ai
đi theo khuynh hướng “tả khuynh” khi vận dụng quy luật trên.
Mặt khác, “hữu khuynh” - suy nghĩ bảo thủ, trì trệ, không có chí tiến thủ cũng
cần phải loại trừ trong quá trình làm việc của mỗi chúng ta. “Hữu khuynh” khiến ta
không muốn, không dám thực hiện bước nhảy để chuyển thành chất mới đã có s
tích lũy về lượng. Nhiều người mang suy nghĩ “an phận”, lười phấn đấu, lười học
hỏi, tiếp thu thêm những điều mới. Nhiều người cho rằng là con gái nên không cần
cố gắng, phấn đấu quá nhiều. Một số người lại cho rằng dù cố gắng đến như thế nào
cũng sẽ thua kém người khác nên việc phát triển bản thân mình là vô ích. Hay cũng
những người tự ngộ nhận về khả năng, tự thấy mình đủ giỏi nên không chịu học
hỏi, lắng nghe người khác. Chính lối suy nghĩ hữu khuynh” này đang khiến họ trở
nên trì trệ, lạc hậu hơn trong công việc. Hậu quả của “hữu khuynh” chính là việc bị
đào thải ra khỏi thị trường lao động khi chúng ta không chịu phát triển để trở thành
chất mới, trở thành một phiên bản tốt hơn của bản thân, liên tục thích ứng với những
thay đổi của thế giới mà mãi mãi chỉ thụt lùi, lạc hậu ở phía sau.
2.3. Vận dụng linh hoạt, phù hợp các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi sự vật,
hiện tượng, như tấm bản lề đưa sự vật, hiện tượng biến đổi từ chất cũ sang chất mới.
Như đã nói từ trước, có nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, do đó cần căn cứ vào
từng hoàn cảnh, trường hợp để linh hoạt vận dụng từng loại bước nhảy sao cho hợp
lý và hiệu quả nhất.
lOMoARcPSD| 40425501
12
Theo tiến trình thời gian, sinh viên có thể ứng dụng hình thức bước nhảy dần
dần trong việc tích lũy tri thức trong chương trình đại học. Bước nhảy dần dần
bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích lũy dần dần những nhân
tố của chất mới và những nhân tố của chất dần dần mất đi. Trong trường hợp chất
mới tốt nghiệp đại học với tấm bằng cử nhân thì bước nhảy dần dần thể hiện việc
sinh viên tích lũy số tín chỉ cần khi ra trường qua từng năm học. Quá trình chuyển
đổi này cần được thực hiện cẩn thận, từng bước không thể chỉ diễn ra trong một
thời gian ngắn. Đây cũng một quá trình phức tạp, đòi hỏi việc thực hiện tuần tự
từng bước nhảy, thể hiện qua việc sắp xếp số tín chỉ cần hoàn thành sao cho hợp lý.
Sinh viên cần biết cách phân bổ thời gian, công sức, tránh ôm đồm việc học quá
nhiều tín chỉ, môn học cùng một lúc. Mặt khác, cũng cần tránh việc “nước đến chân
mới nhảy”, dồn qnhiều tín chỉ trong những kỳ học cuối cùng, dẫn đến việc kết quả
học tập không được như ý muốn. Quá trình học tập của sinh viên được đánh giá
xuyên suốt bốn năm học tại giảng đường, vậy việc thực hiện những bước nhảy dần
dần là hoàn toàn phù hợp và có ý nghĩa.
Ngoài ra, sinh viên cũng thể ứng dụng qtrình chuyển hóa từ bước nhảy
cục bộ sang bước nhảy toàn bộ trong quá trình nghiên cứu, học tập trên giảng đường.
Bước nhảy toàn bộ mà sinh viên cần thực hiện là làm luận văn tốt nghiệp trong năm
cuối chương trình đại học. Song trước khi thực hiện bước nhảy toàn bđể chuyển
sang chất mới này, sinh viên cần thực hiện những bước nhảy cục bộ, thể hiện ở việc
hoàn thành tốt các môn trong chương trình học tập cũng như tích lũy đủ số điểm rèn
luyện trong vòng bốn năm. Không đảm bảo được những bước nhảy cục bộ này, sinh
viên sẽ không thể thực hiện được bước nhảy toàn bộ. Quá trình làm luận văn tốt
nghiệp sẽ không thể diễn ra nếu sinh viên chưa hoàn thành được số môn học được
đề ra trong chương trình học tập hay chưa tích lũy đủ số điểm rèn luyện theo quy
định của nhà trường.
Tóm lại, sinh viên cần linh hoạt, nhạy bén sáng suốt trong quá trình vận
dụng các loại hình thức bước nhảy. Nhờ vậy quá trình học tập, nghiên cứu mới
được diễn ra một cách khoa học, thuận lợi và đạt được hiệu quả cao nhất.
lOMoARcPSD| 40425501
13
C. KẾT LUẬN
Trên góc nhìn của một sinh viên, tôi đánh giá rằng quy luật chuyển a từ
những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong đời sống học tập, rèn luyện, phát triển tại môi trường đại học. Nắm bắt
được quy luật này, hiểu được bản chất và biết cách áp dụng vào trong thực tiễn, sinh
viên có thể nâng cao được chất lượng học tập, làm việc, cũng như tạo điều kiện để
bản thân được trau dồi thêm nhiều kiến thức, kỹ năng mới. Song cũng không thể ph
nhận được rằng, quá trình áp dụng vào thực tiễn quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất cũng đòi hỏi sinh viên cần kiên trì,
nhẫn nại trong một thời gian dài. Do đó, sinh viên cần kế hoạch học tập, rèn luyện
cụ thể, biết đặt mục tiêu cho bản thân, tránh xu hướng “tả khuynh” hay “hữu khuynh”
đã được đề cập đến ở trên.
Từ các vấn đề luận thực tiễn đã được đặt ra, phần nào chúng ta thể
nắm bắt được tầm quan trọng của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất trong đời sống con người. Không chỉ trong việc học
tập, rèn luyện, bất kỳ trong hoàn cảnh nào của cuộc đời, con người cũng cần những
sự tích lũy dần dần về lượng mới có thể trở thành chất mới. Chất mới ra đời, không
chỉ đánh dấu sự thay đổi của một người, còn cột mốc cho thấy strưởng thành,
lớn lên trong nhận thức hành động của họ. Bên cạnh quy luật chuyển hóa từ những
sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, mỗi chúng ta cũng cần biết học
tập, ứng dụng một số những quy luật khác được đề cập đến trong chủ nghĩa duy vật
biện chứng như quy luật mâu thuẫn hay quy luật phủ định của phủ định. Sự kết hợp
hài hòa, linh hoạt các quy luật với nhau cho phép mỗi chúng ta được liên tục phát
triển trong vận động chung của thế giới mà không bị bỏ lại ở phía sau.
lOMoARcPSD| 40425501
14
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác nin (sử
dụngtrong các trường đại học – hệ không chuyên lý luận chính trị), Hà Nội.
2. C.Mác Ph.Ăng-ghen: Toàn tập (1994), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
HàNội, trang 179
3. Sùng Thị Chấu (2021), “Phép biện chứng phân tích quy luật lượng và chất,
sựvận dụng quy luật vào trong quá trình học tập rèn luyện của học sinh, sinh viên”.
Luật Minh Khuê. https://luatminhkhue.vn/phep-bien-chung-%E2%80%93-
phantich-quy-luat-luong-va-chat-su-van-dung-quy-luat-vao-trong-qua-trinh-hoc-
tap-varen-luyen-cua-hoc-sinh-sinh-vien.aspx (Truy cập: ngày 25 tháng 1 năm 2022)
| 1/14

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40425501
Học viện Ngoại giao ---------***---------- TIỂU LUẬN
Môn học: Triết học Mác-Lênin Đề tài:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và vận dụng vào học tập, cuộc sống MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3
4. Cấu trúc tiểu luận ......................................................................................... 3

B. NỘI DUNG ........................................................................................................... 4
Chương I: Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa .............................. 4
từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất ...................... 4
1.1. Nội dung các khái niệm liên quan ............................................................ 4 lOMoAR cPSD| 40425501
1.2. Nội dung mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về
chất ..................................................................................................................... 7
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận ........................................................................ 8
Chương II: Vận dụng quy luật vào học tập và cuộc sống ................................. 9
2.1. Từng bước tích lũy về lượng để tạo tiền đề cho sự thay đổi về chất ..... 9
2.2. Cần tránh hai khuynh hướng “tả khuynh” và “hữu khuynh” ............ 10
2.3. Vận dụng linh hoạt, phù hợp các hình thức của bước nhảy ................ 11
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 13 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất là một trong ba quy luật cơ bản thuộc nguyên lý về sự phát triển trong chủ
nghĩa duy vật biện chứng được đề xướng bởi học thuyết triết học của Karl Marx1 và
Friedrich Engels2. Quy luật chuyển hóa này cho phép con người tìm hiểu về cách
thức và tính chất của sự phát triển, từ đâu mà xuất hiện những sự thay đổi về chất, và
ngược lại, những sự thay đổi về chất này có tác động qua lại như thế nào đối với
lượng của sự vật. Chính bởi vậy mà quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất đóng vai trò nền tảng cho việc nghiên cứu sự
phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới chung, đồng thời cũng tạo cơ sở
cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng.
Trong thực tiễn đời sống, quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất còn có ý nghĩa đối với nhận thức và hành động của
mỗi cá nhân. Ở đây, tôi muốn đề cập đến những thay đổi, phát triển trong đời sống
học tập, sinh hoạt của sinh viên. Đặc biệt, đối với các bạn sinh viên năm nhất, khi
vừa có những chuyển giao từ THPT lên Đại học, đối mặt với sự khác nhau giữa hai
môi trường thì quy luật này có thể giúp định hình được phương pháp học tập đúng
đắn, hiệu quả và phù hợp với bản thân hơn, tránh lặp lại những sai lầm về sau. Biết, 1 Các Mác 2 Ph. Ăng-ghen 2 lOMoAR cPSD| 40425501
hiểu và vận dụng tốt quy luật này sẽ là tiền đề vững chắc để sinh viên rèn luyện và
phát triển tư duy, ứng xử của bản thân, là hành trang cho việc xây dựng sự nghiệp trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất trong chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết là để hiểu được bản
chất, ý nghĩa cũng như vị trí của quy luật này đối với học thuyết triết học Marx-
Lenin. Từ đó, có thể rút ra được những ứng dụng của quy luật trong thực tiễn cuộc
sống, giúp các bạn có thêm những trải nghiệm lý thú, bổ ích đối với môn học cũng
như có thể cải thiện, phát triển đời sống học tập, sinh hoạt trở nên lành mạnh, tích cực hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất, được áp dụng trong phạm vi đối với sinh viên nói chung.
4. Cấu trúc tiểu luận
Tiểu luận gồm ba phần chính: mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tham khảo
Trong phần nội dung có hai chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
Chương II: Vận dụng quy luật vào học tập và cuộc sống 3 lOMoAR cPSD| 40425501 B. NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa
từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
1.1. Nội dung các khái niệm liên quan 1.1.1. Chất
Cần phải nói rõ rằng, trong lịch sử triết học từ trước đến nay đã xuất hiện nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng và mối quan hệ giữa chúng. Những
quan điểm đó chủ yếu phụ thuộc vào thế giới quan và phương pháp luận của từng
nhà triết học, từng trường phái triết học riêng.
Phép biện chứng duy vật thuộc triết học Marx-Lenin cho rằng: Chất là phạm
trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và là sự thống
nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Trên cơ sở này, ta có thể dựa vào chất mà phân biệt các sự vật với nhau.
Một số đặc điểm của chất:
Một là, chất có tính khách quan: trước hết, chất là cái vốn có của sự vật. Mỗi
sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng.
Nhờ đó, chúng mới không bị nhầm lẫn với các sự vật, hiện tượng khác.
Hai là, chất được tạo thành từ những thuộc tính của sự vật (chủ yếu là những
thuộc tính cơ bản). Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, yếu tố
tạo thành sự vật… Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc
được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên, ta chỉ có thể nhận
ra những thuộc tính của sự vật thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản
thân chúng ta hoặc thông qua quan hệ, mối liên hệ giữa nó và những sự vật khác.
Ví dụ: chúng ta chỉ có thể nhận biết đồ ăn mặn hay ngọt, chua hay cay bằng
cách nếm thử, tạo ra sự tiếp xúc giữa vị giác chúng ta với đồ ăn.
Mặt khác, không phải thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc
tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được
tổng hợp lại tạo nên chất của sự vật. Chỉ khi nào chúng thay đổi hoặc mất đi thì sự
vật mới thay đổi và mất đi. Nhưng như đã nói ở trước, thuộc tính của vật chỉ được 4 lOMoAR cPSD| 40425501
bộc lộ qua mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng xung quanh. Vì vậy sự phân chia
thuộc tính cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính tương đối.
Ba là, mỗi sự vật đều có nhiều chất tùy theo góc độ xem xét. Bởi lẽ, mỗi sự
vật đều có rất nhiều thuộc tính mà mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất khác nhau.
Trong hiện thực khách quan, không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có
chất nằm ngoài sự vật. 1.1.2. Lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật.
Cũng giống chất, lượng là cái vốn có của sự vật, nhưng lượng chưa làm cho
sự vật là nó, chưa thể làm nó trở nên khác biệt so với những cái khác. Lượng có tính
khách quan và tồn tại cùng với chất của sự vật. Do đó mà bất cứ sự vật nào cũng bao
gồm hai mặt chất và lượng.
Trong thực tế, lượng của sự vật có thể được xác định bằng thông số chính xác
hoặc thông số trừu tượng. Thông số chính xác thường biểu thị dưới dạng những đơn vị đo lường cụ thể.
Ví dụ: đỉnh Phan Xi Păng thuộc dãy Hoàng Liên Sơn ở nước ta cao 3143m.
Bên cạnh đó, có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái
quát như IQ3 (chỉ số thông minh), EQ4 (chỉ số cảm xúc),...
Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật song
cũng có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính
quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại
biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. 3 Intelligence Quotient 4 Emotional Quotient 5 lOMoAR cPSD| 40425501 1.1.3. Độ
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi
về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Độ là mối liên hệ, thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật. Trong
độ, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn của một độ
nhất định, lượng thường xuyên biến đổi nhưng chất thì tương đối ổn định.
Ví dụ: “độ” của một con người xét về mặt tuổi là từ khi sinh ra cho đến khi chết.
1.1.4. Điểm nút
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Ví dụ: tại 0 độ C, nước chuyển từ thể lỏng sang thể rắn. Vậy 0 độ C chính là
điểm nút để nước thay đổi chất.
1.1.5. Bước nhảy
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, khiến cho chất mới ra đời.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Ví dụ: sự chuyển hóa từ thể lỏng sang thể rắn của nước là một bước nhảy. Có
sự thay đổi này là vì nước đã trải qua quá trình thay đổi nhiệt độ và đạt đến điểm nút là 0 độ C.
Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm
khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
Một là, dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy, ta có thể phân chia thành bước
nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Cần phân biệt bước nhảy dần dần với sự thay
đổi dần dần về lượng của sự vật.
Hai là, dựa vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có thể chia thành bước
nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Trong thực tế, vì các sự vật có thuộc tính đa dạng
nên muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. 6 lOMoAR cPSD| 40425501
Ngoài ra, dựa vào sự thay đổi về chất của xã hội, người ta còn có thể phân chia
thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có tính tiến hóa.
1.2. Nội dung mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
1.2.1. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất

Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt
lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Quy định về lượng sẽ không bao giờ tồn tại
nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và
phát triển của sự vật, có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Tuy nhiên, không phải
lúc nào sự thay đổi về lượng cũng làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của
sự vật. Ở trong “độ”, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi
cơ bản. Phải đến khi lượng của sự vật được tích lũy vượt qua được giới hạn đó, đạt
đến điểm nút thì chất cũ mất đi và lúc này chất mới thay thế chất cũ.
1.2.2. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy
thể hiện ở chỗ chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, có thể khái quát quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất như sau: “Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng
và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của
sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới lại có chất mới cao hơn… Quá trình tác động này diễn ra liên tục làm cho sự vật
không ngừng biến đổi”
Hay dễ hiểu hơn, như Friedrich Engels từng phát biểu thì: “Những thay đổi
đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác
nhau về chất.” (C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, 1994, trang 179) 7 lOMoAR cPSD| 40425501
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
1.3.1. Nhận thức

Một là, đứng trước một sự vật, sự việc, hiện tượng, cần cân nhắc, xem xét kỹ
lưỡng cả mặt chất và mặt lượng của sự vật, hiện tượng đó. Nhờ vậy, chúng ta mới có
được cái nhìn đúng đắn, toàn diện về đời sống xung quanh.
Hai là, cần biết xem xét, nghiên cứu sự biến đổi về lượng của sự vật dẫn đến
sự biến đổi về chất như thế nào.
1.3.2. Thực tiễn
Một là, từng bước tích lũy về lượng để tạo tiền đề cho sự thay đổi về chất.
“Tích tiểu thành đại", “Góp gió thành bão",... thực chất những việc làm vĩ đại của
con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con
người đó. Phương pháp này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” để thực hiện những bước nhảy liên tục.
Hai là, khi đã tích lũy đủ về số lượng thì cần phải có quyết tâm để tiến hành
bước nhảy, phải kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất. Trên cơ sở phương pháp này, chúng ta có thể khắc phục được tư tưởng bảo thủ,
trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng.
Ba là, trường hợp không muốn thay đổi chất của sự vật thì phải giữ độ, tức cần
biết cách kiểm soát lượng trong khoảng giới hạn nhất định.
Bốn là, cần phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Bước
nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được thực
hiện một cách cẩn thận. Thực hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm,
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để tránh được những hậu quả không đáng có như không
đạt được sự thay đổi về chất như mong muốn và phải thực hiện lại từ đầu sự thay đổi về lượng.
Ngoài ra, sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách
tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ
kết cấu, bản chất sự vật đó. 8 lOMoAR cPSD| 40425501
Chương II: Vận dụng quy luật vào học tập và cuộc sống
2.1. Từng bước tích lũy về lượng để tạo tiền đề cho sự thay đổi về chất
Muốn có những biến đổi về chất, ta cần kiên trì để biến đổi về lượng. Bởi lẽ
chỉ khi lượng đạt đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy thì khi đó chất cũ
mới được thay thế bằng chất mới. Quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên cũng
hoàn toàn tương tự, cần có sự đầu tư về mặt thời gian, công sức để tích lũy đủ kiến
thức, kỹ năng phục vụ cho việc phát triển và nâng cao bản thân.
Trước hết, sinh viên cần phải từng bước tích lũy kiến thức các môn học. Dựa
trên đặc thù các môn ở chương trình đại học thường có tính chuyên môn và hàn lâm
cao, việc tích lũy kiến thức của sinh viên cần thực hiện không chỉ từng ngày mà còn
là trong từng giờ lên lớp. Nhờ đó mà kiến thức mới có thể thấm sâu, phát triển, tạo
nên một lượng có giá trị đủ để tạo thành chất mới. Quá trình tích lũy kiến thức này
chính là quá trình phát triển lượng ở sinh viên, điểm nút sẽ là các kỳ thi và bước nhảy
chính là quá trình thi cử. Chất mới sẽ diễn ra khi sinh viên thực hiện được bước nhảy
thành công, là khi đã hoàn thành môn học và chuyển đến những môn học tiếp theo.
Trong trường hợp sinh viên rơi vào tình trạng “nước đến chân mới nhảy”, gần thi
mới bắt đầu ôn bài thì sẽ không thể tích lũy được đủ về lượng, dẫn đến việc không
thể thực hiện được bước nhảy và thay đổi thành chất mới, thậm chí phải quay lại từ
đầu quá trình phát triển lượng, nói cách khác là học lại.
Tương tự với quá trình học tập, việc tích lũy điểm rèn luyện, điểm sinh hoạt
cộng đồng cũng yêu cầu sinh viên phải học cách tăng dần dần từ lượng để biến đổi
thành chất mới. Hầu hết các trường đại học ở nước ta, bên cạnh việc tích lũy đủ số
tín chỉ, thì cũng yêu cầu điểm rèn luyện đối với sinh viên khi tốt nghiệp. Sinh viên
sau quá trình tham gia tích lũy điểm rèn luyện bằng cách tham gia các hoạt động sinh
hoạt cộng đồng, tình nguyện, hiến máu, câu lạc bộ, đội, nhóm… có thể trau dồi cho
bản thân cả về đạo đức lẫn kỹ năng để phát triển một cách toàn diện hơn. Việc trở
thành một tân cử nhân có đủ đạo đức, kiến thức và kỹ năng chính là biểu hiện của
việc sinh viên đã trở thành chất mới sau quá trình tích lũy đủ lượng cần thiết ở môi trường đại học.
Một ứng dụng khác của quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất của sinh viên là việc tiếp thu những kỹ năng mới, tích cực trau dồi 9 lOMoAR cPSD| 40425501
những kỹ năng chuyên môn, các mối quan hệ xung quanh… để có thể kiếm được
việc làm tốt sau khi ra trường. Tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam trong thời điểm
hiện tại vẫn là một bài toán nan giải, cộng với việc đào thải nhân lực không ngừng
của thế giới thì sinh viên cần trang bị đủ kỹ năng chuyên môn và các kỹ năng mềm
khác để có thể tồn tại được trên thị trường lao động. Sinh viên có thể tích lũy được
lượng kỹ năng, kiến thức này thông qua việc đi làm thêm, làm thực tập sinh… tại các
tập đoàn, công ty, doanh nghiệp trong nước; hoặc cũng có thể tham gia vào các cuộc
thi dành cho sinh viên liên quan đến ngành nghề mình đang theo đuổi.
Ví dụ: Cuộc thi Nhà truyền thông tài ba (IC Master) dành cho những bạn sinh
viên có đam mê với ngành truyền thông, marketing.
Cuộc thi Startup Zone dành cho các bạn sinh viên muốn thử sức với việc khởi nghiệp.
Bằng cách tích lũy được những kiến thức và kỹ năng chuyên môn từ khi còn
ngồi trên giảng đường, sinh viên sẽ dễ dàng kiếm được công việc mình yêu thích sau
khi tốt nghiệp. Quá trình này chính là tích lũy về lượng, để đến khi thực hiện được
bước nhảy, tức kiếm được công việc mình mong muốn, các bạn sinh viên sẽ chính
thức bước vào thị trường lao động, trở thành một chất mới.
2.2. Cần tránh hai khuynh hướng “tả khuynh” và “hữu khuynh”
Trong trường hợp nhận thức không đúng quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, chúng ta rất dễ gặp phải hiện tượng “tả
khuynh” hoặc “hữu khuynh”.“Tả khuynh” biểu hiện ở tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nóng vội, muốn nhanh chóng có được sự thay đổi về chất nhưng lại không nghĩ đến
việc tích lũy dần dần những thay đổi về lượng. Ngược lại, “hữu khuynh” là tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, thể hiện ở việc lượng đã được tích lũy đủ đến mức điểm nút nhưng
lại không dám, không muốn thực hiện bước nhảy để có được sự thay đổi về chất. Dù
đối lập nhau song đây đều là hai khuynh hướng mà ta cần tránh khi áp dụng quy luật
này, để quá trình tích lũy lượng, hình thành chất mới được thực hiện đúng cách, đúng
hướng và đạt được kết quả cao nhất.
Khi bắt đầu bước vào thị trường lao động, chúng ta sẽ có một quá trình rèn
luyện, trau dồi kiến thức và kỹ năng, để từ vị trí thực tập sinh, nhân viên có thể tiến
lên làm nhân viên cấp cao, quản lý hay thậm chí là các vị trí lãnh đạo của tập đoàn, 10 lOMoAR cPSD| 40425501
công ty. Những vị trí này đều đòi hỏi chuyên môn, kỹ năng cao… buộc ta phải biết
tích lũy, đầu tư trong một thời gian dài. Những yếu tố chuyên môn, kỹ năng hay mối
quan hệ đều thuộc về phần lượng. Việc tích lũy lượng cần thực hiện một cách khoa
học, hợp lý, tránh xu hướng “tả khuynh” - nóng vội, hấp tấp, chỉ chăm chăm đến việc
thay đổi chất mà không quan tâm đến quá trình tích lũy về lượng. Điều này đôi khi
khiến ta dễ đánh mất mình, tìm mọi thủ đoạn, mọi cách để đạt được chất mới - tức vị
trí quản lý, lãnh đạo nhanh hơn. Song vì chưa tích lũy đủ về lượng mà đã chuyển hóa
thành chất mới nên ta dễ gặp nhiều khó khăn, thách thức và đôi khi là cả thất bại. Vì
chưa có đủ kỹ năng, kiến thức mà khi lãnh đạo ta dễ gặp phải những sai lầm, không
nhận được sự ủng hộ, đồng tình từ những người xung quanh và kết quả là trở thành
một người quản lý, lãnh đạo không thành công. Đây chính là hậu quả cho những ai
đi theo khuynh hướng “tả khuynh” khi vận dụng quy luật trên.
Mặt khác, “hữu khuynh” - suy nghĩ bảo thủ, trì trệ, không có chí tiến thủ cũng
cần phải loại trừ trong quá trình làm việc của mỗi chúng ta. “Hữu khuynh” khiến ta
không muốn, không dám thực hiện bước nhảy để chuyển thành chất mới dù đã có sự
tích lũy về lượng. Nhiều người mang suy nghĩ “an phận”, lười phấn đấu, lười học
hỏi, tiếp thu thêm những điều mới. Nhiều người cho rằng vì là con gái nên không cần
cố gắng, phấn đấu quá nhiều. Một số người lại cho rằng dù cố gắng đến như thế nào
cũng sẽ thua kém người khác nên việc phát triển bản thân mình là vô ích. Hay cũng
có những người tự ngộ nhận về khả năng, tự thấy mình đủ giỏi nên không chịu học
hỏi, lắng nghe người khác. Chính lối suy nghĩ “hữu khuynh” này đang khiến họ trở
nên trì trệ, lạc hậu hơn trong công việc. Hậu quả của “hữu khuynh” chính là việc bị
đào thải ra khỏi thị trường lao động khi chúng ta không chịu phát triển để trở thành
chất mới, trở thành một phiên bản tốt hơn của bản thân, liên tục thích ứng với những
thay đổi của thế giới mà mãi mãi chỉ thụt lùi, lạc hậu ở phía sau.
2.3. Vận dụng linh hoạt, phù hợp các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi sự vật,
hiện tượng, như tấm bản lề đưa sự vật, hiện tượng biến đổi từ chất cũ sang chất mới.
Như đã nói từ trước, có nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, do đó cần căn cứ vào
từng hoàn cảnh, trường hợp để linh hoạt vận dụng từng loại bước nhảy sao cho hợp lý và hiệu quả nhất. 11 lOMoAR cPSD| 40425501
Theo tiến trình thời gian, sinh viên có thể ứng dụng hình thức bước nhảy dần
dần trong việc tích lũy tri thức trong chương trình đại học. Bước nhảy dần dần là
bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích lũy dần dần những nhân
tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. Trong trường hợp chất
mới là tốt nghiệp đại học với tấm bằng cử nhân thì bước nhảy dần dần thể hiện ở việc
sinh viên tích lũy số tín chỉ cần có khi ra trường qua từng năm học. Quá trình chuyển
đổi này cần được thực hiện cẩn thận, từng bước và không thể chỉ diễn ra trong một
thời gian ngắn. Đây cũng là một quá trình phức tạp, đòi hỏi việc thực hiện tuần tự
từng bước nhảy, thể hiện qua việc sắp xếp số tín chỉ cần hoàn thành sao cho hợp lý.
Sinh viên cần biết cách phân bổ thời gian, công sức, tránh ôm đồm việc học quá
nhiều tín chỉ, môn học cùng một lúc. Mặt khác, cũng cần tránh việc “nước đến chân
mới nhảy”, dồn quá nhiều tín chỉ trong những kỳ học cuối cùng, dẫn đến việc kết quả
học tập không được như ý muốn. Quá trình học tập của sinh viên được đánh giá
xuyên suốt bốn năm học tại giảng đường, vì vậy việc thực hiện những bước nhảy dần
dần là hoàn toàn phù hợp và có ý nghĩa.
Ngoài ra, sinh viên cũng có thể ứng dụng quá trình chuyển hóa từ bước nhảy
cục bộ sang bước nhảy toàn bộ trong quá trình nghiên cứu, học tập trên giảng đường.
Bước nhảy toàn bộ mà sinh viên cần thực hiện là làm luận văn tốt nghiệp trong năm
cuối chương trình đại học. Song trước khi thực hiện bước nhảy toàn bộ để chuyển
sang chất mới này, sinh viên cần thực hiện những bước nhảy cục bộ, thể hiện ở việc
hoàn thành tốt các môn trong chương trình học tập cũng như tích lũy đủ số điểm rèn
luyện trong vòng bốn năm. Không đảm bảo được những bước nhảy cục bộ này, sinh
viên sẽ không thể thực hiện được bước nhảy toàn bộ. Quá trình làm luận văn tốt
nghiệp sẽ không thể diễn ra nếu sinh viên chưa hoàn thành được số môn học được
đề ra trong chương trình học tập hay chưa tích lũy đủ số điểm rèn luyện theo quy định của nhà trường.
Tóm lại, sinh viên cần linh hoạt, nhạy bén và sáng suốt trong quá trình vận
dụng các loại hình thức bước nhảy. Nhờ vậy mà quá trình học tập, nghiên cứu mới
được diễn ra một cách khoa học, thuận lợi và đạt được hiệu quả cao nhất. 12 lOMoAR cPSD| 40425501 C. KẾT LUẬN
Trên góc nhìn của một sinh viên, tôi đánh giá rằng quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong đời sống học tập, rèn luyện, phát triển tại môi trường đại học. Nắm bắt
được quy luật này, hiểu được bản chất và biết cách áp dụng vào trong thực tiễn, sinh
viên có thể nâng cao được chất lượng học tập, làm việc, cũng như tạo điều kiện để
bản thân được trau dồi thêm nhiều kiến thức, kỹ năng mới. Song cũng không thể phủ
nhận được rằng, quá trình áp dụng vào thực tiễn quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất cũng đòi hỏi sinh viên cần kiên trì,
nhẫn nại trong một thời gian dài. Do đó, sinh viên cần có kế hoạch học tập, rèn luyện
cụ thể, biết đặt mục tiêu cho bản thân, tránh xu hướng “tả khuynh” hay “hữu khuynh”
đã được đề cập đến ở trên.
Từ các vấn đề lý luận và thực tiễn đã được đặt ra, phần nào chúng ta có thể
nắm bắt được tầm quan trọng của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất trong đời sống con người. Không chỉ trong việc học
tập, rèn luyện, bất kỳ trong hoàn cảnh nào của cuộc đời, con người cũng cần có những
sự tích lũy dần dần về lượng mới có thể trở thành chất mới. Chất mới ra đời, không
chỉ đánh dấu sự thay đổi của một người, mà còn là cột mốc cho thấy sự trưởng thành,
lớn lên trong nhận thức và hành động của họ. Bên cạnh quy luật chuyển hóa từ những
sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, mỗi chúng ta cũng cần biết học
tập, ứng dụng một số những quy luật khác được đề cập đến trong chủ nghĩa duy vật
biện chứng như quy luật mâu thuẫn hay quy luật phủ định của phủ định. Sự kết hợp
hài hòa, linh hoạt các quy luật với nhau cho phép mỗi chúng ta được liên tục phát
triển trong vận động chung của thế giới mà không bị bỏ lại ở phía sau. 13 lOMoAR cPSD| 40425501 DANH MỤC THAM KHẢO 1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác – Lê nin (sử
dụngtrong các trường đại học – hệ không chuyên lý luận chính trị), Hà Nội. 2.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập (1994), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HàNội, trang 179 3.
Sùng Thị Chấu (2021), “Phép biện chứng – phân tích quy luật lượng và chất,
sựvận dụng quy luật vào trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên”. Luật Minh Khuê.
https://luatminhkhue.vn/phep-bien-chung-%E2%80%93-
phantich-quy-luat-luong-va-chat-su-van-dung-quy-luat-vao-trong-qua-trinh-hoc-
tap-varen-luyen-cua-hoc-sinh-sinh-vien.aspx (Truy cập: ngày 25 tháng 1 năm 2022) 14