


Preview text:
Quy y là gì? Quy y Tam Bảo như thế nào?
Quy là trở về, y là nương tựa. Quy y Tam Bảo là trở về nương tựa (saraṇāgamana) nơi Ba ngôi báu
Phật, Pháp, Tăng; lấy Ba ngôi báu ấy làm tôn chỉ, làm mục đích, làm kim chỉ nam cho nếp sống tinh thần của mình.
Mục lục bài viết
Sở dĩ Tam Bảo được ví với Ba ngôi báu, là ba điều quý báu hoặc ba viên ngọc quý (ratanataya), vì Tam
Bảo trân quý hơn tất thảy những cái gọi là quý báu trên thế gian.
• Vàng, bạc, ngọc ngà... tuy quý nhưng nó sớm còn, tối mất, là nơi dễ phát sanh lòng tham đắm
đi theo với tội ác. Ngoài ra, chúng có thể bị tiêu mất do nạn nước, nạn lửa, chiến tranh, đạo
tặc... hoặc sự giật giành nồi da xáo thịt của con cái trong nhà.
• Công danh, địa vị, sự nghiệp, quyền lực là chỗ mơ ước của con người, nhưng chúng không
bền vững, lại thăng trầm, bấp bênh! Ngoài ra, chúng đem nhiều âu lo, sợ hãi, lắm ưu tư và sầu muộn.
• Quê hương, dân tộc, gia đình, vợ con, quyến thuộc... tuy quý, nhưng đấy là cái ổ phiền não, là
chỗ tương tranh, là dây trói buộc, là chỗ luyến ái, hệ lụy nhiều khổ, ít vui.
Nương tựa ở đâu trên thế gian cũng không vững bền, không chân thật; nơi nào cũng bị chi phối bởi vô
thường, khổ và vô ngã. Chỉ có nương tựa nơi Ba ngôi báu, con người mới thật sự tìm ra chân hạnh
phúc và an lạc trên cuộc đời.
1. Quy y Tam Bảo như thế nào?
Thời kỳ Đức Phật còn tại thế, một người cư sĩ sau khi nghe Đức Phật hoặc Chư Tăng thuyết pháp; quý
ngài giảng giải cách sống đúng với đạo lý, hợp với lương tâm và lẽ phải ở đời; và người ấy chấp nhận
giáo pháp kia làm lẽ sống hướng thiện và hướng thượng cho mình, thường đọc lên ba lần lời phát nguyện:
• Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi. (Tôi đi đến nương tựa nơi Đức Phật)
• Dhammaṃ saranaṃ gacchāmi. (Tôi đi đến nương tựa nơi Đức Pháp)
• Sanghaṃ saranaṃ gacchāmi (Tôi đi đến nương tựa nơi Đức Tăng)
Từ đó, người ấy được gọi là cận sự nam (upāsaka) hoặc cận sự nữ (upāsikā), mà ngày nay gọi là thiện
nam, tín nữ (thiện tín).
Sau khi phát nguyện tam quy rồi, người Phật tử tự nguyện noi theo Phật, Pháp, Tăng để sống đời cao
đẹp, trong lành và hiền thiện. Họ sống lúc nào, ở đâu, cũng lấy sự chân thật làm trọng, tín nghĩa làm
quý, phước đức làm thước đo; và cố gắng xa dần sự tham lam, ích kỷ, ác độc, hận thù! Tấm lòng họ
rộng mở, biết yêu thương mọi người, mọi loài; biết tôn trọng sự sống của chúng sanh, sự sống của cây
cỏ; biết bố thí, cúng dường; biết san sẻ vật chất, áo cơm đến người cơ hàn, khốn khổ, bất hạnh. Nói
tóm lại, họ chấp nhận nguyên tắc sống: “Không làm điều ác, làm các hạnh lành và giữ tâm trong sạch”.
Như vậy, quy y Tam Bảo không mang nặng màu sắc tôn giáo, tín ngưỡng; nghĩa là không có tính cách
cầu khấn, van xin, tế lễ hoặc giao phó đời mình cho một vị thần linh, một Thượng Đế nào đó. Lại càng
không phải mê tín, tin càn, tin bậy vào các tà thuyết bá vơ. Đức tin Tam Bảo có được là do suy tư đúng
đắn và hiểu biết chơn chánh. Đây là lối sống tự nguyện, không bị ai ép buộc, cưỡng bức; cũng chẳng
phải là lời tuyên thệ gia nhập một tổ chức hay đoàn thể thế tục nào.
Tóm lại, quy y Tam Bảo là tự mình chấp nhận đạo lý chơn chánh làm lẽ sống đích thực và cao cả cho
cuộc đời mình vậy. Như các câu Kinh Lời Vàng (Dhammapada). Pháp cú 190:
“- Quy y Phật Bảo quang vinh.
Quy y Pháp Bảo cao minh rạng ngời. Quy y Tăng Chúng ba đời.
Quy y như vậy, chính nơi hướng về!
(Yo ca buddhañca dhammañca saṅghañca saraṇaṃ gato, cattāri ariyasaccāni sammappaññāya passati). Pháp cú 192:
“- Quy y ấy quả cao dày.
Quy y tối thượng, đâu tày mà so! Quy y tận khổ, vô lo.
Quy y, giải thoát, vẫy đò qua sông!”
(Etaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ etaṃ saraṇamuttamaṃ, etaṃ saraṇamāgamma sabbadukkhā pamuccati).
2. Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến Đạo Phật
2.1 Mọi người tự mang các vật dụng đến cúng dàng cho người xuất gia dùng thì là chánh mạng hay tà mạng? Đáp : Chánh mạng.
2.2 Người tại gia sinh sống bằng nghề trồng cấy thì là chánh mạng hay tà mạng? Đáp : Chánh mạng.
2.3 Người xuất gia phải nuôi mạng như thế nào mới là chánh mạng?
Đáp : Khất thực xin ăn.
2.4 Xin mà không ai cho thì phải làm sao?
Đáp : Thì phải đi chỗ khác mà xin.
2.5 Muốn tạo được nhiều ba la mật nhất thì phải làm gì?
Đáp : Phải hành thiền. Khi hành thiền thì:
Các căn được thu thúc - Giữ giới Balamật
Xa lánh trần tục - Xuất gia Balamật
Luôn như lý tác ý - Trí tuệ Balamật
Luôn tinh cần - Tinh tấn Balamật
Chịu đựng sự khó chịu ở thân tâm - Nhẫn nại Balamật
Quán sát pháp chân đế - Chân thật Balamật
Chưa hết giờ thì chưa xả thiền - Quyết định Balamật
Không tức giận với ai - Từ tâm Balamật
Không dính mắc với ai - Xả tâm Balamật
Chia phước lành này đến tất cả chúng sinh - Bố thí Balamật