






Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60729183
NHÓM 6 1.Trình bày các loại rủi ro kiểm toán 1.1 khái niệm về rủi ro kế toán  - 
Trong kiểm toán nói chung và kiểm toán báo cáo tài chính nói riêng, rủi ro kiểm 
toánlà khái niệm quen thuộc gắn liền với trách nhiệm của kiểm toán viên. Vì vậy, việc hiểu 
rõ và quản lý tốt rủi ro kiểm toán là yếu tố quyết định trong việc hạn chế rủi ro kinh doanh 
của các công ty kiểm toán.  - 
Theo từ điển tiếng việt, “Rủi ro là thuật ngữ để chỉ việc không may xảy ra” hoặc 
“rủi rolà điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Như vậy rủi ro là điều không mong 
muốn. Trong các lĩnh vực khác nhau thì rủi ro lại có những đặc trưng riêng. Trong lĩnh vực 
kiểm toán rủi ro kiểm toán đã được định nghĩa trong các văn bản hướng dẫn kiểm toán và 
chuẩn mực kiểm toán như sau:  - 
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 “Rủi ro kiểm toán: Là rủi ro do kiểm 
toánviên đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán 
còn chứa đựng sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu 
(gồm rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện;  - 
Ví dụ, Kiểm toán viên (KTV) có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một Báo 
cáo tàichính (BCTC) mà không biết rằng các báo cáo này có những sai phạm trọng yếu”. 
Rủi ro kiểm toán xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong Báo cáo tài chính mà hệ thống 
kiểm soát nội bộ (HTKSNB) cũng như các thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên không  phát hiện được 
1.2 Các loại rủi ro kiểm toán 
1.2.1 Rủi ro tiềm tàng  - 
VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro tiềm tàng là khả năng cơ sở dẫn liệu của một nhóm 
giaodịch, số dư tài khoản hay những thông tin thuyết minh có thể chứa đựng sai sót trọng 
yếu, khi xét riêng rẽ hay tổng hợp lại, trước khi xem xét đến bất kỳ kiểm soát nào có liên  quan”.  - 
Rủi ro tiềm tàng chủ yếu đến từ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp, chẳng hạn như 
việctính toán phức tạp có thể sai sót nhiều hơn các tính toán đơn giản, khoản mục tiền 
thường gặp rủi ro mất cắp hơn các khoản mục khác, những tài khoản bao gồm các giá trị 
phát sinh từ các ước tính kế toán sẽ có rủi ro sai phạm cao hơn các nghiệp vụ thông 
thường… Tuy nhiên, các nhân tố bên ngoài đôi khi cũng ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng, 
ví dụ như sự phát triển về công nghệ có thể dẫn đến việc lỗi thời của một số sản phẩm cụ 
thể, làm cho hàng tồn kho có khả năng ghi nhận khống trên báo cáo tài chính của doanh  nghiệp.      lOMoAR cPSD| 60729183
-Tùy thuộc vào bản chất ngành nghề, điều kiện kinh doanh cũng như một số nhân tố khác 
liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp sẽ có những rủi ro tiềm tàng 
khác nhau, kiểm toán viên chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động vào rủi ro tiềm tàng. 
Rủi ro tiềm tàng được đánh giá trong suốt giai đoạn lập kế hoạch và cập nhật trong suốt  quá trình kiểm toán. 
1.2.2 Rủi ro kiểm soát  - 
VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong 
từngnghiệp vụ, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao 
dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh mà kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể 
ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”  - 
Như vậy, kiểm soát là việc thiết kế, vận hành và duy trì kiểm soát nội bộ của Ban 
giámđốc nhằm hạn chế rủi ro đã xác định có thể cản trở việc hoàn thành các mục tiêu của 
đơn vị. Tuy nhiên, bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng có những hạn chế tiềm tàng, 
chẳng hạn như khả năng người thực hiện gây ra những nhầm lẫn, sai sót, hoặc một số 
kiểm soát có thể bị vô hiệu do có sự thông đồng hay lạm dụng quyền của người quản lý. 
Điều này làm cho rủi ro kiểm soát luôn luôn tồn tại, và do đó, không thể loại trừ hoàn 
toàn rủi ro có sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính. 
-Cũng giống như rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên không thể can thiệp vào rủi ro kiểm soát 
mà chỉ có thể đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến báo cáo tài chính để từ đó xác 
định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thử nghiệm cơ bản.   
1.2.3. Rủi ro phát hiện (DR)  - 
VSA 200 đã định nghĩa “Rủi ro phát hiện là rủi ro mà các thủ tục mà kiểm toán 
viênthực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới mức thấp có thể chấp nhận được 
nhưng vẫn không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu khi xét riêng hoặc tổng hợp lại. 
Với một mức rủi ro kiểm toán xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện được chấp nhận có 
quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro có sai sót trọng yếu được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu. 
- Ví dụ như, nếu kiểm toán viên xác định có rủi ro sai sót trọng yếu ở mức độ càng cao 
thì rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được càng thấp, và cần thu thập nhiều bằng chứng 
kiểm toán có tính thuyết phục cao hơn.  - 
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác biệt với rủi ro phát hiện vì chúng tồn tại 
độclập với cuộc kiểm toán, trong khi rủi ro phát hiện lại liên quan đến các thủ tục của 
kiểm toán viên và có thể thay đổi theo sự xem xét của kiểm toán viên. Rủi ro phát hiện có 
mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Rủi ro tiềm tàng và rủi 
ro kiểm soát càng thấp, rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được sẽ càng cao, và ngược lại,      lOMoAR cPSD| 60729183
càng nhiều rủi ro tiềm tàng, và rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên tin là có tồn tại, thì 
rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được là càng thấp. 
2. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro trong kiểm toán 
Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước hết ta tìm hiểu về mô hình rủi ro kiểm  toán 
2.1 Mô hình rủi ro kiểm toán Trong  đó:  AR: Rủi ro kiểm toán  IR: Rủi ro tiềm tàng  CR: Rủi ro kiểm soát  DR: Rủi ro phát hiện 
 Với 3 bộ phận của rủi ro kiểm toán: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện, 
mô hình rủi ro kiểm toán có thể chia rủi ro thành 2 thành phần chính: Một phần phụ thuộc 
vào doanh nghiệp (rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát), một phần phụ thuộc vào kiểm toán 
viên (rủi ro phát hiện). 
Tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được phản ánh bằng 
những ảnh hưởng của chúng đến rủi ro phát hiện. Những ảnh hưởng này có thể được mô 
tả dưới hình thức toán học như phương trình nêu trên. Kiểm toán viên giảm thiểu mức độ 
rủi ro được đánh giá bằng cách thiết kế và thực hiện nhiều hơn các thủ tục kiểm toán, bao 
gồm về cả nội dung, phạm vi, lịch trình của các thủ tục đó. 
Do rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát không thể bị tác động mà chỉ có thể đánh giá, chúng 
tồn tại độc lập khách quan với các thử nghiệm kiểm toán. Ngược lại, kiểm toán viên có thể 
giảm thiểu rủi ro phát hiện bằng cách điều chỉnh nội dung, phạm vi và thời gian của thử 
nghiệm cơ bản. Do đó, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên thường ấn 
định mức rủi ro kiểm toán mong muốn, đồng thời đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm 
soát dựa trên tình hình của doanh nghiệp, để từ đó xác định rủi ro phát hiện, làm cơ sở cho 
việc thiết kế các thử nghiệm kiểm toán. 
Như vậy, mô hình rủi ro kiểm toán cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại rủi ro. 
Trong mối quan hệ này, rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm  soát. 
2.2 Mối quan hệ của rủi ro  
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro 
Mối quan hệ giữa rủi ro tiềm tàng và các loại rủi ro kiểm toán đợc thể hiện qua công thức:  AR = IR x CR x DR (1)  Trong đó:      lOMoAR cPSD| 60729183
- AR (Audit risk): Rủi ro kiểm toán 
- IR (Inherent risk): Rủi ro tiềm tàng 
- CR (Control risk): Rủi ro kiểm soát 
- DR (Detection risk): Rủi ro phát hiện 
Theo công thức (1), để giảm thiểu rủi ro kiểm toán (AR) ở mức thấp có thể chấp nhận được, 
thì kiểm toán viên cần giảm rủi ro tiềm tàng (IR) ở mức thấp có thể chấp nhận được. Điều 
này có nghĩa là, kiểm toán viên phải xem xét và đánh giá cẩn trọng các yếu tố ảnh hưởng 
đến rủi ro tiềm tàng, như: về đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị được 
kiểm toán; văn hóa doanh nghiệp và kinh nghiệm của kiểm toán viên. 
Ngoài ra, từ công thức (1) ta suy rộng ra: 
DR = AR/(IR x CR) (2) 
Theo công thức (2), để giảm thiểu rủi ro phát hiện (DR), thì rủi ro tiềm tàng (IR) và rủi ro 
kiểm soát (CR) phải ở mức cao. 
Công thức (2) còn được thể hiện dưới dạng ma trận sau:     
Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR)    Cao  Trung bình Thấp  Đánh  giá rủi  Cao  Thấp nhất  Thấp  Trung bình  ro tiềm  tàng 
Trung bình Trung bình Trung bình Cao  (IR)  Thấp  Thấp  Cao  Cao nhất 
Trong ma trận trên, dòng của ma trận biểu thị rủi ro tiềm tàng (IR), cột của ma trận biểu thị 
rủi ro kiểm soát (CR), giao giữa dòng và cột biểu thị kết quả của rủi ro phát hiện (DR). Ví 
dụ, nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao và đánh giá rủi ro kiểm soát ở 
mức cao thì rủi ro phát hiện sẽ được đánh giá ở mức thấp nhất. 
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro và thu thập bằng chứng kiểm toán 
Để có thể thấy rõ những ảnh hưởng của các loại rủi ro trong kiểm toán đến việc thu thập 
bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên có thể dựa vào mối quan hệ được thể hiện ở Sơ đồ  1. 
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa rủi ro và thu thập bằng chứng kiểm toán  Trong đó:      lOMoAR cPSD| 60729183
- D (Direct Relationship): Mối quan hệ trực tiếp/tỷ lệ thuận - I 
(Inverse Relationship): Mối quan hệ đối nghịch/tỷ lệ nghịch 
Nhìn trên Sơ đồ 1, ta thấy: 
Rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Điều này có nghĩa là, khi 
rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức thấp thì rủi ro phát hiện sẽ ở mức thấp và ngược lại. 
Rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với việc thu thập bằng 
chứng kiểm toán. Như vậy, khi rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện ở mức thấp thì kiểm 
toán viên cần thu thập nhiều bằng chứng bổ sung để chứng minh ý kiến của mình. Và ngược 
lại, khi rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện ở mức cao, thì kiểm toán viên không cần thu 
thập thêm bằng chứng kiểm toán. 
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỷ lệ thuận với việc thu thập bằng 
chứng kiểm toán. Do đó, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao 
thì kiểm toán viên phải sử dụng thêm các thủ tục để thu thập thêm bằng chứng kiểm toán. 
Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và kiểm ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp, thì kiểm 
toán viên không cần thu thập thêm bằng chứng kiểm toán. Ngoài ra, mối quan hệ này còn 
được thể hiện ở bảng ma trận sau:  Số lượng  Tình  bằng  huốn  AR  IR  CR  DR  chứng  g  được yêu  cầu  1  Cao  Thấp  Thấp  Cao  Thấp  Trung  2  Thấp  Thấp  Thấp  Trung bình  bình  3  Thấp  Cao  Cao  Thấp  Cao  Trung  Trung  Trung  Trung  4  Trung bình  bình  bình  bình  bình  Trung  Trung  5  Cao  Thấp  Trung bình  bình  bình 
Mối quan hệ giữa rủi ro và mức trọng yếu 
Giữa mức trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu mức sai sót có thể 
chấp nhận được tăng lên, thì rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống. Bởi vì, khi kiểm toán viên      lOMoAR cPSD| 60729183
tăng giá trị sai sót có thể bỏ qua, thì khả năng sai sót trọng yếu có thể giảm xuống và ngược  lại. 
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch 
với nhau; mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Kiểm toán 
viên phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của 
các thủ tục kiểm toán một cách thích hợp, như: khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu kiểm toán 
viên xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. 
Trường hợp này kiểm toán viên có thể: 
Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm 
thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; 
Hoặc giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những 
thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến. 
Việc xác định ngưỡng trọng yếu (ngưỡng sai sót không đáng kể) trong mức trọng yếu là rất 
quan trọng. Việc xác định ngưỡng trọng yếu giúp kiểm toán viên loại bỏ những sai sót quá 
nhỏ, mà ngay cả khi tổng hợp lại cũng không đủ gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài  chính. 
Mối quan hệ giữa rủi ro và mức trọng yếu được thể hiện qua Sơ đồ 2. 
Sơ đồ 2: Mối quan hệ giữa rủi ro, thu thập bằng chứng kiểm toán và mức trọng yếu  Trong đó: 
- D (Direct Relationship): Mối quan hệ trực tiếp/tỷ lệ thuận 
- I (Inverse Relationship): Mối quan hệ đối nghịch/tỷ lệ nghịch 
Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng 
Từ các tìm hiểu và phân tích ở trên, tác giả đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi 
ro tiềm tàng như Mô hình. 
Mô hình: Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng 
Nguồn: Tác giả đề xuất  Trong đó: 
- BN: Nature of Client’s Business (Đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của  kháchhàng) 
- AE: Audit Experience (Kinh nghiệm của kiểm toán viên) 
- C: Culture (Văn hóa doanh nghiệp/Văn hóa) 
- DR: Detection Risk (Rủi ro phát hiện) 
- IR: Inherrent Risk (Rủi ro tiềm tàng) 
- CR: Control Risk (Rủi ro kiểm soát)      lOMoAR cPSD| 60729183
- AR: Audit Risk (Rủi ro kiểm toán) 
Như vậy, nhìn vào Mô hình cho thấy: Rủi ro tiềm tàng chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố chính 
là đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng – NB; kinh nghiệm của kiểm 
toán viên – AE và Văn hóa – C. Trong khi đó, rủi ro tiềm tàng có mối quan hệ với ba loại 
rủi ro, gồm: rủi ro kiểm toán – AR; rủi ro phát hiện – DR và rủi ro kiểm soát – CR./.