lOMoARcPSD| 60729183
NHÓM 6 1.Trình bày các loại rủi ro kiểm toán 1.1 khái niệm về rủi ro kế toán
- Trong kiểm toán nói chung kiểm toán o cáo tài chính nói riêng, rủi ro kiểm
toánlà khái niệm quen thuộc gắn liền với trách nhiệm của kiểm toán viên. Vì vậy, việc hiểu
rõ và quản lý tốt rủi ro kiểm toán là yếu tố quyết định trong việc hạn chế rủi ro kinh doanh
của các công ty kiểm toán.
- Theo từ điển tiếng việt, “Rủi ro thuật ngữ để chỉ việc không may xảy ra” hoặc
“rủi rolà điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Như vậy rủi ro là điều không mong
muốn. Trong các lĩnh vực khác nhau thì rủi ro lại có những đặc trưng riêng. Trong lĩnh vực
kiểm toán rủi ro kiểm toán đã được định nghĩa trong các văn bản hướng dẫn kiểm toán và
chuẩn mực kiểm toán như sau:
- Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 “Rủi ro kiểm toán: rủi ro do kiểm
toánviên đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán
còn chứa đựng sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu
(gồm rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện;
- dụ, Kiểm toán viên (KTV) thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một Báo
cáo tàichính (BCTC) không biết rằng các báo cáo này những sai phạm trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong Báo cáo tài chính hệ thống
kiểm soát nội bộ (HTKSNB) cũng như các thử nghiệm bản của kiểm toán viên không
phát hiện được
1.2 Các loại rủi ro kiểm toán
1.2.1 Rủi ro tiềm tàng
- VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro tiềm tàng là khả năng cơ sở dẫn liệu của một nhóm
giaodịch, số tài khoản hay những thông tin thuyết minh có thể chứa đựng sai sót trọng
yếu, khi xét riêng rẽ hay tổng hợp lại, trước khi xem xét đến bất kỳ kiểm soát nào có liên
quan”.
- Rủi ro tiềm tàng chủ yếu đến từ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp, chẳng hạn như
việctính toán phức tạp thể sai t nhiều hơn các tính toán đơn giản, khoản mục tiền
thường gặp rủi ro mất cắp hơn các khoản mục khác, những tài khoản bao gồm các giá trị
phát sinh từ các ước tính kế toán sẽ rủi ro sai phạm cao hơn các nghiệp vụ thông
thường… Tuy nhiên, các nhân tố bên ngoài đôi khi cũng ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng,
ví dụ như sự phát triển về công nghệ có thể dẫn đến việc lỗi thời của một số sản phẩm cụ
thể, làm cho hàng tồn kho khả năng ghi nhận khống trên báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
lOMoARcPSD| 60729183
-Tùy thuộc vào bản chất ngành nghề, điều kiện kinh doanh cũng như một số nhân tố khác
liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp sẽ có những rủi ro tiềm tàng
khác nhau, kiểm toán viên chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động vào rủi ro tiềm tàng.
Rủi ro tiềm tàng được đánh giá trong suốt giai đoạn lập kế hoạch cập nhật trong suốt
quá trình kiểm toán.
1.2.2 Rủi ro kiểm soát
- VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro kiểm soát rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong
từngnghiệp vụ, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao
dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh mà kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể
ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”
- Như vậy, kiểm soát việc thiết kế, vận hành duy trì kiểm soát nội bộ của Ban
giámđốc nhằm hạn chế rủi ro đã xác định có thể cản trở việc hoàn thành các mục tiêu của
đơn vị. Tuy nhiên, bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng có những hạn chế tiềm tàng,
chẳng hạn như khnăng người thực hiện gây ra những nhầm lẫn, sai sót, hoặc một số
kiểm soát thể bị vô hiệu do sự thông đồng hay lạm dụng quyền của người quản .
Điều này làm cho rủi ro kiểm soát luôn luôn tồn tại, do đó, không thể loại trừ hoàn
toàn rủi ro có sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính.
-Cũng giống như rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên không thể can thiệp vào rủi ro kiểm soát
chỉ thể đánh gmức độ ảnh hưởng của chúng đến o cáo tài chính để từ đó xác
định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thử nghiệm cơ bản.
1.2.3. Rủi ro phát hiện (DR)
- VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro phát hiện rủi ro các thủ tục kiểm toán
viênthực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới mức thấp có thể chấp nhận được
nhưng vẫn không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu khi xét riêng hoặc tổng hợp lại.
Với một mức rủi ro kiểm toán xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện được chấp nhận có
quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi rosai sót trọng yếu được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.
- Ví dnhư, nếu kiểm toán viên xác định rủi ro sai sót trọng yếu mức độ càng cao
thì rủi ro phát hiện thể chấp nhận được ng thấp, cần thu thập nhiều bằng chứng
kiểm toán có tính thuyết phục cao hơn.
- Rủi ro tiềm tàng rủi ro kiểm soát khác biệt với rủi ro phát hiện chúng tồn tại
độclập với cuộc kiểm toán, trong khi rủi ro phát hiện lại liên quan đến các thủ tục của
kiểm toán viên và có thể thay đổi theo sự xem xét của kiểm toán viên. Rủi ro phát hiện có
mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng rủi ro kiểm soát. Rủi ro tiềm tàng rủi
ro kiểm soát càng thấp, rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được sẽ càng cao, và ngược lại,
lOMoARcPSD| 60729183
càng nhiều rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên tin có tồn tại, thì
rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được là càng thấp.
2. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro trong kiểm toán
Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước hết ta tìm hiểu vềhình rủi ro kiểm
toán
2.1 Mô hình rủi ro kiểm toán Trong
đó:
AR: Rủi ro kiểm toán
IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát
DR: Rủi ro phát hiện
Với 3 bộ phận của rủi ro kiểm toán: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát rủi ro phát hiện,
mô hình rủi ro kiểm toán có thể chia rủi ro thành 2 thành phần chính: Một phần phụ thuộc
vào doanh nghiệp (rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát), một phần phụ thuộc vào kiểm toán
viên (rủi ro phát hiện).
Tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được phản ánh bằng
những ảnh hưởng của chúng đến rủi ro phát hiện. Những ảnh hưởng này có thể được mô
tả dưới hình thức toán học như phương trình nêu trên. Kiểm toán viên giảm thiểu mức độ
rủi ro được đánh giá bằng cách thiết kế và thực hiện nhiều hơn các thủ tục kiểm toán, bao
gồm về cả nội dung, phạm vi, lịch trình của các thủ tục đó.
Do rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát không thể bị tác động mà chỉ có thể đánh giá, chúng
tồn tại độc lập khách quan với các thử nghiệm kiểm toán. Ngược lại, kiểm toán viên có thể
giảm thiểu rủi ro phát hiện bằng cách điều chỉnh nội dung, phạm vi thời gian của thử
nghiệm cơ bản. Do đó, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên thường ấn
định mức rủi ro kiểm toán mong muốn, đồng thời đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát dựa trên tình hình của doanh nghiệp, để từ đó xác định rủi ro phát hiện, làm cơ sở cho
việc thiết kế các thử nghiệm kiểm toán.
Như vậy, hình rủi ro kiểm toán cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại rủi ro.
Trong mối quan hệ này, rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng rủi ro kiểm
soát.
2.2 Mối quan hệ của rủi ro
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Mối quan hệ giữa rủi ro tiềm tàng và các loại rủi ro kiểm toán đợc thể hiện qua công thức:
AR = IR x CR x DR (1)
Trong đó:
lOMoARcPSD| 60729183
- AR (Audit risk): Rủi ro kiểm toán
- IR (Inherent risk): Rủi ro tiềm tàng
- CR (Control risk): Rủi ro kiểm soát
- DR (Detection risk): Rủi ro phát hiện
Theo công thức (1), để giảm thiểu rủi ro kiểm toán (AR) mức thấp thể chấp nhận được,
thì kiểm toán viên cần giảm rủi ro tiềm tàng (IR) ở mức thấp có thể chấp nhận được. Điều
này có nghĩa là, kiểm toán viên phải xem xét và đánh giá cẩn trọng các yếu tố ảnh hưởng
đến rủi ro tiềm tàng, như: về đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị được
kiểm toán; văn hóa doanh nghiệp và kinh nghiệm của kiểm toán viên.
Ngoài ra, từ công thức (1) ta suy rộng ra:
DR = AR/(IR x CR) (2)
Theo công thức (2), để giảm thiểu rủi ro phát hiện (DR), thì rủi ro tiềm tàng (IR) và rủi ro
kiểm soát (CR) phải ở mức cao.
Công thức (2) còn được thể hiện dưới dạng ma trận sau:
Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR)
Đánh
giá rủi
ro tiềm
tàng
(IR)
Cao
Trung bình
Thấp
Cao
Thấp nhất
Thấp
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Cao
Thấp
Thấp
Cao
Cao nhất
Trong ma trận trên, dòng của ma trận biểu thị rủi ro tiềm tàng (IR), cột của ma trận biểu thị
rủi ro kiểm soát (CR), giao giữa dòng và cột biểu thị kết quả của rủi ro phát hiện (DR). Ví
dụ, nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao và đánh giá rủi ro kiểm soát
mức cao thì rủi ro phát hiện sẽ được đánh giá ở mức thấp nhất.
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro và thu thập bằng chứng kiểm toán
Để có thể thấy rõ những ảnh hưởng của các loại rủi ro trong kiểm toán đến việc thu thập
bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên có thể dựa vào mối quan hệ được thể hiện ở Sơ đồ
1.
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa rủi ro và thu thập bằng chứng kiểm toán
Trong đó:
lOMoARcPSD| 60729183
- D (Direct Relationship): Mối quan hệ trực tiếp/tỷ lệ thuận - I
(Inverse Relationship): Mối quan hệ đối nghịch/tỷ lệ nghịch
Nhìn trên Sơ đồ 1, ta thấy:
Rủi ro kiểm toán rủi ro phát hiện mối quan hệ tỷ lệ thuận. Điều này nghĩa là, khi
rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức thấp thì rủi ro phát hiện sẽ ở mức thấp và ngược lại.
Rủi ro kiểm toán rủi ro phát hiện mối quan hệ tỷ lệ nghịch với việc thu thập bằng
chứng kiểm toán. Như vậy, khi rủi ro kiểm toán rủi ro phát hiện mức thấp thì kiểm
toán viên cần thu thập nhiều bằng chứng bổ sung để chứng minh ý kiến của mình. ngược
lại, khi rủi ro kiểm toán rủi ro phát hiện mức cao, thì kiểm toán viên không cần thu
thập thêm bằng chứng kiểm toán.
Rủi ro tiềm tàng rủi ro kiểm soát mối quan hệ tỷ lệ thuận với việc thu thập bằng
chứng kiểm toán. Do đó, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao
thì kiểm toán viên phải sử dụng thêm các thủ tục để thu thập thêm bằng chứng kiểm toán.
Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng kiểm ro kiểm soát được đánh giá mức thấp, thì kiểm
toán viên không cần thu thập thêm bằng chứng kiểm toán. Ngoài ra, mối quan hệ này còn
được thể hiện ở bảng ma trận sau:
AR
IR
CR
DR
Số lượng
bằng
chứng
được yêu
cầu
Cao
Thấp
Thấp
Cao
Thấp
Thấp
Thấp
Thấp
Trung
bình
Trung bình
Thấp
Cao
Cao
Thấp
Cao
Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình
Trung bình
Cao
Thấp
Trung
bình
Trung
bình
Trung bình
Mối quan hệ giữa rủi ro và mức trọng yếu
Giữa mức trọng yếu rủi ro mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu mức sai sót thể
chấp nhận được tăng lên, thì rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống. Bởi vì, khi kiểm toán viên
lOMoARcPSD| 60729183
tăng giá trị sai sót có thể bỏ qua, thì khả năng sai sót trọng yếu có thể giảm xuống ngược
lại.
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
với nhau; mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp ngược lại. Kiểm toán
viên phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác định nội dung, lịch trình phạm vi của
các thủ tục kiểm toán một cách thích hợp, như: khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu kiểm toán
viên xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên.
Trường hợp này kiểm toán viên có thể:
Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm
thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát;
Hoặc giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những
thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Việc xác định ngưỡng trọng yếu (ngưỡng sai sót không đáng kể) trong mức trọng yếu là rất
quan trọng. Việc xác định ngưỡng trọng yếu giúp kiểm toán viên loại bỏ những sai sót quá
nhỏ, mà ngay cả khi tổng hợp lại cũng không đủ gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài
chính.
Mối quan hệ giữa rủi ro và mức trọng yếu được thể hiện qua Sơ đồ 2.
Sơ đồ 2: Mối quan hệ giữa rủi ro, thu thập bằng chứng kiểm toán và mức trọng yếu
Trong đó:
- D (Direct Relationship): Mối quan hệ trực tiếp/tỷ lệ thuận
- I (Inverse Relationship): Mối quan hệ đối nghịch/tỷ lệ nghịch
Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng
Từ các tìm hiểu và phân tích ở trên, tác giả đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi
ro tiềm tàng như Mô hình.
Mô hình: Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng
Nguồn: Tác giả đề xuất
Trong đó:
- BN: Nature of Client’s Business (Đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của
kháchhàng)
- AE: Audit Experience (Kinh nghiệm của kiểm toán viên)
- C: Culture (Văn hóa doanh nghiệp/Văn hóa)
- DR: Detection Risk (Rủi ro phát hiện)
- IR: Inherrent Risk (Rủi ro tiềm tàng)
- CR: Control Risk (Rủi ro kiểm soát)
lOMoARcPSD| 60729183
- AR: Audit Risk (Rủi ro kiểm toán)
Như vậy, nhìn vào hình cho thấy: Rủi ro tiềm tàng chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tchính
là đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng NB; kinh nghiệm của kiểm
toán viên AE và Văn hóa C. Trong khi đó, rủi ro tiềm tàng có mối quan hệ với ba loại
rủi ro, gồm: rủi ro kiểm toán AR; rủi ro phát hiện – DR và rủi ro kiểm soát – CR./.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60729183
NHÓM 6 1.Trình bày các loại rủi ro kiểm toán 1.1 khái niệm về rủi ro kế toán -
Trong kiểm toán nói chung và kiểm toán báo cáo tài chính nói riêng, rủi ro kiểm
toánlà khái niệm quen thuộc gắn liền với trách nhiệm của kiểm toán viên. Vì vậy, việc hiểu
rõ và quản lý tốt rủi ro kiểm toán là yếu tố quyết định trong việc hạn chế rủi ro kinh doanh
của các công ty kiểm toán. -
Theo từ điển tiếng việt, “Rủi ro là thuật ngữ để chỉ việc không may xảy ra” hoặc
“rủi rolà điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Như vậy rủi ro là điều không mong
muốn. Trong các lĩnh vực khác nhau thì rủi ro lại có những đặc trưng riêng. Trong lĩnh vực
kiểm toán rủi ro kiểm toán đã được định nghĩa trong các văn bản hướng dẫn kiểm toán và
chuẩn mực kiểm toán như sau: -
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 “Rủi ro kiểm toán: Là rủi ro do kiểm
toánviên đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán
còn chứa đựng sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu
(gồm rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện; -
Ví dụ, Kiểm toán viên (KTV) có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một Báo
cáo tàichính (BCTC) mà không biết rằng các báo cáo này có những sai phạm trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong Báo cáo tài chính mà hệ thống
kiểm soát nội bộ (HTKSNB) cũng như các thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên không phát hiện được
1.2 Các loại rủi ro kiểm toán
1.2.1 Rủi ro tiềm tàng -
VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro tiềm tàng là khả năng cơ sở dẫn liệu của một nhóm
giaodịch, số dư tài khoản hay những thông tin thuyết minh có thể chứa đựng sai sót trọng
yếu, khi xét riêng rẽ hay tổng hợp lại, trước khi xem xét đến bất kỳ kiểm soát nào có liên quan”. -
Rủi ro tiềm tàng chủ yếu đến từ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp, chẳng hạn như
việctính toán phức tạp có thể sai sót nhiều hơn các tính toán đơn giản, khoản mục tiền
thường gặp rủi ro mất cắp hơn các khoản mục khác, những tài khoản bao gồm các giá trị
phát sinh từ các ước tính kế toán sẽ có rủi ro sai phạm cao hơn các nghiệp vụ thông
thường… Tuy nhiên, các nhân tố bên ngoài đôi khi cũng ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng,
ví dụ như sự phát triển về công nghệ có thể dẫn đến việc lỗi thời của một số sản phẩm cụ
thể, làm cho hàng tồn kho có khả năng ghi nhận khống trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp. lOMoAR cPSD| 60729183
-Tùy thuộc vào bản chất ngành nghề, điều kiện kinh doanh cũng như một số nhân tố khác
liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp sẽ có những rủi ro tiềm tàng
khác nhau, kiểm toán viên chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động vào rủi ro tiềm tàng.
Rủi ro tiềm tàng được đánh giá trong suốt giai đoạn lập kế hoạch và cập nhật trong suốt quá trình kiểm toán.
1.2.2 Rủi ro kiểm soát -
VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong
từngnghiệp vụ, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao
dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh mà kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể
ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời” -
Như vậy, kiểm soát là việc thiết kế, vận hành và duy trì kiểm soát nội bộ của Ban
giámđốc nhằm hạn chế rủi ro đã xác định có thể cản trở việc hoàn thành các mục tiêu của
đơn vị. Tuy nhiên, bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng có những hạn chế tiềm tàng,
chẳng hạn như khả năng người thực hiện gây ra những nhầm lẫn, sai sót, hoặc một số
kiểm soát có thể bị vô hiệu do có sự thông đồng hay lạm dụng quyền của người quản lý.
Điều này làm cho rủi ro kiểm soát luôn luôn tồn tại, và do đó, không thể loại trừ hoàn
toàn rủi ro có sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính.
-Cũng giống như rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên không thể can thiệp vào rủi ro kiểm soát
mà chỉ có thể đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến báo cáo tài chính để từ đó xác
định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thử nghiệm cơ bản.
1.2.3. Rủi ro phát hiện (DR) -
VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro phát hiện là rủi ro mà các thủ tục mà kiểm toán
viênthực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới mức thấp có thể chấp nhận được
nhưng vẫn không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu khi xét riêng hoặc tổng hợp lại.
Với một mức rủi ro kiểm toán xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện được chấp nhận có
quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro có sai sót trọng yếu được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.
- Ví dụ như, nếu kiểm toán viên xác định có rủi ro sai sót trọng yếu ở mức độ càng cao
thì rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được càng thấp, và cần thu thập nhiều bằng chứng
kiểm toán có tính thuyết phục cao hơn. -
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác biệt với rủi ro phát hiện vì chúng tồn tại
độclập với cuộc kiểm toán, trong khi rủi ro phát hiện lại liên quan đến các thủ tục của
kiểm toán viên và có thể thay đổi theo sự xem xét của kiểm toán viên. Rủi ro phát hiện có
mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát càng thấp, rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được sẽ càng cao, và ngược lại, lOMoAR cPSD| 60729183
càng nhiều rủi ro tiềm tàng, và rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên tin là có tồn tại, thì
rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được là càng thấp.
2. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro trong kiểm toán
Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước hết ta tìm hiểu về mô hình rủi ro kiểm toán
2.1 Mô hình rủi ro kiểm toán Trong đó: AR: Rủi ro kiểm toán IR: Rủi ro tiềm tàng CR: Rủi ro kiểm soát DR: Rủi ro phát hiện
Với 3 bộ phận của rủi ro kiểm toán: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện,
mô hình rủi ro kiểm toán có thể chia rủi ro thành 2 thành phần chính: Một phần phụ thuộc
vào doanh nghiệp (rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát), một phần phụ thuộc vào kiểm toán
viên (rủi ro phát hiện).
Tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được phản ánh bằng
những ảnh hưởng của chúng đến rủi ro phát hiện. Những ảnh hưởng này có thể được mô
tả dưới hình thức toán học như phương trình nêu trên. Kiểm toán viên giảm thiểu mức độ
rủi ro được đánh giá bằng cách thiết kế và thực hiện nhiều hơn các thủ tục kiểm toán, bao
gồm về cả nội dung, phạm vi, lịch trình của các thủ tục đó.
Do rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát không thể bị tác động mà chỉ có thể đánh giá, chúng
tồn tại độc lập khách quan với các thử nghiệm kiểm toán. Ngược lại, kiểm toán viên có thể
giảm thiểu rủi ro phát hiện bằng cách điều chỉnh nội dung, phạm vi và thời gian của thử
nghiệm cơ bản. Do đó, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên thường ấn
định mức rủi ro kiểm toán mong muốn, đồng thời đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát dựa trên tình hình của doanh nghiệp, để từ đó xác định rủi ro phát hiện, làm cơ sở cho
việc thiết kế các thử nghiệm kiểm toán.
Như vậy, mô hình rủi ro kiểm toán cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại rủi ro.
Trong mối quan hệ này, rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
2.2 Mối quan hệ của rủi ro
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Mối quan hệ giữa rủi ro tiềm tàng và các loại rủi ro kiểm toán đợc thể hiện qua công thức: AR = IR x CR x DR (1) Trong đó: lOMoAR cPSD| 60729183
- AR (Audit risk): Rủi ro kiểm toán
- IR (Inherent risk): Rủi ro tiềm tàng
- CR (Control risk): Rủi ro kiểm soát
- DR (Detection risk): Rủi ro phát hiện
Theo công thức (1), để giảm thiểu rủi ro kiểm toán (AR) ở mức thấp có thể chấp nhận được,
thì kiểm toán viên cần giảm rủi ro tiềm tàng (IR) ở mức thấp có thể chấp nhận được. Điều
này có nghĩa là, kiểm toán viên phải xem xét và đánh giá cẩn trọng các yếu tố ảnh hưởng
đến rủi ro tiềm tàng, như: về đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị được
kiểm toán; văn hóa doanh nghiệp và kinh nghiệm của kiểm toán viên.
Ngoài ra, từ công thức (1) ta suy rộng ra:
DR = AR/(IR x CR) (2)
Theo công thức (2), để giảm thiểu rủi ro phát hiện (DR), thì rủi ro tiềm tàng (IR) và rủi ro
kiểm soát (CR) phải ở mức cao.
Công thức (2) còn được thể hiện dưới dạng ma trận sau:
Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR) Cao Trung bình Thấp Đánh giá rủi Cao Thấp nhất Thấp Trung bình ro tiềm tàng
Trung bình Trung bình Trung bình Cao (IR) Thấp Thấp Cao Cao nhất
Trong ma trận trên, dòng của ma trận biểu thị rủi ro tiềm tàng (IR), cột của ma trận biểu thị
rủi ro kiểm soát (CR), giao giữa dòng và cột biểu thị kết quả của rủi ro phát hiện (DR). Ví
dụ, nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao và đánh giá rủi ro kiểm soát ở
mức cao thì rủi ro phát hiện sẽ được đánh giá ở mức thấp nhất.
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro và thu thập bằng chứng kiểm toán
Để có thể thấy rõ những ảnh hưởng của các loại rủi ro trong kiểm toán đến việc thu thập
bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên có thể dựa vào mối quan hệ được thể hiện ở Sơ đồ 1.
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa rủi ro và thu thập bằng chứng kiểm toán Trong đó: lOMoAR cPSD| 60729183
- D (Direct Relationship): Mối quan hệ trực tiếp/tỷ lệ thuận - I
(Inverse Relationship): Mối quan hệ đối nghịch/tỷ lệ nghịch
Nhìn trên Sơ đồ 1, ta thấy:
Rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Điều này có nghĩa là, khi
rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức thấp thì rủi ro phát hiện sẽ ở mức thấp và ngược lại.
Rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với việc thu thập bằng
chứng kiểm toán. Như vậy, khi rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện ở mức thấp thì kiểm
toán viên cần thu thập nhiều bằng chứng bổ sung để chứng minh ý kiến của mình. Và ngược
lại, khi rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện ở mức cao, thì kiểm toán viên không cần thu
thập thêm bằng chứng kiểm toán.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỷ lệ thuận với việc thu thập bằng
chứng kiểm toán. Do đó, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao
thì kiểm toán viên phải sử dụng thêm các thủ tục để thu thập thêm bằng chứng kiểm toán.
Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và kiểm ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp, thì kiểm
toán viên không cần thu thập thêm bằng chứng kiểm toán. Ngoài ra, mối quan hệ này còn
được thể hiện ở bảng ma trận sau: Số lượng Tình bằng huốn AR IR CR DR chứng g được yêu cầu 1 Cao Thấp Thấp Cao Thấp Trung 2 Thấp Thấp Thấp Trung bình bình 3 Thấp Cao Cao Thấp Cao Trung Trung Trung Trung 4 Trung bình bình bình bình bình Trung Trung 5 Cao Thấp Trung bình bình bình
Mối quan hệ giữa rủi ro và mức trọng yếu
Giữa mức trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu mức sai sót có thể
chấp nhận được tăng lên, thì rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống. Bởi vì, khi kiểm toán viên lOMoAR cPSD| 60729183
tăng giá trị sai sót có thể bỏ qua, thì khả năng sai sót trọng yếu có thể giảm xuống và ngược lại.
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
với nhau; mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Kiểm toán
viên phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của
các thủ tục kiểm toán một cách thích hợp, như: khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu kiểm toán
viên xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên.
Trường hợp này kiểm toán viên có thể:
Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm
thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát;
Hoặc giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những
thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Việc xác định ngưỡng trọng yếu (ngưỡng sai sót không đáng kể) trong mức trọng yếu là rất
quan trọng. Việc xác định ngưỡng trọng yếu giúp kiểm toán viên loại bỏ những sai sót quá
nhỏ, mà ngay cả khi tổng hợp lại cũng không đủ gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính.
Mối quan hệ giữa rủi ro và mức trọng yếu được thể hiện qua Sơ đồ 2.
Sơ đồ 2: Mối quan hệ giữa rủi ro, thu thập bằng chứng kiểm toán và mức trọng yếu Trong đó:
- D (Direct Relationship): Mối quan hệ trực tiếp/tỷ lệ thuận
- I (Inverse Relationship): Mối quan hệ đối nghịch/tỷ lệ nghịch
Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng
Từ các tìm hiểu và phân tích ở trên, tác giả đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi
ro tiềm tàng như Mô hình.
Mô hình: Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng
Nguồn: Tác giả đề xuất Trong đó:
- BN: Nature of Client’s Business (Đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của kháchhàng)
- AE: Audit Experience (Kinh nghiệm của kiểm toán viên)
- C: Culture (Văn hóa doanh nghiệp/Văn hóa)
- DR: Detection Risk (Rủi ro phát hiện)
- IR: Inherrent Risk (Rủi ro tiềm tàng)
- CR: Control Risk (Rủi ro kiểm soát) lOMoAR cPSD| 60729183
- AR: Audit Risk (Rủi ro kiểm toán)
Như vậy, nhìn vào Mô hình cho thấy: Rủi ro tiềm tàng chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố chính
là đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng – NB; kinh nghiệm của kiểm
toán viên – AE và Văn hóa – C. Trong khi đó, rủi ro tiềm tàng có mối quan hệ với ba loại
rủi ro, gồm: rủi ro kiểm toán – AR; rủi ro phát hiện – DR và rủi ro kiểm soát – CR./.