



















Preview text:
lOMoARcPSD| 60380256 lOMoARcPSD| 60380256 Lời cảm ơn
Để hoàn thành chuyên đề báo cáo thảo luận sinh học này, em xin gửi đến
các quý thầy cô giáo trường Đại học Phân hiệu Lâm nghiệp Đồng Nai lời càm ơn chân thành nhất!
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn – Cô Trần
Thị Thủy Hoa đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức bổ ích cho em trong suốt
thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian được học tậl môn học Sinh học động
vật của cô, em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức, tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc.
Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực
tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài báo
cáo thảo luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn chưa
chính xác, kính mong cô xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC A. Lời mở đầu.
1. Khái quát về lớp sâu bọ......................................................4 2. Đối tượng
nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.................4 B. Nội dung.
1. Sâu ban miêu – Hycleus pustulatus (bộ Coleoptera)..........5
2. Rệp son – Dactylopius coccus (bộ Hemiptera)....................8
3. Con chấy – Pediculus humanus capitis(bộ Phthiraptera).........................11
4. Chuồn chuồn – Lestes sponsa( bộ Odonata)......................................17 C. Kết luận – So sánh lOMoARcPSD| 60380256 A.Lời mở đầu
1. Khái quát về lớp sâu bọ
Côn trùng hay còn gọi là sâu bọ, là một lớp sinh vật thuộc về ngành động
vật không xương sống. Số loài còn sinh tồn được cho là từ 6 – 10 triệu loài, và
đại diện cho 90% dạng sống của các loài động vật khác nhau trên Trái Đất. Côn
trùng có thể sống được ở hầu hết các môi trường sống.
Một số đặc điểm chung:
• Vỏ cơ thể bằng kitin
• Thần kinh phát triển cao, hình thành não là cơ sở của các tập tính và hoạt động bản năng.
• Sâu bọ có đủ 5 giác quan : xúc giác, khứu giác, vị giác, thính giác và thị giác.
• Cơ thể sâu bọ có ba phần : đầu, ngực, bụng.
• Phần đầu có 1 đôi râu, phần ngực có 3 đôi chân và 2 đôi cánh.
• Sâu bọ hô hấp bằng hệ thống ống khí.
• Sâu bọ có nhiều hình thức phát triển biến thái khác nhau.
• Sâu bọ có tuần hoàn hở, tim hình ống, nhiều ngăn nằm ở mặt lưng.
2. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
• Bộ Coleoptera: Sâu ban miêu • Bộ Hemiptera: Rệp son
• Bộ Phthiraptera: Con chấy
• Bộ Odonata: Chuồn chuồn
2.2.Khách thể nghiên cứu
Sinh viên nhóm 8 trình bày thảo luận tuần 18. Nhóm gồm:
o Tiêu Ngọc Như Quỳnh: trình bày Sâu ban miêu và Rệp son.
o Nguyễn Tuấn Hưng: trình bày Con chấy và Chuồn chuồn. lOMoARcPSD| 60380256 B. Nội dung
1. Sâu ban miêu
1.1. Vị trí phân loại Loài: H. Pustulatus Chi: Hycleus Họ: Meloidae Bộ: Coleoptera Lớp: Insecta Ngành: Arthropoda
1.2. Đặc điểm cấu tạo
1.2.1. Hình thái
Ban miêu là loại bọ cánh cứng, màu đen, thân hình nhỏ, chiều dài cơ thể
khoảng 1.5 – 3.0 cm, chiều ngang cơ thể khoảng 0.4 – 0.6 cm.
Đầu và ngực có các vết lõm sâu và dày vừa phải. Đôi mắt nhô ra khỏi đầu.
Xúc giác ở hàm trên bao gồm đoạn đỉnh hình tam giác bị đè mạnh.
Ngực có một vùng ở giữa có vết lõm dọc theo đường vân ở giữa. Cánh có
độ nhám và sâu vừa phải với các vết lõm sâu. Lông tơ trên cánh khá ngắn, rất dày
đặc ở vùng đen nhưng thưa thớt ở các đốm và vạch màu đỏ. Gốc cánh có hai đốm đỏ.
Bụng có các dấu lấm chấm thô vừa phải, mờ đục.
Chân ban miêu gầy, nhỏ, có cạnh sắc nhọn dùng để tự vệ, chân con đực có
xu hướng nhỏ hơn chân con cái. Con đực có rìa cánh khía (emarginate) có thể
nhìn thấy được, trong khi con cái có rìa cánh tròn hoàn toàn hoặc có khía ít, khó nhìn thấy. [1]
Ban miêu mùi hăng, khó ngửi, gây khó chịu. Tuy nhiên, phần da chạm phải
Sâu ban miêu có thể bị phồng rộp. [2] lOMoARcPSD| 60380256 2.
Ống đưa thức ăn vào miệng 3. Râu 4. Hoa văn trên thân 5.
Mesosternum and Mesepisterna (xương ức – dịch chưasát nghĩa) 6. Bộ phận sinh dục đực 7.
Tegmen (phần cánh trước dùng để che phủ cánh sau) góc nhìn từ bụng. 8. Tegmen góc nhìn cạnh bên 9. Dạ dày. [3]
1.2.2. Hoá học
Trong Sâu ban miêu chứa chủ yếu là Cantharidin* (là chất độc có thể gây
phồng rộp da), chất béo và nhựa.
*Cantharidin là thành phần hóa học không có trong hệ thống tiêu hóa và
các bộ phận cứng của sâu. Cantharidin chủ yếu xuất hiện trong máu và bộ phận sinh dục.
Ngoài ra, sâu cũng chứa một số thành phần hóa học khác như Photphat,
Axit Uric, dầu béo màu xanh lục không chứa độc. [4] lOMoARcPSD| 60380256
1.3. Đặc điểm vòng đời
Vòng đời của Sâu ban miêu gồm các giai đoạn trứng, ấu trùng và trưởng thành.
Chúng trải qua mùa đông với giai đoạn ấu trùng (sống ẩn trong đất), sau
đó hoá nhộng vào mùa xuân: Ấu trùng nở ra từ trứng và không hoạt động suốt
mùa đông. Vào mùa xuân, có các dạng tìm thức ăn, chúng sẽ bám vào ong và ăn
trứng, thức ăn dự trữ trong tổ ong. Ấu trùng nở sau 10-21 ngày. Ấu trùng sẽ lột
xác nhiều lần trước khi hoá nhộng vào mùa xuân. Khi giai đoạn nhộng hoàn tất,
con trưởng thành mới xuất hiện rơi xuống đất và bắt đầu ăn cây trồng .
Giai đoạn trưởng thành vào mùa hè, đỉnh điểm nhất là giữa mùa hè.
Sâu ban miêu trưởng thành sẽ tập trung thành đàn trên lá cây, giao phối
với con cái và đẻ trứng thành cụm 30-50 trứng trong đất.
Mỗi một chu kỳ sẽ tốn một năm. [5]
1.4.. Đặc điểm sinh thái
Việt Nam, Sâu ban miêu sống hoang ở nhiều vùng, đồi núi, đồng bằng. Sâu
thường được tìm thấy trên thân cây đậu.
Ngoài ra, Ban miêu còn được tìm thấy ở Trung Quốc, Pháp, Ý, Anh. Ở Trung
Quốc và một số nước khác, Ban miêu thường được tìm thấy trên cây táo, cây liễu. [6] lOMoARcPSD| 60380256
1.5. Đặc điểm gây hại
1.5.1. Cho vật nuôi
Sâu ban miêu ăn cỏ dại, và đôi khi di chuyển vào các cánh đồng trồng trọt
được sử dụng để sản xuất thức ăn chăn nuôi (ví dụ: cỏ linh lăng), tìm đường vào
cỏ khô đóng kiện, ví dụ: một vảy đơn (phần 4–5 inch, có thể có vài trăm con côn
trùng) Ngựa rất nhạy cảm với chất cantharidin do bọ cánh cứng tiết ra; LD50 đối
với ngựa là khoảng 1 mg/kg trọng lượng cơ thể của ngựa . Ngựa có thể vô tình bị
ngộ độc khi ăn những kiện thức ăn có bọ cánh cứng trong đó.*[7]
*Kiện cỏ được chuyển từ bang khác sẽ có nhiều sâu ban miêu hơn.
1.5.2. Cho môi trường và con người
Được tìm thấy tập trung ghành từng cụm ở các cây họ đậu như: đậu đen,
đậu xanh, đậu triều, đậu đỏ,... Là loài sâu làm hỏng hoa bằng việc ăn cánh hoa
khiến bầu nhụy, đầu nhụy bị hư hại không phát triển được.
Độc tố của sâu ban miêu là cantharidin, rất độc, gây hủy hoại các tổ chức,
cơ quan trong cơ thể. Bệnh nhân ngộ độc sâu ban miêu thường bị tổn thương đa
cơ quan, tụt huyết áp, suy hô hấp… và tỉ lệ tử vong lên đến hơn 50%. Nguồn tham khảo: [1]
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2u_ban_mi %C3%AAu [2]
https://bvnguyentriphuong.com.vn/duoc-lieu/sau-banmieu [3]
https://zookeys.pensoft.net/article/4321/ [4]
https://bvnguyentriphuong.com.vn/duoc-lieu/sau-banmieu [5]
https://www.pubs.ext.vt.edu/content/dam/pubs_ext_vt_e
du /ENTO/ento-526/ENTO-526.pdf [6]
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2u_ban_mi %C3%AAu [7]
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cantharidin 2. Rệp son
2.1. Vị trí phân loại Loài: D. Coccus lOMoARcPSD| 60380256 Chi: Dactylopius Họ: Dactylopiidae Bộ: Hemiptera Lớp: Insecta Ngành: Arthropoda
2.2. Đặc điểm cấu tạo
2.2.1. Hình thái
Hình vẽ rệp son cái (trái) và đực (phải).
Là một côn trùng rất nhỏ, dài vào khoảng 0,6 – 0,7 mm, rộng 0,3 đến 0,3 –
0,355 mm hình trông giống thuyền nhỏ, trên đầu có 2 râu, miệng có vòi nhỏ để
hút nhựa. Thân có ngực gồm 3 đốt, 3 đôi chân, 2 đôi lỗ thở, bụng dài, ở phía cuối có 2 lông cứng dài.
Rệp son có con cái con đực, nhưng từ khi nhỏ đến lớn có nhiều dạng khác
nhau, trong con đực lại có con có cánh có thể bay từ cành này sang cành khác
trên một khoảng cách không xa và có con đực không có cánh, chỉ bò quanh, không thể bay.
Bình thường con đực chiếm 30 – 40%, con cái chiếm 60 – 70%. Con cái sản
xuất ra nhựa cánh kiến, con đực cũng cho nhựa nhưng tổ nhỏ và mỏng. Tổ nhựa
của con đực hơi hình thoi, còn tổ nhựa của con cái hình tròn.
Khi mới ở tổ mẹ chui ra, con rệp son cánh kiến tìm đến những cành non
thích hợp của cây chủ rồi định cư thành những tập đoàn bao bọc cả hay một phần
chung quanh cành, chiều dài của tập đoàn (tổ nhựa) dài 2 đến 50cm có khi dài trên 1m.
Khi rệp mới nở ra trông không rõ đực cái, cũng không thấy râu, chân và
đuôi, chỉ là một hình bầu dục, đầu có vòi nhỏ cắm vào vỏ cây, hai bên lưng và đuôi
có 3 chùm lông tơ trắng. [1] lOMoARcPSD| 60380256
2.2.2. Đặc điểm vòng đời
Cụ thể, con cái có ba giai đoạn phát triển và con đực có năm giai đoạn phát
triển. Quá trình sinh sản của chúng diễn ra liên tục quanh năm, tối đa là sáu thế
hệ. Trứng nở rất sớm sau khi đẻ, thậm chí chỉ trong vài phút, và thậm chí có thể
thỉnh thoảng nở khi chúng vẫn còn ở trong cơ thể con cái. [2] - Con cái:
+ Vào những ngày ấm áp, rệp son cái di chuyển lên trên và tập trung ở những
điểm cao nhất của cây xương rồng hoặc thảm thực vật xung quanh. Từ đó chúng
bị gió thổi bay và cuốn lên cao vài mét. Hình thức phát tán này dựa vào ngẫu nhiên
chỉ dẫn đến một số ít sâu bọ đáp xuống cây chủ khác. Những con bọ không thành
công lại leo lên trên và có thể lặp lại quá trình phân tán nhiều lần trong vài ngày
trước khi chúng chết vì đói.
+ Sâu bọ đậu trên hoặc gần cây ký chủ và nhét phần miệng hút của chúng vào,
bắt đầu kiếm ăn, thường ở những nơi râm mát hoặc gần gốc cột sống. Sau khi đã
ổn định, con cái không bao giờ di chuyển nữa và kiếm ăn ở cùng một chỗ trong
suốt quãng đời còn lại của mình. Nếu bị lấy ra khỏi cây, nhộng hoặc con cái sẽ
không thể đưa phần miệng dài của nó vào cây nữa và sẽ chết vì đói.
+ Các con nhộng cái bây giờ bắt đầu tiết ra các sợi sáp đặc trưng để che phủ
và bảo vệ cơ thể chúng. Khi lớn lên, côn trùng lột xác (lột da) hai lần, nhưng chân
của chúng vẫn nhỏ và không có chức năng. Sau lần lột xác thứ hai, con cái đã
trưởng thành và sẵn sàng giao phối. Chúng bắt đầu đẻ trứng khoảng ba tuần sau
đó và tiếp tục như vậy trong khoảng 50 ngày. - Con đực:
+ Không thích nghi tốt với việc phát tán nhờ gió vì côn trùng đực phân tán chủ
yếu ở giai đoạn trưởng thành. lOMoARcPSD| 60380256
+ Con đực có ít lông hơn và ngắn hơn con cái, nhưng cũng có thể phát tán nhờ
gió. Hầu hết vẫn ở bên dưới lớp sáp bảo vệ của mẹ hoặc định cư thành nhóm gần mẹ.
+ Ngay sau khi bắt đầu kiếm ăn, chúng tiết ra một lớp sáp. Ở lần lột xác đầu
tiên, lớp sáp bao phủ sẽ bong ra cùng với lớp da cũ và sâu bọ có rất ít sáp bảo vệ.
Chúng dành thêm vài ngày để kiếm ăn và bò quanh cây trước khi tiết ra nhiều sáp
hơn để tạo thành một cái kén “nhộng” có đầu mở, rỗng. Bên trong kén, con đực
trải qua ba lần lột xác nữa, bao gồm cả “nhộng” và cuối cùng trở thành con trưởng
thành có cánh, chúng rời kén và bay đi tìm con cái để giao phối. Con đực sống
được khoảng ba ngày và không kiếm ăn. [3] 2.2.3. Đặc điểm sinh thái
Có nguồn gốc từ Trung Mỹ với một số quần thể có nguồn gốc từ Nam Mỹ
và những quần thể khác từ Bắc Mỹ, bao gồm Mexico và Tây Nam Hoa Kỳ.
Các nghiên cho thấy rệp son sinh ra ở Nam Mỹ và được du nhập vào Mexico
thông qua các sản phẩm nông nghiệp trong thời kỳ tiền Colombia.
Ngày nay loài này được phổ biến ở hầu hết thế giới. Môi trường sống của
chúng là môi trường khô ráo, bao gồm rừng, đồng cỏ, đồng ruộng, khu vực bị xáo
trộn, cỏ dại và vườn nơi chúng chia sẻ cây xương rồng với nhiều loại kiến, nhện và côn trùng khác. [4]
2.2.4. Đặc điểm gây hại
Sắc đỏ yên chi là do chất axit carminic trong con bọ này. Người ta dùng xác
rệp son cái khô hoặc trứng của nó để làm phẩm đỏ. Phẩm này được dùng trong
mỹ phẩm, thực phẩm, vải, sơn... Do thế, các bảng dữ liệu an toàn đều nêu rõ rằng
axit carminic không phải là một chất hoặc hỗn hợp độc hại.
Tuy nhiên vẫn có thể gây một số kích ứng cho vật nuôi hoặc con người gồm:
• Độc tính cấp, qua đường miệng, có hại khi nuốt phải.
• Tổn thương mắt nghiêm trọng / kích ứng mắt. Kích ứng đường hô hấp. [5] Nguồn tham khảo: [1]
https://antropocene.it/en/2023/01/10/dactylopiuscoccus-2/ [2]
https://antropocene.it/en/2023/01/10/dactylopiuscoccus-2/ [3]
Cochineal insects (Dactylopius species) – Agricultural
Research Council https://www.arc.agric.za/arcppri/Fact%20Sheets
%20Library/Cochineal%20insects%20Dactylopius%20spp.pdf lOMoARcPSD| 60380256 [4]
https://antropocene.it/en/2023/01/10/dactylopiuscoccus-2/ [5]
https://hhlcs.com/phan-tu-cua-tuan/acid-carminic 3. Con chấy
3.1. Vị trí phân loại Lớp(Class): Insecta Bộ(Ordo): Phthiraptera Họ(Fimilia):Pediculidae Chi(Genus):Pediculus
Loài(Species): P. Humanus [1]
3.2)Đặc điểm cấu tạo
Chấy không có cánh, mắt thường có thể nhìn thấy được. Miệng có sáu đôi
móc để bám vào da và một mũi nhọn để chích và hút máu ở trên đầu người, gây
tử vong do mất máu ở người. Chấy trưởng thành có sáu chân và kích thước bằng
hạt vừng. Màu sắc của chấy thay đổi từ màu be đến màu xám và có thể tối hơn
đáng kể khi chúng vừa hút máu. Nhìn chung, chấy thường giống màu tóc chúng
đang ký sinh, nên rất khó phát hiện chúng bằng mắt thường.Chấy rận có màu
trắng bẩn hoặc xám. Con cái dài 2,5 - 3 mm; con đực 1 - 2 mm.Đầu chấy rận hơi
tròn, cổ chấy rận có khả năng cử động, râu ngắn gồm 5 đốt, vòi kiểu châm
hút.Ngực có 3 đôi chân, có móng nhọn để bám chắc vào lông tóc, quần áo vật
chủ. Trên ngực có 2 lỗ thở.Bụng có 9 đốt, từ đốt 1- 6, mỗi đốt có 2 lỗ thở, những
đốt cuối có bộ phận sinh dục.Thân chấy rận dẹt theo chiều lưng bụng [2]
3.3. Đặc điểm sinh thái
3.3.1. Sinh thái
Chấy đẻ khoảng 200-300 trứng sau khi giao phối. Trứng chấy có hình bầu
dục và màu hơi vàng và thường nằm ở gần chân tóc. Trứng nở và trưởng thành
trong khoảng 7 đến 12 ngày. Trung bình chấy sống khoảng 30 ngày, có thể sống lOMoARcPSD| 60380256
sót suốt 48 tiếng dù không được hút máu. Chấy có thể lây lan từ người nọ sang
người kia hoặc qua việc dùng chung vật dụng như quần áo, lược chải tóc. [3]
3.3.2. Môi trường sống
Chấy rận thường được chia thành 3 loại bao gồm: Chấy thường
sống ký sinh ở trên da đầu của con người.
Rận thường sống ở trên quần áo, trên giường và sẽ di chuyển lên da của bạn để hút
máu. Loài vật này thường thấy ở những người không thể tắm hoặc giặc đồ thường xuyên
Rận mu thường thấy chủ yếu ở trên da và lông ở vùng mu. Ngoài ra rận mu cũng có thể
được tìm thấy trên lông ngực, lông mày hoặc lông mi. [4]
3.3.3. Dinh dưỡng
Chấy rận sẽ hút máu người để sinh sống và phát triển.
3.4. Đặc điểm vòng đời
Chấy, rận trải qua vòng đời gồm ba giai đoạn: giai đoạn trứng, giai đoạn
thiếu trùng hoặc ấu trùng và giai đoạn trưởng thành. Trứng chấy, rận thường có
màu trắng, bám dính chặt vào lông và tóc,… trung bình trứng cần khoảng 14
ngày để phát triển thành thiếu trùng hoặc ấu trùng. Kích thước của thiếu trùng
nhỏ hơn so với con trưởng thành, cấu tạo cơ thể tương tự. Con trưởng thành to
hơn và ký sinh bằng cách hút máu người. Khi ra khỏi cơ thể vật chủ nếu không
tiếp tục hút máu, chúng thường bị tiêu diệt nhanh trong điều kiện ngoại cảnh. [5] lOMoARcPSD| 60380256 3.5. Tác hại
Chấy, rận có thể gây ngứa ngáy, khó chịu, đồng thời, có thể truyền bệnh
sốt phát ban, sốt hồi quy, sốt chiến hào. Những vụ dịch sốt phát ban do rận đôi
khi cướp đi mạng sống hàng nghìn người. [6]
3.6. Các triệu chứng
Những dấu hiệu và triệu chứng phổ biến của bệnh chấy rận , bao gồm:
Ngứa, đây là triệu chứng phổ biến nhất mà người nhiễm chấy hay gặp phải. Người
bị nhiễm thường than ngứa ở da đầu, cổ và tai. Điều này xảy ra do phản ứng cơ
thể với vết cắn của chấy.Nhìn thấy chấy trên da đầu, tóc hoặc quần áo người bệnh.
Ta có thể nhìn thấy chấy bằng mắt thường nhưng khó phát hiện vì chúng nhỏ, di
chuyển nhanh, và tránh ánh sáng.Có cảm giác côn trùng di chuyển trên tóc và da
đầu.Nhìn thấy trứng chấy tại lông hay trục tóc người bệnh. Trứng rỗng có thể dễ
dàng phát hiện hơn, vì chúng có màu nhạt và xa da đầu.Vết loét trên da đầu, cổ
hoặc vai. Các vết loét này do người bệnh thường xuyên gãi để giảm bớt cảm giác
ngứa. Đôi khi, chúng tạo ra ổ nhiễm khuẩn trên da đầu. [7] lOMoARcPSD| 60380256
3.7.Các lí do nhiễm chấy rận
Các nghiên cứu cho thấy, bệnh chấy rận ở da đầu thường lây lan qua tiếp
xúc. Người bị bệnh chấy rận do tiếp xúc với quần áo có chấy rận hoặc trứng chấy
rận. Các đường lây truyền chính của bệnh chấy rận như:
3.7.1. Lây truyền trực tiếp
Tiếp xúc trực tiếp giữa người với người. Đây là hình thức lây truyền phổ
biến nhất. Trường hợp này hay gặp ở trẻ em do chơi đùa gần gũi với nhau ở
trường hoặc người trong cùng một gia đình.
3.7.2. Lây truyền gián tiếp
-Dùng chung vật dụng cá nhân như quần áo, băng đô, lược, khăn mặt với người bị chấy rận.
-Do tiếp xúc với chấy rận tại các nơi như giường chiếu, tủ quần áo. -Vật nuôi
trong nhà thì không có vai trò trong việc truyền chấy. [8]
3.8. Các người nguy cơ bị bệnh
Nhiễm chấy rận có thể gặp ở các mọi đối tượng và mọi lứa tuổi. Tuy nhiên
các đối tượng có nguy cơ cao mắc chấy rận như:
-Học sinh mầm non và tiểu học. Các em có xu hướng tiếp xúc và chơi gần nhau, có nguy cơ cao nhất.
-Các thành viên trong gia đình của trẻ em trong độ tuổi đến trường.
-Những người làm việc trong trung tâm chăm sóc ban ngày, trường mầm non hoặc tiểu học. [9] lOMoARcPSD| 60380256 . Cách ph 3.9 òng ngừa
Ngăn chặn sự lây lan của chấy rận ở trẻ em tại các cơ sở chăm sóc trẻ em
và trường học là một điều cần thiết. Để có thể giúp ngăn chặn sự lây nhiễm chấy
rận, bạn có thể hướng dẫn con bạn: -Treo quần á
o trên một cái móc riêng. -Tránh dùng
chung các đồ dùng cá nhân như: lược, bàn chải, mũ và khăn quàng
cổ, băng đô, tai nghe, cột tóc.
- Không nằm trên giường, nệm hoặc gối, mền đã tiếp xúc với người bị nhiễm chấy. -Giữ
gìn vệ sinh cá nhân thường xuyên. Nguồn tham khảo:
[1]: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5y
[2]: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5y
[3]: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5y
[4]: https://nhathuoclongchau.com.vn/bai-viet/con-chay-sinh-ra-tu-
daunguyen-nhan-va-cach-phong-ngua-46802.html lOMoARcPSD| 60380256
[5]: https://medlatec.vn/tu-dien-benh-ly/benh-chay-ran-sijpi#:~:text=Ch
%E1%BA%A5y%2C%20r%E1%BA%ADn%20tr%E1%BA%A3i%20qua%20v
%C3%B2ng,thi%E1%BA%BFu%20tr%C3%B9ng%20ho%E1%BA%B7c %20 %E1%BA%A5u%20tr%C3%B9ng.
[6]: https://www.impehcm.org.vn/noi-dung/ngoai-ky-sinh/chay-rannhung-
dieu-can-biet-va-cach-phong-chong.html#:~:text=Ch%E1%BA%A5y
%2C%20r%E1%BA%ADn%20c%C3%B3%20th%E1%BB%83%20g
%C3%A2y,m%E1%BA%A1ng%20s%E1%BB%91ng%20h%C3%A0ng%20ngh
%C3%ACn%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di.&text=C%C3%A1c%20bi
%E1%BB%87n%20ph%C3%A1p%20ph%C3%B2ng%20ch%E1%BB%91ng,nh
%C3%A2n%2C%20g%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th %C6 %B0%E1%BB%9Dng%20xuy%C3%AAn.
[7]: https://youmed.vn/tin-tuc/chay-ran-va-nhung-nguy-co-tiem-an/
[8]: https://youmed.vn/tin-tuc/chay-ran-va-nhung-nguy-co-tiem-an/
[9]: https://youmed.vn/tin-tuc/chay-ran-va-nhung-nguy-co-tiem-an/
[10]: https://youmed.vn/tin-tuc/chay-ran-va-nhung-nguy-co-tiem-an/ 4. Chuồn chuồn
4.1 Vị trí phân loại Lớp(class): insecta Bộ(ordo) :Odonata Họ(Familia):Lestidae Chi(genus): Lestes Loài(species): L. Sponsa[1]
4.2 Đặc điểm cấu tạo
4.2.1. Cấu tạo của chuồn chuồn
Phần trán có chứa đôi mắt, phía dưới trán là clypeus (một phần tạo nên
khuôn mặt của động vật chân khớp). Các cơ quan bắt mồi labrum được đặt ở
môi trên, và trên đỉnh đầu có 3 con mắt được gọi là Ocelli (giúp đỡ chúng đo
cường độ ánh sáng). Chúng cũng có một cặp râu nhỏ để đo tốc tộc không khí.
Chuồn chuồn kim có sải cánh dao động từ 18-19mm, con đực thường có
màu sáng hơn con cái. Con cái có màu sắc huyền bí và khó nhận ra hơn, chẳng
hạn chuồn chuồn kim Eurasian Bluets, trong khi những con đực có màu xanh lOMoARcPSD| 60380256
dương sáng với những mảng màu đen thì con cái có màu xanh lá câu hoặc màu
nâu cùng với cái dải màu đen.[2]
4.3. Đặc điểm sinh thái
4.3.1 Môi trường sống
Chuồn Chuồn là một nhóm côn trùng phổ biến trên khắp thế giới, chúng
có thể sống ở rất nhiều môi trường khác nhau như: Đồng cỏ, rừng rậm, đầm lầy,
sông suối, đến các khu vườn, công viên và khu đô thị. Riêng về chuồn chuồn kim
thì loài côn trùng này thường tập trung gần ao, hồ và các con suối, nơi có nguồn
nước cho chúng đẻ trứng. Hầu hết chuồn chuồn kim đều đẻ trứng trong môi
trường nước ngọt, trong khi một số ít loài thuộc họ Caenagrionidae lại thích đẻ
trứng trong nước lợ.[3]
Hình ảnh chuồn chuồn Lestes sponsa
4.3.2 Dinh dưỡng
Chuồn chuồn kim là những kẻ ăn thịt, chúng ăn muỗi, ruồi và côn trùng
nhỏ khác. Chúng thường lơ lửng giữa thảm thực vật và cỏ thấp để tìm kiếm con
mồi, sau đó sử dụng đôi chân gai của mình để tóm lấy con mồi . lOMoARcPSD| 60380256
Chuồn chuồn kim chủ yếu sử dụng tầm nhìn để tìm kiếm con mồi, nhưng
một số loài có thể sử dụng tín hiệu khứu giác. Nói chung, loài sinh vật này không
kiếm ăn vào ban đêm, nhưng một số loài có thể ăn những con ruồi mới nở ra từ trứng dưới nước.
Chuồn Chuồn có đôi cánh mạnh mẽ để săn mồi trên không, không chỉ với
tốc độ bay cực nhanh, mà còn với khả năng tăng tốc, thay đổi hướng bay, đứng
yên trên không trung hoặc thậm chí bay ngược trở lại vô cùng điêu luyện và hiệu
quả. Đây là kỹ thuật săn mồi khó nhất và để bắt được con mồi đang bay, Chuồn
Chuồn phải canh chừng kĩ, quan sát tốc độ và hướng di chuyển của con mồi,
cũng như xem xét những yếu tố tác động từ môi trường như gió sau đó dùng chân chộp lấy con mồi.
Trong khi bay, Chuồn Chuồn còn có thể dùng chân để giữ con mồi và ăn ngay trong khi đang bay.[4]
4.3.3 Về sinh sản
Quá trình giao phối của chuồn chuồn kim diễn ra phức tạp, bao gồm quá
trình thụ tinh chậm và thụ tinh gián tiếp. Chúng cũng thực hiện các nghi thức
tán tỉnh, trong đó con đực cố gắng thu hút con cái bằng cách phơi cánh, bay
nhanh hoặc một số hành động khác. Nếu con cái sẵn sàng thì nó sẽ ở lại với con
đực, còn không thì nó sẽ bay đi.
Khi con đực đã sẵn sàng giao phối, tinh trùng được chuyển từ bộ phận
sinh dục (đoạn thứ 9 của cơ thể) tới bộ phận sinh dục phụ (đoạn thứ 3). Khi bắt
đầu quá trình, con đực giữ con cái , trong khi con cái xoắn bụng nó về phía trước
và hướng xuống để thu tinh trùng từ bộ phận sinh dục phụ của con đực. lOMoARcPSD| 60380256
Khi đã sẵn sàng để trứng, con cái di quanh mặt nước để tìm nơi thích hợp
để nó đẻ trứng. Chúng cũng đẻ trứng trong các mô của cây. Đối với đẻ trứng
trong nước, con cái sẽ ngâm mình xuống nước trong ít nhất 30 phút để đẻ
trứng, sau đó leo lên thân cây thủy sinh để làm khô cơ thể. Trong thời gian này,
con đực bảo vệ con cái và trứng từ các con đực khác.[5]
4.4 Đặc điểm vòng đời Gồm hai giai đoạn: +Giai đoạn 1
Sau khi trứng nở ra, giai đoạn đầu của Chuồn Chuồn được coi là ấu trùng.
Trong giai đoạn này, chúng dành phần lớn thời gian sống trong nước và thường
kéo dài từ 1 đến 4 năm. Trong thời gian này, Chuồn Chuồn ăn những loại thức
ăn khác nhau như ruồi, muỗi, cá nhỏ, nòng nọc… và hoạt động như một kẻ săn
mồi ăn thịt. Sau khi đạt đủ dinh dưỡng và trải qua nhiều lần lột xác, Chuồn
Chuồn sẽ chuyển sang giai đoạn 2. +Giai đoạn 2
Sau khi ấu trùng Chuồn Chuồn hoàn tất giai đoạn lột xác, Chuồn Chuồn
trưởng thành mới chui ra phải chờ vài giờ để cánh của chúng khô và trở nên đủ
mạnh để bay. Đây là giai đoạn rất quan trọng trong vòng đời của Chuồn Chuồn,
vì khi này chúng rất yếu và dễ bị săn mồi bởi những kẻ săn mồi khác, bao gồm cả
ấu trùng Chuồn Chuồn. Thậm chí, ấu trùng Chuồn Chuồn có thể tấn công và ăn
thịt Chuồn Chuồn vừa lột xác. Ngoài ra, chúng cũng có thể bị gió mạnh hoặc va đập gây tử vong. lOMoARcPSD| 60380256
Tuy nhiên, sau thời gian ngắn, cơ thể của Chuồn Chuồn trưởng thành sẽ
trở nên cứng cáp và bắt đầu cất cánh bay. Khi đó, chúng sẽ trở thành một tay
săn mồi đáng sợ, nhưng vẫn có thể bị săn bởi những con vật lớn và mạnh hơn.
Chuồn Chuồn trưởng thành chỉ sống đủ lâu để trưởng thành và sinh sản. Và tùy
thuộc vào chất lượng của thời tiết mà chúng sẽ sống được lâu hơn hay ngắn đi.
Với điều kiện thời tiết khô và ấm, chúng có thể sống lâu nhất 6 tháng, trong khi
trong thời tiết lạnh, chúng sẽ không sống lâu hơn vài tuần [5]
4.5 Chuồn chuồn có lợi hay có hại
Dưới góc nhìn tích cực, Chuồn Chuồn có thể được coi là một trong những
sinh vật hữu ích trong việc kiểm soát sự phát triển quá mức của quần thể muỗi
và ruồi. Những loài này được coi là những kẻ săn mồi tài ba, với khả năng di