





Preview text:
Quyền sở hữu nhà ở khi xây dựng nhà trên đất của người khác
1. Hiểu như thế nào về việc xây dựng nhà trên đất người khác?
Việc xây dựng nhà trên đất của người khác không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật mà còn là sự
xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Quy định rõ trong Luật đất đai
năm 2013, được sửa đổi và bổ sung vào năm 2018, rằng cấm những hành vi cản trở, gây khó khăn
đối với quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, việc tự ý xây dựng nhà trái phép
trên đất của người khác được coi là hành động không chỉ vi phạm luật mà còn đụng đến quyền sở
hữu tài sản của cá nhân đó.
Quy định của pháp luật đất đai hiện nay rõ ràng phản ánh quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu tài
sản. Chủ sở hữu tài sản không chỉ có quyền chiếm hữu mà còn quyền sử dụng và định đoạt tài sản
theo ý muốn của mình. Những quyền này không chỉ là quyền cá nhân mà còn được pháp luật công
nhận và bảo vệ một cách nghiêm túc. Quyền chiếm hữu cho phép chủ sở hữu tài sản thể hiện quyền
lợi cụ thể nhất định đối với tài sản của mình, trong khi quyền sử dụng và định đoạt giúp họ thực
hiện quyền này một cách linh hoạt và hiệu quả.
Việc xâm phạm quyền sở hữu tài sản thông qua việc xây dựng nhà trên đất của người khác không
chỉ ảnh hưởng đến quyền của chủ sở hữu mà còn tạo ra những hậu quả xã hội và kinh tế không
lường trước được. Trong xã hội pháp luật, việc này không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn là vấn đề
của cộng đồng và quốc gia. Nó tạo ra sự không ổn định trong quản lý đất đai, ảnh hưởng đến trật
tự xã hội và gây thiệt hại lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Để đảm bảo tính công bằng và ổn định trong quản lý đất đai, hệ thống pháp luật cần áp đặt những
hình phạt nghiêm khắc đối với những người vi phạm, đặc biệt là những người tự ý xây dựng trên
đất của người khác. Các cơ quan chức năng cần thực hiện kiểm soát chặt chẽ, đồng thời tăng cường
tư vấn và giáo dục pháp luật để ngăn chặn những hành vi trái pháp luật này từ giai cấp cơ sở.
Ngoài ra, việc xây dựng nhà trái phép cũng đặt ra những thách thức về quản lý đô thị và phát triển
bền vững. Việc này có thể dẫn đến việc lấn chiếm không gian, làm ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng
và gây ra những vấn đề về an sinh xã hội. Do đó, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các cấp quản lý,
từ cấp địa phương đến cấp quốc gia, để đảm bảo rằng quản lý đất đai không chỉ tuân thủ theo quy
định của pháp luật mà còn đáp ứng được các yếu tố phát triển đồng bộ và bền vững của xã hội.
Tóm lại, việc xây dựng nhà trên đất của người khác không chỉ là một hành vi vi phạm pháp luật
mà còn đặt ra những thách thức lớn về quản lý đất đai và phát triển đô thị. Để giải quyết vấn đề
này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan chức năng, cộng đồng và người dân, đồng thời áp đặt
những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc để ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và bảo
vệ quyền sở hữu tài sản của mỗi cá nhân trong xã hội.
2. Quyền sở hữu nhà ở khi xây dựng nhà trên đất người khác được quy định thế nào?
Theo Điều 221 của Bộ luât dân sự 2015, quy định về các căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài
sản, đặc biệt là quyền sở hữu nhà ở. Có nhiều nguyên nhân và cơ sở để xác lập quyền sở hữu này,
bao gồm những hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh hợp pháp, sáng tạo trí tuệ và nhiều trường
hợp khác nhau theo quy định cụ thể của pháp luật.
Trong danh sách các căn cứ xác lập quyền sở hữu, điều quan trọng là việc do lao động tạo ra đối
tượng quyền sở hữu. Điều này ám chỉ rằng nếu ai đó bằng lao động của mình đã xây dựng một căn
nhà và có các bằng chứng cụ thể, có thể làm căn cứ để xác lập quyền sở hữu đối với ngôi nhà
đó. Do đó, quyền sở hữu nhà ở khi xây dựng nhà trên đất người khác được thể hiện qua 02 trường hợp như sau:
Trường hợp 1: Khi người xây dựng nhà và chủ đất đã thỏa thuận và đồng thuận về việc xây dựng nhà trên đất
Theo đó, nếu người xây dựng có thể chứng minh rằng họ đã sử dụng lao động và tài chính cá nhân
để xây dựng ngôi nhà trên đất của người khác, thì ngôi nhà đó vẫn có thể được xác định là tài sản
hợp pháp của họ. Việc xác lập quyền sở hữu không chỉ đơn thuần là việc xây dựng một công trình
mà còn liên quan đến việc có được các giấy tờ chứng minh và xác nhận từ cơ quan có thẩm quyền.
Điều này đặc biệt quan trọng khi liên quan đến việc sở hữu nhà ở. Các bước cụ thể về việc xác lập
quyền sở hữu nhà ở được quy định rõ trong Điều 31 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quyền sở hữu này phải tuân thủ các quy định của pháp luật và không
được vi phạm quyền sở hữu của người khác. Nếu người xây dựng nhà vi phạm quy định và xây
dựng trái phép trên đất của người khác mà không có sự đồng ý của họ, hành vi này vẫn là vi phạm
pháp luật và có thể bị xử lý theo quy định của luật đất đai và luật dân sự.
Trường hợp 2: Người xây dựng và chủ đất không thỏa thuận được về việc đăng ký biến động
với căn nhà trên đất
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận với chủ đất về việc đăng ký quyền sở hữu ngôi nhà
hoặc xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu, người xây dựng đối diện với nhiều thách thức pháp lý và
tình huống phức tạp. Trong tình cảnh như vậy, người xây dựng cần đề xuất những giải pháp khôn
ngoan và sáng tạo để bảo vệ quyền lợi của mình.
Một lựa chọn là tự thỏa thuận với chủ đất về vấn đề xác định quyền sở hữu ngôi nhà. Trong quá
trình này, việc truy cập đến sự hỗ trợ từ các chuyên gia pháp lý có thể là quan trọng để đảm bảo
rằng quy định và điều kiện được đưa ra là công bằng và hợp lý. Qua đàm phán, hai bên có thể đạt
được thỏa thuận lành mạnh và tránh được những tranh cãi và phiền toái phức tạp.
Nếu không thể đạt được thỏa thuận, người xây dựng có thể chọn lựa hướng dẫn của cơ quan có
thẩm quyền để giải quyết mâu thuẫn. Các cơ quan như Tòa án, Trọng tài có thể trở thành những tổ
chức quyết định trong việc xác định quyền sở hữu và giải quyết tranh chấp một cách công bằng.
Trong trường hợp này, việc có sự hỗ trợ từ luật sư và người đại diện pháp lý là quan trọng để đảm
bảo quyền lợi của người xây dựng được bảo vệ đầy đủ.
Ngoài việc xác định quyền sở hữu, người xây dựng còn có quyền yêu cầu chủ đất thanh toán phần
giá trị của ngôi nhà đã xây dựng và công sức trông nom. Điều này có thể bao gồm cả việc tính toán
giá trị công trình, vật liệu và cả lao động mà người xây dựng đã đầu tư vào việc xây dựng ngôi
nhà. Hơn nữa, người xây dựng cũng có quyền đòi hỏi chủ đất thanh toán các chi phí liên quan đến
sử dụng đất, như các khoản phí sử dụng đất và các chi phí khác đã nộp trong suốt thời gian sử dụng đất đó.
Vì vậy, quy trình xác lập quyền sở hữu nhà ở không chỉ yêu cầu sự nỗ lực và tài chính từ người
xây dựng mà còn đòi hỏi sự tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật để đảm bảo tính hợp
pháp và công bằng trong quyền sở hữu tài sản.
3. Các phương thức xử lý đối với việc xây nhà trên đất người khác
Các chủ thể bị cá nhân khác ngang nhiên sử dụng hoặc xây dựng nhà ở trái phép trên mảnh đất
của mình đều đối mặt với những thách thức pháp lý đáng kể. Trong tình huống này, họ có khả
năng lựa chọn giữa nhiều phương pháp để xử lý hành vi trái phép này, có thể kể đến như:
Phương án đầu tiên là tố cáo:
Theo quy trình này, người bị vi phạm có thể tổ chức việc tố cáo thông qua việc nộp đơn tố cáo
hoặc trực tiếp trình bày vấn đề tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Quy trình giải quyết tố cáo
theo Điều 22 Luật tố cáo năm 2018 sẽ được thực hiện qua nhiều bước cụ thể:
Bước đầu tiên là tiếp nhận và xử lý thông tin tố cáo từ người tố cáo. Các cơ quan chức năng sau
đó sẽ tiến hành xác minh nội dung tố cáo trong bước thứ hai. Quá trình này nhằm đảm bảo tính
chính xác và đầy đủ của thông tin được cung cấp. Bước thứ ba là kết luận nội dung tố cáo, nơi cơ
quan có thẩm quyền sẽ quyết định liệu có đủ căn cứ để xử lý tố cáo hay không.
Tiếp theo, trong bước thứ tư, cơ quan giải quyết tố cáo sẽ xử lý tố cáo của người giải quyết. Quy
trình này đảm bảo rằng mọi bên liên quan được nghe và có cơ hội bảo vệ quan điểm của mình.
Cuối cùng, bước thứ năm là công khai kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý hành vi vi
phạm mà tố cáo đã đề cập.
Phương án thứ hai, khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền
Ngoài phương án tố cáo, chủ thể còn có thể xem xét phương án thứ hai, đó là thực hiện khởi kiện
dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2013.
Theo quy định của Điều 35 Luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện được xác định
là cơ quan có thẩm quyền chính để giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật đất
đai. Quy trình này bắt đầu sau khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành hòa giải, thường là Ủy ban
nhân dân nơi có đất mà các bên đang tranh chấp. Trong trường hợp tranh chấp đất đai liên quan
đến yếu tố nước ngoài, quy định tại điểm c của khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
xác định rằng thẩm quyền giải quyết sẽ thuộc về Tòa án nhân dân tỉnh. Điều này làm cho quy trình
giải quyết trở nên linh hoạt và có khả năng đáp ứng các tình huống phức tạp và đa dạng.
Khi một cá nhân hoặc tổ chức phát hiện người khác đã xây dựng nhà trái phép trên đất của mình
mà chưa có sự cho phép, họ có thể áp dụng một trong hai phương án nêu trên để bảo vệ quyền lợi
của mình. Khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền đặc biệt quan trọng khi cần sự can thiệp
của hệ thống pháp luật để giải quyết một tranh chấp phức tạp và nghiêm trọng.
Quy trình này thường bắt đầu bằng việc nộp đơn khởi kiện, sau đó Tòa án sẽ tiến hành các bước
như xác nhận đơn, thu thập chứng cứ, nghe chứng và đưa ra quyết định. Quy trình này không chỉ
giúp bảo vệ quyền lợi của người bị vi phạm mà còn đảm bảo công bằng và tính minh bạch trong
quá trình giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Câu hỏi thường gặp liên quan đến quyền sở hữu nhà ở
4.1 Quyền của chủ sở hữu nhà ở và người sử dụng nhà ở là gì?
Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân.
Người sử dụng nhà ở hay là chủ sở hữu nhà ở được mang trong mình những quyền lợi nhất định.
Theo quy định tại Điều 10 Luật nhà ở quy định về quyền của chủ sở hữu nhà ở và của người sử dụng nhà ở.
Đối với chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài thì có các quyền sau đây:
Thứ nhất, có quyền bất khả xâm phạm về nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của mình. Trong trường
hợp này thì không ai được phép hoặc chưa được phép của chủ sở hữu mà tự vào chỗ ở của người khác.
Thứ hai, sử dụng nhà ở vào mục đích để ở và các mục đích khác mà luật không cấm.
Thứ ba, được cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình theo
quy định của Luật nhà ở và pháp luật về đất đai.
Thứ tư, bán, chuyển nhượng hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, để thừa
kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở; trường hợp tặng cho, để thừa
kế nhà ở cho các đối tượng không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì các đối tượng
này chỉ được hưởng giá trị của nhà ở đó.
Thứ năm, sử dụng chung các công trình tiện ích công cộng trong khu nhà ở đó theo quy định của
Luật này và pháp luật có liên quan.
Trường hợp là chủ sở hữu nhà chung cư thì có quyền sở hữu, sử dụng chung đối với phần sở hữu
chung của nhà chung cư và các công trình hạ tầng sử dụng chung của khu nhà chung cư đó, trừ
các công trình được xây dựng để kinh doanh hoặc phải bàn giao cho Nhà nước theo quy định của
pháp luật hoặc theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê mua nhà ở.
Thứ sáu, bảo trì, cải tạo, phá dỡ, xây dựng lại nhà ở theo quy định của Luật này và pháp luật về xây dựng.
Thứ bảy, được bồi thường theo quy định của luật khi Nhà nước phá dỡ, trưng mua, trưng dụng
nhà ở hoặc được Nhà nước thanh toán theo giá thị trường khi Nhà nước mua trước nhà ở thuộc sở
hữu hợp pháp của mình vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.
Thứ tám, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu hợp pháp của
mình và các hành vi khác vi phạm pháp luật về nhà ở.
Trường hợp thuộc diện sở hữu nhà ở có thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật nhà
ở thì trong thời hạn sở hữu nhà ở, chủ sở hữu được thực hiện các quyền quy định tại khoản 1 Điều
10 Luật nhà ở, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; khi hết thời hạn sở hữu nhà ở theo thỏa
thuận thì chủ sở hữu đang quản lý, sử dụng nhà ở phải bàn giao lại nhà ở này cho chủ sở hữu nhà ở lần đầu.
Đối với chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài thì có các quyền theo quy định tại Điều 161 của Luật nhà ở.
Người sử dụng nhà ở không phải là chủ sở hữu nhà ở được thực hiện các quyền trong việc quản
lý, sử dụng nhà ở theo thỏa thuận với chủ sở hữu nhà ở.
4.2 Đối tượng có quyền có chỗ ở và quyền sở hữu nhà ở?
Theo Điều 4 Luật nhà ở 2014, Hộ gia đình, cá nhân có quyền có chỗ ở thông qua việc đầu tư xây
dựng, mua, thuê, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận góp vốn, nhận đổi, mượn, ở nhờ,
quản lý nhà ở theo ủy quyền và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhà ở hợp pháp thông qua các hình thức quy định tại khoản 2
Điều 8 của Luật này có quyền sở hữu đối với nhà ở đó theo quy định của Luật này.