Sơ lược về triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

Sơ lược về triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
9 trang 1 năm trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Sơ lược về triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

Sơ lược về triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

59 30 lượt tải Tải xuống
BÀI GIẢNG DẠNG VĂN BẢN (SCRIPT)
Môn học: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Chương 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Chủ đề 2.2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phần 2: CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Slide Nội dung
1.
Chào các bạn sinh viên. Hôm nay tôi sẽ hướng dẫn các bạn về nội dung “Các cặp
phạm trù bản của PBCDV”. Trước khi đi vào nghiên cứu CÁC CẶP PHẠM
TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT, chúng ta cần phải hiểu
thế nào là phạm trù và phạm trù triết học.
2.
Mỗi bộ môn khoa học đều một hệ thống phạm trù riêng phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa
học đó nghiên cứu. Chẳng hạn:
Trong toán học các phạm trù: số, hàm số, điểm, đường thẳng, mặt
phẳng…
Trong vật lý học có các phạm trù: lực, khối lượng, vận tốc, gia tốc, nhiệt…
Trong kinh tế học các phạm trù: hàng hóa, giá cả, giá trị, tiền tệ, lợi
nhuận…
3. So với các phạm trù của các khoa học cụ thể, phạm trù triết học rộng hơn, khái
quát hơn. Bởi lẽ, mỗi khoa học cụ thể chỉ nghiên cứu một lĩnh vực nhất định của
hiện thực, do đó phạm trù của chỉ sự khái quát toàn bộ lĩnh vực
nghiên cứu; còn triết học lấy toàn bộ hiện thực làm đối tượng để nghiên cứu của
mình. Do đó, có thể định nghĩa phạm trù triết học hình thức hoạt động trí óc
phổ biến của con người, những hình tưởng phản ánh những thuộc
tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng hiện thực.
4.
Chương 1 chúng ta đã nghiên cứu, làm những phạm trù như “vật chất”, “ý
thức”, “không gian”, “thời gian”, “vận động”. Ngoài ra, phần các quy luật
bản của PBCDV, chúng ta sẽ nghiên cứu các phạm trù như Chất, Lượng, Độ,
Điểm nút, Bước nhảy, Mặt đối lập, Mâu thuẫn, Phủ định biện chứng, Chuyển hóa,
v.v
5.
Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy
6
7
8
riêng và sinh ra cái riêng.
Theo phái Duy Danh, chỉ cái riêng tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại
trong tư duy con người. Đó là những tên gọi, danh xưng của các sự vật hiện tượng
riêng lẻ. Tuy nhiên, cùng coi chỉ cái riêng tồn tại thực song các nhà duy danh
khác nhau về hình thức tồn tại của nó.tồn tại của cái riêng.
9
hiện ở:
Thứ nhất, “cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng”.
Điều này có nghĩa là:
- Cái chung cái đơn nhất không tồn tại độc lập tự thân chúng bộ
phận, thuộc tính nên phải gắn với một cái riêng nhất định; chỉcái riêng mới
tồn tại độc lập tự thân.
- Mọi cái riêng sự thống nhất của các mặt đối lập cái đơn nhất cái
chung. Cái chung cái đơn nhất tồn tại không tách rời nhau trong cái riêng,
thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
- Mối liên hệ giữa cái chung với cái đơn nhất mối liên hệ giữa các yếu tố,
bộ phận đơn lẻ vốn có trong một sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ giữa cái chung và
cái đơn nhất với cái riêng mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận đơn lẻ với cái
toàn bộ.
- Trong cùng một lúc, một sự vật, hiện tượng vừa cái đơn nhất vừa cái
chung. Nghĩa là, thông qua các điểm biệt, các mặt không lặp lại của mình, sự
vật, hiện tượng (cái riêng) biểu hiện cái đơn nhất; thông qua các mặt lặp lại
nhiều sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.
Thứ hai, .“cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”
Điều này có nghĩa là:
- Không có cái riêng nào tồn tại một cách độc lập tuyệt đối, hoàn toàn cô lập
với cái khác luôn tham gia vào các mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện
tượng khác xung quanh mình, trong đó những mối liên hệ dẫn đến một hoặc
một số “cái chung” nào đó.
- Cái riêng không tồn tại vĩnh cửu. xuất hiện, tồn tại một thời gian xác
định rồi biến thành cái riêng khác, rồi thành cái riêng khác nữa... cứ thế đến
cùng. Kết quả của sự biến hóa vô tận này là tất cả các cái riêng đềuliên hệ với
nhau.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung cái bộ phận của cái riêng.
Do đó, cái riêng phong phú hơn cái chung, còn cái chung sâu sắc hơn cái riêng.
Bởi lẽ, bên cạnh cái chung thì bất kỳ cái riêng nào cũng còn chứa đựng cái đơn
nhất. Lênin đã viết: “Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất
cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ i riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái
chung”.
Thứ , trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những
điều kiện nhất định, cái đơn nhất cái chung thể chuyển hóa cho nhau.
Bởi lẽ, trong hiện thực cái mới lúc đầu luôn xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”,
cái biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên trở
thành “cái chung”. Ngược lại, cái cũ, cái lỗi thời dần mất đi từ chỗ “cái
chung nó dần trở thành “cái đơn nhất”. Nói cách khác, khi “cái đơn nhất” chuyển
thành cái chung biểu hiện quá trình phát triển đi lên. Ngược lại, sự chuyển hóa cái
chung thành cái đơn nhất biểu hiện quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
10
Nghiên cứu cặp phạm trù Cái chung Cái riêng, chúng ta thể rút ra Ý
nghĩa phương pháp luận như sau:
Vì cái chung, cái riêng đều tồn tại khách quan và cái chung tồn tại trong cái
riêng, do đó để phát hiện ra những cái chung cần xuất phát từ những cái
riêng cụ thể, chứ không phải từ ý muốn chủ quan của con người.
cái chung cái sâu sắc, chứa đựng bản chất, quy luật, do đó khi tìm
hiểu sự vật, hiện tượng, cần phát hiện ra cái chung để rút ra những nguyên lý
chung (kinh nghiệm, lý thuyết...).
cái riêng cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; bản thân cái chung
trong mọi sự vật, hiện tượng không giống nhau hoàn toàn, biểu hiện của cái
chung đã được biệt hóa, do đó bất cứ lúc nào, khi áp dụng các phương pháp
xuất phát từ cái chung vào trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi
tùy theo từng trường hợp cụ thể để vận dụng cho thích hợp.
cái chung cái riêng luôn tồn tại trong mối liên hệ gắn bó biện chứng,
do đó giải quyết vấn đề cái chung và cái riêng không thể tách rời. Nếu chỉ thấy
cái riêng sẽ mò mẫm, tùy tiện; nếu chỉ thấy cái chung sẽ giáo điều, tả khuynh.
Vì cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau, do đó có thể và cần
phải tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho cái đơn nhất lợi cho con
người trở thành cái chung, và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
11
TIẾP THEO LÀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ
Mối liên hệ phổ biến giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật,
hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn tới sự xuất hiện các mặt,
các yếu tố, các bộ phận mới hay các sự vật, hiện tượng mới được phép biện chứng
khái quát thành cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả.
Khi nghiên cứu cặp phạm trù này chúng ta cũng nghiên cứu theo bố cục
sau:
- định nghĩa phạm trù nguyên nhân và kết quảThứ nhất,
- mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quảThứ hai,
- là ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ quan niệm của Cuối cùng,
PBCDV về nguyên nhân và kết quả.
12
NGUYÊN NHÂN: phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau gây nên một biến đổi nhất định nào đó.
KẾT QUẢ: phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do
sự tác động lẫn nhau giữa giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Như vậy, nguyên nhân của mỗi sự vật, hiện tượng không nằm bên ngoài sự
vật, hiện tượng nguyên nhân cuối cùng của sự vận động, chuyển hóa của toàn
bộ thế giới không nằm bên ngoài thế giới, trong lực lượng phi vật chất nào đó.
13
Chúng ta cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện
- NGUYÊN CỚ: khái niệm dùng để chỉ một sự kiện nào đó trực tiếp xảy
ra trước kết quả, nhưng bản thânkhông sinh ra kết quả. Nguyên cớ thể liên
hệ với kết quả nhưng đó MLH bên ngoài, không bản chất, nhằm thực hiện
những mục đích, mưu đồ nhất định.
ĐIỀU KIỆN: khái niệm dùng để chỉ tổng hợp những hiện tượng tác
dụng đẩy nhanh hoặc kìm hãm nguyên nhân tạo ra kết quả, chứ điều kiện không
trực tiếp sinh ra kết quả.
14
Ngược với quan niệm duy tâm về tính chất của mối liên hệ nhân quả, phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng, mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan, tính
phổ biến và tính tất yếu. Theo đó:
Tính khách quan:được thể hiện chỗ mối liên hệ nhân - quả cái vốn có
của bản thân sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức của con người.
Tính phổ biến của mối quan hệ nguyên nhân kết quả: mọi s vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan đều có nguyên nhân nhất định sinh ra. Trong đó,
những nguyên nhân con người đã nhận thức được cả những nguyên nhân
con người chưa nhận thức được. Đồng thời, trên thực tế, con người không chỉ
quan sát được mối liên hệ nhân quả, còn thể tự tạo ra nguyên nhân để
sinh ra kết quả trong thực nghiệm khoa học.
Tính tất yếu của mối quan hệ nguyên nhân – kết quả thể hiện rằng nguyên
nhân sinh ra kết quả phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh. Do đó, chỉ thể nói
rằng, điều kiện hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả được sinh ra
bởi cùng một nguyên nhân càng giống nhau bấy nhiêu.
Nói về tính chất của mối quan hệ nhân quả, Ph.Ăngghen đã viết: “Hoạt
động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả”
15
Bên cạnh việc chỉ ra tính chất của mối liên hệ nhân quả, phép biện chứng duy
vật còn chỉ rõ mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả.
Cụ thể:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả
kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Tuy nhiên, không phải mọi
mối liên hệ trước – sau đều được gọi là mối liên hệ nhân – quả.
16
Mối liên hệ nhân quả là phức tạp vì:
Một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả và một kết quả thể được
sinh ra bởi nhiều nguyên nhân.
Cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, nếu các nguyên nhân tác động
cùng chiều đến sự hình thành kết quả sẽ làm kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược
lại, nếu các nguyên nhân tác động theo những hướng khác nhau sẽ cản trở tác
dụng của nhau, điều đó ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
17
Kết quả sau khi xuất hiện khả năng nh hưởng trở lại đối với nguyên
nhân đã sinh ra nó theo hai hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.
18
Sự phân biệt giữa nguyên nhân & kết quả chỉ mang ý nghĩa tương đối.
Nghĩa là, cái thời điểm hoặc trong mối quan hệ này nguyên nhân, song trong
thời điểm mối quan hệ khác lại kết quả. Như Hegel đã nhận định: nguyên
nhân đốt cháy mình sinh ra kết quả, kết quả “tắt đi” sinh ra nguyên nhân.
Trong quá trình vận động liên tục của thế giới vật chất, không sự vật, hiện
tượng nào được coi nguyên nhân đầu tiên cũng như không sự vật, hiện
tượng nào được coi là kết quả cuối cùng.
19
Về Ý nghĩa phương pháp luận:
Khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù nguyên nhân & kết
quả, chúng ta rút ra được i học trong hoạt động nhận thức hoạt động thực
tiễn là:
quan điểm “quyết định luận duy vật” (đối lập với quan điểm “thuyết
định mệnh duy tâm” được rút ra từ quan niệm duy tâm về mối liên hệ nhân – quả).
Nghĩa là, phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện
thực, chứ không phải ngoài thế giới hay trong ý thức con người, đồng thời
muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng nào đó thì phải loại bỏ nguyên nhân khách
quan đã sinh ra nó.
Tìm nguyên nhân chưa biết của các sự vật, hiện tượng các sự vật, hiện
tượng, mối liên hệ khách quan… đã xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng cần tìm
hiểu xuất hiện. Bởi lẽ, nguyên nhân luôn có trước kết quả về mặt thời gian.
Xác định rõ sự vật, hiện tượng nghiên cứu đang giữ vai trònguyên nhân
hay là kết quả trong một thời gian hoặc trong mối quan hệ xác định, bởi lẽ nguyên
nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa cho nhau.
Phân loại nguyên nhân, tìm ra các nguyên nhân bên trong, nguyên nhân cơ
bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan…,
đồng thời nắm bắt được chiều hướng tác động của các nguyên nhân để từ đó
biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân tích cực phát huy tác động
hạn chế sự tác động của các nguyên nhân tiêu cực. Bởi lẽ, một kết quả được sinh
ra bởi nhiều nguyên nhân.
Biết khai thác tận dụng kết quả đã đạt được để tác động trở lại thúc đẩy
nguyên nhân, nhằm đạt được mục đích. Bởi lẽ, một nguyên nhân sinh thể ra
nhiều kết quả kết quả sau khi sinh ra thể tác động trở lại nguyên nhân đã
sinh ra nó.
20.
Chào các bạn sinh viên. Chúng ta chuyển sang nghiên cứu cặp phạm trù TẤT
NHIÊN – NGẪU NHIÊN, MỘT TRONG SÁU CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT. Cặp phạm trù này được khái quát từ mối liên
hệ phổ biến giữa những cái do nguyên nhân bản bên trong sự vật, hiện tượng
quy định được xác định trong một điều kiện hoàn cảnh nhất định với những
nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài không được xác định rõ.
Nghiên cứu cặp phạm trù này chúng ta cũng cần phải làm rõ ba nội dung chính
là:
- Thứ nhất, định nghĩa về phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên.
- Thứ hai, quan niệm của phép biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
Thứ ba, ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quan niệm của PBCDV về MQHBC
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
21.
Đầu tiên, TẤT NHIÊN (hay còn được gọi là tất yếu) là phạm trù triết học
dùng để chỉ cái do những nguyên nhân bản, bên trong của kết cấu vật chất
quyết định trong những điều kiện nhất định phải xảy ra như thế chứ không
thể khác được.
NGẪU NHIÊN phạm trù triết học dùng để chỉ cái không do mối liên hệ bản
chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định do các tác nhân
bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó,
thể xuất hiện, thể không xuất hiện, thể xuất hiện như thế này, hoặc thể
xuất hiện như thế khác.
Lưu ý :
Cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân.
Phạm trù “tất nhiên” quan hệ với phạm trù “cái chung”, nhưng không đồng
nhất với phạm trù đó. Cái tất yếu là cái chung, song không phải mọi cái chung đều
là cái tất yếu.
Cả cái tất nhiên cái ngẫu nhiên đều quy luật, nhưng những quy luật
quy định sự xuất hiện của cái tất nhiên (quy luật đơn trị) khác với quy luật xuất
hiện cái ngẫu nhiên (quy luật xác suất).
22.
Theo quan niệm của Phép biện chứng duy vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức con người giữa chúng mối quan hệ biện
chứng. Trong đó:
Tất nhiên ngẫu nhiên không tồn tại dưới dạng biệt lập, thống
nhất hữu cơ với nhau. Trong đó:
Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường cho mình thông qua vô số những cái
ngẫu nhiên.
Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thờicái bổ
sung cho cái tất nhiên.
Ph. Ăngghen đã viết: “Cái người ta quả quyết cho tất yếu lại hoàn toàn
do những ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, cái được coi ngẫu nhiên, lại
hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu”.
23
Tất nhiên ngẫu nhiên vị trí, vai trò khác nhau đối với sự phát
triển của sự vật. Trong đó:
Tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật.
Ngẫu nhiên chỉ tác dụng ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, làm
cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hơn hoặc chậm hơn.
24
Ranh giới giữa cái tất nhiên cái ngẫu nhiên chỉ mang tính tương
đối. Nghĩa là:
Tất nhiên ngẫu nhiên không nằm yên trong trạng thái cũ, thay đổi
cùng với sự thay đổi của sự vật.
Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể chuyển hóa thành cái
ngẫu nhiên và ngược lại.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau khi thay đổi mối quan hệ
xem xét.
25.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan niệm của phép biện chứng duy vật về cặp phạm trù tất nhiên ngẫu
nhiên mối quan hệ biện chứng giữa chúng đã mang đến cho chúng ta ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng. Theo đó, trong hoạt động nhận thức hoạt động
thực tiễn chúng ta cần phải:
Dựa vào cái tất nhiên, nhưng không được bỏ qua hoàn toàn những cái ngẫu
nhiên. Do đó, ngoài phương án chính vẫn luôn cần các phương án dự phòng
cho các trường hợp sự biến ngẫu nhiên xuất hiện. Bởi lẽ, cái tất nhiên và cái ngẫu
nhiên đều tồn tại khách quan chúng vai trò khác nhau trong quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Tìm ra cái tất nhiên đằng sau bức màn chằng chịt những cái ngẫu nhiên.
Muốn tìm ra cái tất nhiên, không chỉ dừng lại ở việc so sánh nhiều cái ngẫu nhiên
để tìm ra cái chung, còn phải tiến sâu hơn nữa mới tìm ra được cái chung tất
yếu. Bởi lẽ, cái tất nhiên thể hiện sự tồn tại của nó thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
Phát hiện ra những cái ngẫu nhiên lợi, “cố định” lại, biến thành cái tất
nhiên. Ngược lại, phát hiện ra những cái ngẫu nhiên hại để loại trừ nó. Bởi lẽ,
cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
| 1/9

Preview text:

BÀI GIẢNG DẠNG VĂN BẢN (SCRIPT)
Môn học: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Chương 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Chủ đề 2.2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phần 2: CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Slide Nội dung
Chào các bạn sinh viên. Hôm nay tôi sẽ hướng dẫn các bạn về nội dung “Các cặp
phạm trù cơ bản của PBCDV”. Trước khi đi vào nghiên cứu CÁC CẶP PHẠM 1.
TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT, chúng ta cần phải hiểu rõ
thế nào là phạm trù và phạm trù triết học.
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa
học đó nghiên cứu. Chẳng hạn: 2. 
Trong toán học có các phạm trù: số, hàm số, điểm, đường thẳng, mặt phẳng… 
Trong vật lý học có các phạm trù: lực, khối lượng, vận tốc, gia tốc, nhiệt… 
Trong kinh tế học có các phạm trù: hàng hóa, giá cả, giá trị, tiền tệ, lợi nhuận… … 3.
So với các phạm trù của các khoa học cụ thể, phạm trù triết học rộng hơn, khái
quát hơn. Bởi lẽ, mỗi khoa học cụ thể chỉ nghiên cứu một lĩnh vực nhất định của
hiện thực, do đó phạm trù của nó chỉ là sự khái quát toàn bộ lĩnh vực mà nó
nghiên cứu; còn triết học lấy toàn bộ hiện thực làm đối tượng để nghiên cứu của
mình. Do đó, có thể định nghĩa phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc
phổ biến của con người, là những mô hình tư tưởng phản ánh những thuộc
tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng hiện thực.
Ở Chương 1 chúng ta đã nghiên cứu, làm rõ những phạm trù như “vật chất”, “ý
thức”, “không gian”, “thời gian”, “vận động”. Ngoài ra, ở phần các quy luật cơ 4.
bản của PBCDV, chúng ta sẽ nghiên cứu các phạm trù như Chất, Lượng, Độ,
Điểm nút, Bước nhảy, Mặt đối lập, Mâu thuẫn, Phủ định biện chứng, Chuyển hóa, v.v
Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy 5. 6 7 8
riêng và sinh ra cái riêng.
 Theo phái Duy Danh, chỉ có cái riêng tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại
trong tư duy con người. Đó là những tên gọi, danh xưng của các sự vật hiện tượng
riêng lẻ. Tuy nhiên, cùng coi chỉ có cái riêng tồn tại thực song các nhà duy danh
khác nhau về hình thức tồn tại của nó.tồn tại của cái riêng. 9 hiện ở:
Thứ nhất, “cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng”. Điều này có nghĩa là:
- Cái chung và cái đơn nhất không tồn tại độc lập tự thân vì chúng là bộ
phận, là thuộc tính nên phải gắn với một cái riêng nhất định; chỉ có cái riêng mới
tồn tại độc lập tự thân.
- Mọi cái riêng là sự thống nhất của các mặt đối lập là cái đơn nhất và cái
chung. Cái chung và cái đơn nhất tồn tại không tách rời nhau trong cái riêng,
thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
- Mối liên hệ giữa cái chung với cái đơn nhất là mối liên hệ giữa các yếu tố,
bộ phận đơn lẻ vốn có trong một sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ giữa cái chung và
cái đơn nhất với cái riêng là mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận đơn lẻ với cái toàn bộ.
- Trong cùng một lúc, một sự vật, hiện tượng vừa là cái đơn nhất vừa là cái
chung. Nghĩa là, thông qua các điểm cá biệt, các mặt không lặp lại của mình, sự
vật, hiện tượng (cái riêng) biểu hiện là cái đơn nhất; thông qua các mặt lặp lại ở
nhiều sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.
Thứ hai, “cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”. Điều này có nghĩa là:
- Không có cái riêng nào tồn tại một cách độc lập tuyệt đối, hoàn toàn cô lập
với cái khác mà luôn tham gia vào các mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện
tượng khác xung quanh mình, trong đó có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc
một số “cái chung” nào đó.
- Cái riêng không tồn tại vĩnh cửu. Nó xuất hiện, tồn tại một thời gian xác
định rồi biến thành cái riêng khác, rồi thành cái riêng khác nữa... cứ thế đến vô
cùng. Kết quả của sự biến hóa vô tận này là tất cả các cái riêng đều có liên hệ với nhau.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung là cái bộ phận của cái riêng.
Do đó, cái riêng phong phú hơn cái chung, còn cái chung sâu sắc hơn cái riêng.
Bởi lẽ, bên cạnh cái chung thì bất kỳ cái riêng nào cũng còn chứa đựng cái đơn
nhất. Lênin đã viết: “Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất
cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”.
Thứ tư, trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những
điều kiện nhất định, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau.
Bởi lẽ, trong hiện thực cái mới lúc đầu luôn xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”,
cái cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên trở
thành “cái chung”. Ngược lại, cái cũ, cái lỗi thời dần mất đi và từ chỗ là “cái
chung nó dần trở thành “cái đơn nhất”. Nói cách khác, khi “cái đơn nhất” chuyển
thành cái chung biểu hiện quá trình phát triển đi lên. Ngược lại, sự chuyển hóa cái
chung thành cái đơn nhất biểu hiện quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Nghiên cứu cặp phạm trù Cái chung – Cái riêng, chúng ta có thể rút ra Ý
nghĩa phương pháp luận như sau:
 Vì cái chung, cái riêng đều tồn tại khách quan và cái chung tồn tại trong cái
riêng, do đó để phát hiện ra những cái chung cần xuất phát từ những cái
riêng cụ thể, chứ không phải từ ý muốn chủ quan của con người.

 Vì cái chung là cái sâu sắc, chứa đựng bản chất, quy luật, do đó khi tìm
hiểu sự vật, hiện tượng, cần phát hiện ra cái chung để rút ra những nguyên lý
chung (kinh nghiệm, lý thuyết...).
10
 Vì cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; bản thân cái chung
trong mọi sự vật, hiện tượng không giống nhau hoàn toàn, là biểu hiện của cái
chung đã được cá biệt hóa, do đó bất cứ lúc nào, khi áp dụng các phương pháp
xuất phát từ cái chung vào trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi
tùy theo từng trường hợp cụ thể để vận dụng cho thích hợp.

 Vì cái chung và cái riêng luôn tồn tại trong mối liên hệ gắn bó biện chứng,
do đó giải quyết vấn đề cái chung và cái riêng không thể tách rời. Nếu chỉ thấy
cái riêng sẽ mò mẫm, tùy tiện; nếu chỉ thấy cái chung sẽ giáo điều, tả khuynh.
Vì cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau, do đó có thể và cần
phải tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho cái đơn nhất có lợi cho con
người trở thành cái chung, và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
11
TIẾP THEO LÀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ
Mối liên hệ phổ biến giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật,
hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn tới sự xuất hiện các mặt,
các yếu tố, các bộ phận mới hay các sự vật, hiện tượng mới được phép biện chứng
khái quát thành cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả.
Khi nghiên cứu cặp phạm trù này chúng ta cũng nghiên cứu theo bố cục sau:
- Thứ nhất, định nghĩa phạm trù nguyên nhân và kết quả
- Thứ hai, mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Cuối cùng, là ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ quan niệm của
PBCDV về nguyên nhân và kết quả.
 NGUYÊN NHÂN: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau gây nên một biến đổi nhất định nào đó.
 KẾT QUẢ: là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do 12
sự tác động lẫn nhau giữa giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Như vậy, nguyên nhân của mỗi sự vật, hiện tượng không nằm bên ngoài sự
vật, hiện tượng và nguyên nhân cuối cùng của sự vận động, chuyển hóa của toàn
bộ thế giới không nằm bên ngoài thế giới, trong lực lượng phi vật chất nào đó.
 Chúng ta cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện
- NGUYÊN CỚ: là khái niệm dùng để chỉ một sự kiện nào đó trực tiếp xảy
ra trước kết quả, nhưng bản thân nó không sinh ra kết quả. Nguyên cớ có thể liên 13
hệ với kết quả nhưng đó là MLH bên ngoài, không bản chất, nhằm thực hiện
những mục đích, mưu đồ nhất định.
 ĐIỀU KIỆN: là khái niệm dùng để chỉ tổng hợp những hiện tượng có tác
dụng đẩy nhanh hoặc kìm hãm nguyên nhân tạo ra kết quả, chứ điều kiện không
trực tiếp sinh ra kết quả. 14
Ngược với quan niệm duy tâm về tính chất của mối liên hệ nhân quả, phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng, mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan, tính
phổ biến và tính tất yếu. Theo đó:
Tính khách quan:được thể hiện ở chỗ mối liên hệ nhân - quả là cái vốn có
của bản thân sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến của mối quan hệ nguyên nhân – kết quả: mọi sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan đều có nguyên nhân nhất định sinh ra. Trong đó,
có những nguyên nhân con người đã nhận thức được và cả những nguyên nhân
con người chưa nhận thức được. Đồng thời, trên thực tế, con người không chỉ
quan sát được mối liên hệ nhân – quả, mà còn có thể tự tạo ra nguyên nhân để
sinh ra kết quả trong thực nghiệm khoa học.
Tính tất yếu của mối quan hệ nguyên nhân – kết quả thể hiện rằng nguyên
nhân sinh ra kết quả phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh. Do đó, chỉ có thể nói
rằng, điều kiện – hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả được sinh ra
bởi cùng một nguyên nhân càng giống nhau bấy nhiêu.
 Nói về tính chất của mối quan hệ nhân – quả, Ph.Ăngghen đã viết: “Hoạt
động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả”
Bên cạnh việc chỉ ra tính chất của mối liên hệ nhân quả, phép biện chứng duy
vật còn chỉ rõ mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả. 15 Cụ thể:
 Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả
và kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Tuy nhiên, không phải mọi
mối liên hệ trước – sau đều được gọi là mối liên hệ nhân – quả.
 Mối liên hệ nhân quả là phức tạp vì:
 Một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả và một kết quả có thể được
sinh ra bởi nhiều nguyên nhân. 16
 Cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, nếu các nguyên nhân tác động
cùng chiều đến sự hình thành kết quả sẽ làm kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược
lại, nếu các nguyên nhân tác động theo những hướng khác nhau sẽ cản trở tác
dụng của nhau, điều đó ngăn cản sự xuất hiện của kết quả. 17
 Kết quả sau khi xuất hiện có khả năng ảnh hưởng trở lại đối với nguyên
nhân đã sinh ra nó theo hai hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.
 Sự phân biệt giữa nguyên nhân & kết quả chỉ mang ý nghĩa tương đối.
Nghĩa là, cái ở thời điểm hoặc trong mối quan hệ này là nguyên nhân, song trong
thời điểm và mối quan hệ khác lại là kết quả. Như Hegel đã nhận định: nguyên 18
nhân đốt cháy mình sinh ra kết quả, kết quả “tắt đi” sinh ra nguyên nhân.
Trong quá trình vận động liên tục của thế giới vật chất, không có sự vật, hiện
tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên cũng như không có sự vật, hiện
tượng nào được coi là kết quả cuối cùng. 19
Về Ý nghĩa phương pháp luận:
Khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù nguyên nhân & kết
quả, chúng ta rút ra được bài học trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là:
 Có quan điểm “quyết định luận duy vật” (đối lập với quan điểm “thuyết
định mệnh duy tâm” được rút ra từ quan niệm duy tâm về mối liên hệ nhân – quả).
Nghĩa là, phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện
thực, chứ không phải ở ngoài thế giới hay ở trong ý thức con người, đồng thời
muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng nào đó thì phải loại bỏ nguyên nhân khách quan đã sinh ra nó.
 Tìm nguyên nhân chưa biết của các sự vật, hiện tượng ở các sự vật, hiện
tượng, mối liên hệ khách quan… đã xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng cần tìm
hiểu xuất hiện. Bởi lẽ, nguyên nhân luôn có trước kết quả về mặt thời gian.
 Xác định rõ sự vật, hiện tượng nghiên cứu đang giữ vai trò là nguyên nhân
hay là kết quả trong một thời gian hoặc trong mối quan hệ xác định, bởi lẽ nguyên
nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa cho nhau.
 Phân loại nguyên nhân, tìm ra các nguyên nhân bên trong, nguyên nhân cơ
bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan…,
đồng thời nắm bắt được chiều hướng tác động của các nguyên nhân để từ đó có
biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân tích cực phát huy tác động và
hạn chế sự tác động của các nguyên nhân tiêu cực. Bởi lẽ, một kết quả được sinh
ra bởi nhiều nguyên nhân.
Biết khai thác và tận dụng kết quả đã đạt được để tác động trở lại thúc đẩy
nguyên nhân, nhằm đạt được mục đích. Bởi lẽ, một nguyên nhân sinh có thể ra
nhiều kết quả và kết quả sau khi sinh ra có thể tác động trở lại nguyên nhân đã sinh ra nó. 20.
Chào các bạn sinh viên. Chúng ta chuyển sang nghiên cứu cặp phạm trù TẤT
NHIÊN – NGẪU NHIÊN, MỘT TRONG SÁU CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT. Cặp phạm trù này được khái quát từ mối liên
hệ phổ biến giữa những cái do nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật, hiện tượng
quy định và được xác định trong một điều kiện hoàn cảnh nhất định với những
nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài không được xác định rõ.
Nghiên cứu cặp phạm trù này chúng ta cũng cần phải làm rõ ba nội dung chính là:
- Thứ nhất, định nghĩa về phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên.
- Thứ hai, quan niệm của phép biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
Thứ ba, ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quan niệm của PBCDV về MQHBC
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên. 21.
 Đầu tiên, TẤT NHIÊN (hay còn được gọi là tất yếu) là phạm trù triết học
dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất
quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.
NGẪU NHIÊN là phạm trù triết học dùng để chỉ cái không do mối liên hệ bản
chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các tác nhân
bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có
thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể
xuất hiện như thế khác. Lưu ý :
 Cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân.
 Phạm trù “tất nhiên” quan hệ với phạm trù “cái chung”, nhưng không đồng
nhất với phạm trù đó. Cái tất yếu là cái chung, song không phải mọi cái chung đều là cái tất yếu.
 Cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều có quy luật, nhưng những quy luật
quy định sự xuất hiện của cái tất nhiên (quy luật đơn trị) khác với quy luật xuất
hiện cái ngẫu nhiên (quy luật xác suất). 22.
Theo quan niệm của Phép biện chứng duy vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức con người và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng. Trong đó:
Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại dưới dạng biệt lập, mà thống
nhất hữu cơ với nhau. Trong đó:
 Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường cho mình thông qua vô số những cái ngẫu nhiên.
 Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.
Ph. Ăngghen đã viết: “Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn
do những ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là
hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu”. 23
Tất nhiên và ngẫu nhiên có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự phát
triển của sự vật. Trong đó:
 Tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật.
 Ngẫu nhiên chỉ có tác dụng ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, làm
cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hơn hoặc chậm hơn. 24
Ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối. Nghĩa là:
 Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên trong trạng thái cũ, mà thay đổi
cùng với sự thay đổi của sự vật.
 Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể chuyển hóa thành cái
ngẫu nhiên và ngược lại.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau khi thay đổi mối quan hệ xem xét. 25.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan niệm của phép biện chứng duy vật về cặp phạm trù tất nhiên – ngẫu
nhiên và mối quan hệ biện chứng giữa chúng đã mang đến cho chúng ta ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng. Theo đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn chúng ta cần phải:
 Dựa vào cái tất nhiên, nhưng không được bỏ qua hoàn toàn những cái ngẫu
nhiên. Do đó, ngoài phương án chính vẫn luôn cần có các phương án dự phòng
cho các trường hợp sự biến ngẫu nhiên xuất hiện. Bởi lẽ, cái tất nhiên và cái ngẫu
nhiên đều tồn tại khách quan và chúng có vai trò khác nhau trong quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng.
 Tìm ra cái tất nhiên đằng sau bức màn chằng chịt những cái ngẫu nhiên.
Muốn tìm ra cái tất nhiên, không chỉ dừng lại ở việc so sánh nhiều cái ngẫu nhiên
để tìm ra cái chung, mà còn phải tiến sâu hơn nữa mới tìm ra được cái chung tất
yếu. Bởi lẽ, cái tất nhiên thể hiện sự tồn tại của nó thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
Phát hiện ra những cái ngẫu nhiên có lợi, “cố định” lại, biến nó thành cái tất
nhiên. Ngược lại, phát hiện ra những cái ngẫu nhiên có hại để loại trừ nó. Bởi lẽ,
cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.