













Preview text:
Em chào cô và mọi người đến với buổi thuyết trình ngày hôm nay. Em là ... lớp
LK29.06, hôm nay em rất vinh dự được đại diện nhóm trình bày về bài Seminar của
nhóm em. Chắc hẳn trong quá trình học tập và nghiên cứu, chúng ta đã không ít lần
gặp phải những tình huống pháp lý phức tạp, đòi hỏi sự am hiểu sâu sắc về Luật Dân
sự. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể giải quyết những tình huống đó một cách đúng
đắn và hiệu quả? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu trong buổi thuyết trình hôm nay.
Bài 1: Những nhận định sau là đúng hay sai? Tại sao? (nêu cơ sở pháp lý): 1.
Người chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình và có đền bù đối với
độngsản không đăng ký quyền sở hữu, thì được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó. 2.
Các chủ sở hữu chung có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản
thuộcsở hữu chung. Trả lời
1. Người chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình và có đền bù đối với động sản
không đăng ký quyền sở hữu, thì được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó.
=> Nhận định trên là SAI bởi vì:
* Phân tích từng yếu tố của nhận định
- Chiếm hữu bất hợp pháp
Theo Điều 179 BLDS 2015, một người được coi là chiếm hữu hợp pháp nếu có
căn cứ pháp luật để chiếm hữu tài sản (ví dụ: thông qua mua bán hợp pháp, tặng cho,
thừa kế, hợp đồng thuê...). Ngược lại, người chiếm hữu bất hợp pháp là người không
có căn cứ pháp luật để chiếm hữu tài sản (ví dụ: chiếm đoạt, trộm cắp, sử dụng tài sản
mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu...).
→ Nếu một người chiếm hữu tài sản bất hợp pháp, họ không thể xác lập quyền
sở hữu đối với tài sản đó.
- Chiếm hữu ngay tình
Theo Khoản 1 Điều 180 BLDS 2015, chiếm hữu ngay tình là khi người chiếm
hữu không biết và không thể biết rằng việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật.
Nếu một người chiếm hữu bất hợp pháp, họ có thể ngay tình hoặc không ngay
tình. Tuy nhiên, ngay cả khi ngay tình, họ vẫn không thể xác lập quyền sở hữu nếu
việc chiếm hữu là bất hợp pháp.
→ Chiếm hữu ngay tình không thể hợp thức hóa hành vi chiếm hữu bất hợp pháp. - Có đền bù
Đền bù không phải là một căn cứ để xác lập quyền sở hữu.
Người chiếm hữu có thể đền bù cho người giữ tài sản trước đó, nhưng điều đó
không có nghĩa là họ được quyền sở hữu tài sản nếu việc chiếm hữu ban đầu là bất hợp pháp.
→ Việc đền bù không làm thay đổi bản chất bất hợp pháp của việc chiếm hữu.
- Động sản không đăng ký quyền sở hữu
Một số loại động sản phải đăng ký quyền sở hữu (như ô tô, xe máy...), một số
khác thì không (như điện thoại, bàn ghế...).Tuy nhiên, việc tài sản có cần đăng ký
quyền sở hữu hay không không ảnh hưởng đến tính hợp pháp của việc chiếm hữu.
Nếu chiếm hữu là bất hợp pháp, dù tài sản có cần đăng ký hay không, người
chiếm hữu vẫn không thể trở thành chủ sở hữu.
→ Không có sự phân biệt giữa động sản có đăng ký và không đăng ký khi xét
tính hợp pháp của việc chiếm hữu.
* Cơ sở pháp lý
- Theo Điều 165. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản dựa trên các căn cứ sau đây:
Do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp mà có.
Được chuyển giao quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Thu hoa lợi, lợi tức từ tài sản hợp pháp của mình.
Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến.
Được thừa kế tài sản.
Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định dẫn đến việc xác lập quyền sở hữu.
Các trường hợp khác do luật quy định.
Một người chỉ có thể xác lập quyền sở hữu khi có căn cứ hợp pháp theo Điều
165 BLDS 2015. Nếu chiếm hữu tài sản bất hợp pháp, họ không thể trở thành chủ sở
hữu, dù có ngay tình hay đã đền bù.
- Theo Điều 166 BLDS 2015 - Quyền đòi lại tài sản
Chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu bất hợp pháp.
Nếu người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật, chủ sở hữu có thể kiện
ra tòa để yêu cầu trả lại tài sản.
→ Người chiếm hữu bất hợp pháp không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.
- Theo Điều 231 BLDS 2015 - Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
Khoản 1 Điều 231 BLDS 2015 quy định:
"Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản thì trở thành chủ
sở hữu tài sản đó..."
Tuy nhiên, điều kiện để được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu bao gồm:
Người chiếm hữu phải ngay tình, công khai, liên tục.
Không có ai tranh chấp tài sản trong thời hạn 10 năm.
Tài sản không thuộc diện bị chiếm đoạt hoặc bị đòi lại hợp pháp.
→ Nếu chủ sở hữu hợp pháp xuất hiện và đòi lại tài sản trong thời hạn này, người
chiếm hữu không thể xác lập quyền sở hữu. Nếu việc chiếm hữu ban đầu là bất hợp
pháp (như lấy trộm, lừa đảo...), thì người đó không bao giờ có thể trở thành chủ sở
hữu, ngay cả khi đã ngay tình hoặc có đền bù.
- Theo Điều 232 BLDS 2015 - Tài sản bị mất, bị chiếm đoạt
"Người chiếm hữu ngay tình không được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị
mất, bị đánh rơi, bị chiếm đoạt... nếu chủ sở hữu hợp pháp yêu cầu đòi lại trong thời hạn 3 năm."
→ Nếu tài sản đã từng bị chiếm đoạt hoặc bị mất trộm, dù người chiếm hữu sau
đó ngay tình, họ vẫn không thể trở thành chủ sở hữu nếu chủ sở hữu hợp pháp đòi lại trong 3 năm.
Kết luận: Người chiếm hữu bất hợp pháp (tức là chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật) thì không thể xác lập quyền sở hữu, dù có ngay tình hay đã đền bù. Quyền
sở hữu chỉ có thể được xác lập theo các điều kiện của pháp luật. Do đó, nhận định này sai.
2. Các chủ sở hữu chung có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung.
=> Nhận định trên là SAI
* Phân tích cụ thể
- Sở hữu chung có hai loại chính (Điều 209 & 210 BLDS 2015):
✅ (1) Sở hữu chung theo phần:
Mỗi chủ sở hữu có một phần quyền sở hữu nhất định đối với tài sản.
Quyền và nghĩa vụ phụ thuộc vào phần sở hữu của từng người. 🔹 Ví dụ:
A và B mua chung một chiếc ô tô. A góp 70% tiền, B góp 30% tiền. Khi đó, A có
nhiều quyền và nghĩa vụ hơn B đối với tài sản chung.
Khi bán ô tô, A nhận 70% tiền, B nhận 30%. Nếu có chi phí sửa chữa, A cũng
phải chịu 70%, B chịu 30%.
Rõ ràng, quyền và nghĩa vụ không ngang nhau.
✅ (2) Sở hữu chung hợp nhất:
Tài sản thuộc sở hữu chung mà không xác định phần sở hữu cụ thể của từng người.
Thông thường, quyền và nghĩa vụ ngang nhau, nhưng luật hoặc thỏa thuận có thể quy định khác. 🔹 Ví dụ:
Tài sản vợ chồng: Nếu vợ/chồng có thỏa thuận tài sản riêng, thì quyền và nghĩa vụ sẽ không ngang nhau.
Tài sản hộ gia đình: Một số thành viên có thể có nhiều quyền hơn do đóng góp
hoặc quy định pháp luật.
👉 Như vậy, không phải mọi trường hợp sở hữu chung đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau.
- Các trường hợp luật quy định khác
🚨 Ngoại lệ 1: Khi có thỏa thuận khác
Nếu các chủ sở hữu chung có thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ không ngang nhau,
thì luật vẫn công nhận.
Ví dụ: A và B cùng mua đất, nhưng B thỏa thuận chỉ có quyền sử dụng một phần
nhỏ, còn A có quyền sử dụng chính.
🚨 Ngoại lệ 2: Khi luật quy định khác
Ví dụ về doanh nghiệp: Trong một công ty cổ phần, các cổ đông đều là chủ sở
hữu chung, nhưng quyền lợi phụ thuộc vào số cổ phần sở hữu. Người nắm nhiều cổ
phần có quyền lớn hơn.
👉 Vì vậy, không thể nói các chủ sở hữu chung luôn có quyền và nghĩa vụ ngang nhau.
- Theo Điều 217 Bộ luật Dân sự năm 2015: Sở hữu tài sản chung 1.
Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng
hoalợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 2.
Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền ngang nhau trong việc khai
tháccông dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
-> Do đó, chưa xác định được chủ sở hữu chung là theo phần hay hợp nhất, nên
chưa có căn cứ xác định quyền có ngang nhau hay không.
Bài 2: Ông T một hôm đào đất trong vườn nhà mình phát hiện được chiếc hộp
đựng 20 lượng vàng chôn sâu dưới đất. Mặc dù đã cố gắng giữ bí mật nhưng thông
tin vẫn bị lộ ra ngoài. Công an phường X đã mời ông T đến để trình bày sự việc và
ông T đã thừa nhận việc mình đã tìm được 20 lượng vàng. Cho rằng hành vi giấu
giếm tài sản có giá trị lớn của ông T là trái pháp luật nên Công an phường kiến nghị
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tịch thu toàn bộ 20 lượng vàng sung công quĩ. Ông
T không đồng ý. Theo ông T thì ông có công phát hiện số vàng này nên ông phải được
hưởng một số tài sản theo qui định của pháp luật. Giải quyết vụ việc trên. Giải thích
và nêu rõ cơ sở pháp lý?. Trả lời
1. Xác định tính chất pháp lý của số vàng
Số vàng mà ông T tìm thấy trong vườn nhà mình có thể thuộc một trong các trường hợp sau:
• Tài sản bị chôn giấu: Là tài sản có chủ sở hữu nhưng bị chôn, giấu đi màkhông ai biết.
Số vàng được chôn giấu dưới lòng dất cho thấy đây là tài sản đã bị cất giấu từ
trước. Nếu số vàng có chủ sở hữu nhưng bị chôn giấu từ lâu, không ai xác nhận quyền
sở hữu, thì có thể được xem xét theo các quy định về tài sản bị chôn giấu.
• Tài sản vô chủ: Tài sản không có người sở hữu hoặc chủ sở hữu đã từ bỏ
quyềnsở hữu, theo khoản 1 Đ228 BLDS 2015. Người đã phát hiện, người đang quản
lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có
quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.
• Tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên: Nếu xác định được chủ sở hữu thìphải trả lại cho họ.
2. Phân tích vụ việc
- Điều 229 Bộ luật Dân sự 2015 - Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn
giấu, bị vùi lấp, nội dung cụ thể như sau:
• Người phát hiện vật bị chôn giấu, bị chìm đắm phải thông báo ngay cho
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền địa phương nơi gần nhất.
• Việc xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được thực
hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
• Trường hợp vật bị chôn giấu, bị chìm đắm thuộc loại di tích lịch sử - văn
hóa, bảo vật quốc gia thì việc xác lập quyền sở hữu được thực hiện theo
quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
=> Trong trường hợp này thì ông T có nghĩa vụ phải báo ngay cho cơ quan có
thẩm quyền (Công an hoặc chính quyền địa phương) để xác định chủ sở hữu hợp pháp.
Nếu không có người chứng minh quyền sở hữu số vàng thì tài sản sẽ thuộc Nhà nước
và ông T có công tìm ra tài sản nên có thể được xét thưởng theo quy định.
- Theo Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015 - Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản
dongười khác đánh rơi, bỏ quên
Nếu xác định được chủ sở hữu của số vàng, ông T phải trả lại cho người đó.
Nếu không xác định được sau một thời gian nhất định theo quy định pháp luật, ông T
có thể được hưởng một phần giá trị tài sản.
- Theo điểm b khoản 2 Đ229 BLDS 2015 và khoản 7 Đ30 Nghị định 29/2018/
NĐ – CP: “Tổ chức, cá nhân phát hiện và giao nộp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên mà
không phải là di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, cổ vật, không phải là tài sản
thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia có giá trị tài sản lớn hơn mười lần mức
lương cơ sở do Nhà nước quy định (tại thời điểm tìm thấy và giao nộp tài sản), sau
khi trừ chi phí bảo quản thì tổ chức, cá nhân phát hiện và giao nộp tài sản được hưởng
giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của Phần
vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Mục đích của quy định này là khuyến khích người dân thông báo, giao nộp tài
sản vô chủ, thay vì giữ lại riêng cho mình, thể hiện tinh thần tử tế, nhân văn sâu sắc:
Nhặt được của rơi, trả người đánh mất. Đồng thời, pháp luật bảo vệ quyền lợi của
người tìm thấy tài sản bằng việc cho phép họ hưởng một phần giá trị tài sản.
Việc ông T nói ông phát hiện ra số vàng 20 lượng và ông có quyền được hưởng
một phần theo qui định của pháp luật là đúng.
- Theo Điều 176 Bộ luật Dân sự 2015 - Quyền sở hữu đối với đất và tài sản trênđất
Khoản 1 quy định: “Chủ sở hữu quyền sử dụng đất có quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản trên đất của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
=> Ông T là chủ sở hữu mảnh đất nhưng không có quyền sở hữu đối với tài sản
chôn dưới đất nếu đó không phải do ông tạo ra hoặc thuộc quyền sở hữu của ông từ trước.
- Việc Công an phường X cho rằng ông T giấu giếm tài sản là trái pháp luật
làkhông chính xác, vì pháp luật không cấm người tìm thấy tài sản trước khi trình báo.
Hoặc cũng có thể ông T chưa kịp thông báo hoặc không biết rõ nghĩa vụ của mình.Tuy
nhiên, ông T có nghĩa vụ thông báo về số vàng này cho cơ quan có thẩm quyền.
- Theo Đ229 BLDS 2015, Công an phường X kiến nghị tịch thu toàn bộ 20 lượng
vàng mà không đề cập đến việc trao thưởng cho ông T là không phù hợp với điều luật
này. Số vàng thuộc về Nhà nước nhưng phải xem xét để thưởng cho ông T. 3. Kết luận -
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xác định nguồn gốc số vàng. -
Nếu là tài sản vô chủ, Nhà nước sẽ quản lý nhưng ông T có thể được
hưởngmột phần giá trị. -
Nếu có chủ sở hữu hợp pháp, số vàng phải được trả lại cho họ. -
Nếu có giá trị lịch sử, văn hóa, số vàng thuộc về Nhà nước và ông T chỉ
đượcthưởng theo quy định.
Vậy, ông T có quyền yêu cầu một khoản thù lao, nhưng không thể đòi sở hữu toàn bộ số vàng.
4. Hướng giải quyết
- Nếu xác định được chủ sở hữu hợp pháp của số vàng
+ Ông T có nghĩa vụ trả lại số vàng cho chủ sở hữu.
+ Có thể ông T được thưởng một khoản tiền công tìm thấy tài sản.
- Nếu không xác định được chủ sở hữu
+ Cơ quan nhà nước có thể công bố thông tin để tìm chủ sở hữu trong một
khoảng thời gian nhất định.
+ Nếu sau thời gian này vẫn không có ai nhận, số vàng có thể được xử lý theo
quy định của pháp luật về tài sản vô chủ. - Nếu số vàng có giá trị lịch sử, văn hóa
+ Số vàng sẽ thuộc về Nhà nước.
+ Ông T sẽ được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định.
- Nếu số vàng không có giá trị lịch sử, văn hóa và không tìm được chủ sở hữu
+ Ông T có thể được hưởng một phần giá trị số vàng theo quy định của pháp luật.
+ Phần còn lại có thể được sung vào ngân sách Nhà nước.ó thể khiếu nại lên
cấp cao hơn hoặc khởi kiện hành chính. 5. Cơ sở pháp lý
- Điều 229. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm
đắm được tìm thấy 1.
Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông
báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông
báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật. 2.
Tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có
hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo
quản, quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định
của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng
một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật;
b) Tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa
theo quy định của Luật di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần
mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu tài
sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì
người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.
- Điều 230. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên 1.
Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được
địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho
người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo
hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để
thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho
người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu. 2.
Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác
đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến
nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười
lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền
sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp
luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá
trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần
vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn
hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người
nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
- Khoản 1 Điều 176 Bộ luật Dân sự 2015qui định quyền sở hữu đối với đất vàtài
sản trên đất: “Chủ sở hữu quyền sử dụng đất có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản trên đất của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
- Điểm a, khoản 7 Đ30 Nghị định 29/2018/ NĐ – CP: “Tổ chức, cá nhân phát
hiện và giao nộp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên mà không phải là di tích lịch sử - văn
hóa, bảo vật quốc gia, cổ vật, không phải là tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh
quốc gia có giá trị tài sản lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định
(tại thời điểm tìm thấy và giao nộp tài sản), sau khi trừ chi phí bảo quản thì tổ chức,
cá nhân phát hiện và giao nộp tài sản được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của Phần vượt quá mười lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định.”
- Các văn bản pháp luật liên quan đến tài sản NN
Trên đây là bài thuyết trình của nhóm em. Hy vọng rằng, những kiến thức và thông
tin mà nhóm em chia sẻ sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về các tình huống phải gặp , cơ
sở pháp lí và áp dụng vào thực tiễn. Chúng em tin rằng, việc nắm vững Luật Dân sự
không chỉ là trách nhiệm của mỗi công dân mà còn là chìa khóa để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bản thân. Xin cảm ơn tất cả các bạn đã lắng nghe.