So sánh hệ thống pháp luật Việt Nam và Liên Bang Hoa kỳ | Học viện Hành chính Quốc gia

Khác nhau về cách thức tổ chức nhà nước là điểm quan trọng dẩn đến sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ. Hơn nửa, do đi theo hai trương phái luật khác nhau, Common law và Civil law, Việt Nam và Hoa Kỳ có những điểm khác biệt về việc sử dụng án lệ trong lý luận cũng như thực tiển pháp lý. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi phân tích, so sánh hệ thống pháp luật hai nước về nguồn của luật – cách thức tổ chức hệ thống pháp luật theo chiều dọc.

Môn:

Quản lí công 172 tài liệu

Trường:

Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu

Thông tin:
8 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

So sánh hệ thống pháp luật Việt Nam và Liên Bang Hoa kỳ | Học viện Hành chính Quốc gia

Khác nhau về cách thức tổ chức nhà nước là điểm quan trọng dẩn đến sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ. Hơn nửa, do đi theo hai trương phái luật khác nhau, Common law và Civil law, Việt Nam và Hoa Kỳ có những điểm khác biệt về việc sử dụng án lệ trong lý luận cũng như thực tiển pháp lý. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi phân tích, so sánh hệ thống pháp luật hai nước về nguồn của luật – cách thức tổ chức hệ thống pháp luật theo chiều dọc.

167 84 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|4960592 8
SO SÁNH: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LIÊN BANG HOA KỲ
Khác nhau về cách thức tổ chức nhà nước là điểm quan trọng dẩn đến sự khác biệt
giữa hệ thống pháp luật Việt Nam Hoa Kỳ. Hơn nửa, do đi theo hai trương phái luật
khác nhau, Common law Civil law, Việt Nam Hoa Kỳ những điểm khác biệt về
việc sử dụng án lệ trong luận cũng như thực tiển pháp lý. Trong phạm vi bài viết này, tác
giả đi phân tích, so sánh hệ thống pháp luật hai nước về nguồn của luật cách thức tổ chức
hệ thống pháp luật theo chiều dọc.
1. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LIÊN BANG HOA KỲ
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ có nhiều cấp, có thể là nhiều hơn hầu hết các nước
khác. Nguyên nhân một phần là do có sự phân chia giữa luật liên bang và bang. Để hiểu
được điều đó, cần nhắc lại rằng lịch sử Hoa Kỳ không phải hình thành từ một quốc gia,
mà là một liên minh 13 khu vực thuộc địa, mỗi khu vực đều độc lập tách khỏi Anh Quốc.
Do đó, Tuyên ngôn độc lập (1776) có nói đến “Dân tộc các khu vực thuộc địa”, nhưng
đồng thời cũng thừa nhận “Các khu vực thuộc địa Hợp chúng quốc là, và có quyền được
làm, CÁC BANG TỰ DO VÀ ĐỘC LẬP”. Sự giằng kéo giữa một dân tộc và nhiều bang
là một vấn đề bao trùm lịch sử pháp lý Mỹ. Như giải thích ở dưới, Hiến pháp Mỹ (thông
qua năm 1787, phê chuẩn năm 1788) bắt đầu một quá trình chuyển đổi đầy tranh cãi,
chậm chạp và gián đoạn, từ chỗ quyền lực và thẩm quyền pháp lý nằm trong tay các
bang, đã chuyển giao cho nhà nước liên bang. Tuy nhiên, đến nay các bang vẫn giữ nhiều
thẩm quyền lớn. Các sinh viên nghiên cứu hệ thống pháp luật Mỹ phải hiểu được tại sao
phạm vi thẩm quyền lại được phân chia giữa chính quyền liên bang và các bang.
Hiến pháp đã xác định nhiều ranh giới giữa luật liên bang và bang. Nó cũng phân
chia quyền lực liên bang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp (tạo ra cái gọi
là “tam quyền phân lập” và gìn giữ một cách thiêng liêng hệ thống “kiềm chế và đối
trọng”, nhằm ngăn chặn không cho một ngành nào đó có thể lạm dụng quyền lực của các
ngành khác); và mỗi ngành có đóng góp riêng biệt vào hệ thống pháp lý. Trong hệ thống
đó, Hiến pháp quy định những loại luật mà Quốc hội có thể thông qua.
Nhưng ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác: luật Mỹ không chỉ là các đạo luật
do Quốc hội thông qua. Trong một số lĩnh vực, Quốc hội có thể cho phép các cơ quan
hành pháp được ban hành các quy tắc chi tiết hóa luật định. Và toàn bộ hệ thống được
dựa trên các quy tắc pháp lý truyền thống của Thông luật Anh. Mặc dù Hiến pháp và các
đạo luật đều có giá trị cao hơn thông luật, toà án vẫn tiếp tục áp dụng các nguyên tắc
lOMoARcPSD|4960592 8
thông luật bất thành văn để lấp các chỗ trống chưa được Hiến pháp đề cập, cũng như
không được Quốc hội luật hóa.
2. NGUỒN CỦA LUẬT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THEO CHIỀU DỌC
2.1. Luật thành văn
Vit Nam theo trưng phái lut Châu âu lc đa( Civil law) nên lut viết là ngun
chính thức, chủ yếu của hệ thống pháp luật. Do vậy, thẩm quyền ban hành, hiệu lực pháp
lý của văn bản là yếu tố tạo nên hệ thống pháp luật về chiều dọc khi xét đến. Ngược lại,
là điển hình của trường phái Common law, hệ thống pháp luật Hoa kỳ mang những đặc
điểm riêng, kèm theo đó là tính phức tạp trong quá trình vận hành hệ thống pháp luật.
2.1.1. Hiến pháp và tính tối cao của pháp luật
Hiến pháp văn bản pháp hiệu lực cao nhất các nước lập hiến. Điều này
đồng nghĩa với tất cả các văn bản pháp lý khác( kể cả điều ước quốc tế) phải tuân thủ các
quy định của Hiến pháp. Việt Nam cũng không ngoại lệ, tính tối cao đó được quy định rất
tại điều 146, Hiến pháp 1992, là: Hiến pháp nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam
luật bản của Nhà nước, hiệu lực pháp cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác
phải phù hợp với Hiến pháp.”
Mỹ, trong giai đoạn 17811788, đã một thỏa thuận gọi Hiến chương liên
minh điều chỉnh mối quan hệ giữa 13 bang. Một Quốc hội tòan quốc tương đối lỏng lẻo
được thành lập. Mặc dù mỗi bang đều cam kết danh dự sẽ tuân thủ phán quyết tòa án củ a
các bang khác (theo chế “tin cậy và tín nhiệm hoàn toàn”), nhưng Hiến chương không
có quy định nào về thẩm quyề n pháp lý liên bang, trừ quy định về tòa án hàng hải.
Vic xây dng và phê chun Hiến pháp th hin ngày càng có s đng thun trong
vấn đề cần phải củng cố nhà nước liên bang. Hệ thống pháp luật một trong những lĩnh
vực thực hiện được vấn đề đó. Nội dung quan trọng nhất “điều khoản tối cao”, trong
Điều VI của Hiến pháp:
Hiến pháp này, các luật của Hợp chúng quốc được xây dựng trên sở tuân
thủ Hiến pháp, và tất cả các hiệp ước đã được ký kết hoặc sẽ được ký kết, với tư cách thẩm
quyền Hợp chúng quốc, sẽ luật tối cao của tổ quốc; mang tính ràng buộc đối với thẩm
phán tất cả các bang, cho dù trong Hiến pháp và luật của các bang có bất cứ nội dung
gì trái ngược.”
Quy định này đã thiết lập nguyên tắc tiên quyết của luật Hoa Kỳ: Một khi Hiến pháp
đã quy định, không bang nào được quyền làm trái. một điểm vẫn chưa rõ, điều cấm
này sẽ được áp dụ ng cho bản thân chính quyền liên bang như thế nào, hệ thống pháp
luật từng bang có vai trò như thế nào trong nhữ ng lĩnh vực mà Hiến pháp không quy định
lOMoARcPSD|4960592 8
rõ. Các tu chính án Hiến pháp đã phần nào trả lời vấn đề nà y; lịch sử còn nhiều thăng trầm,
thậm chí đến nay, người Mỹ vẫn tiếp tục vật lộn để định ra đường phân giới rõ ràng giữa
thẩm quyền liên bang với thẩm quyền bang.
1.1.1. Vai trò của Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp trong hệ thống pháp luật
Nhà nước thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị của một quốc gia. Một trong
những chức năng quan trọng duy nhất của nhà nước tạo ra pháp luật công cụ hữu
hiệu và chủ yếu để Nhà nước quản lý xã hội. Mổi quốc gia có cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước khác nhau, nhưng tựu chung, chúng luôn hướng đến tính cân bằng hợp trong
phân chia quyền lực nhà nước. Đơn giản, nếu một đạo luật được tạo ra, đòi hỏi phải có
chế đảm bảo thực hiện bảo vệ nó, chức năng này không thể tập trung vào trong tay
một chủ thể nào cả, vì chúng ta không thể chấp nhận đối tượng “vừa đá bóng vừa thổi còi”
được.
Nhà nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước của dân, do dân, vì dân;
quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhân, thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội và có
sự phân công, phân nhiệm trên ba chức năng: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc
tập trung, dân chủ luôn chi phối toàn diện về phương thức tổ chức cũng như hoạt động đối
với bộ máy nhà nước Việt Nam.
Khác với Việt Nam, do ảnh hưởng từ học thuyết tam quyền phân lập của
Montesqueiu(1689-1755), khi những người dự thảo Hiến pháp tìm cách củng cố nhà nước
liên bang, họ cũng sợ là sẽ tăng cường quyền lực quá mức. Một biện pháp nhằm khống chế
chế mới phân chia thành các ngành. Như James đã giải thích trên tờ Federalist (Người
liên bang) số 51, “sự lạm dụng quyền lực được khống chế bằng cách chia nhà nước thành
các cấu phần tách rời một cách rệt”. Mỗi một “cấu phần” của Madison (lập pháp, hành
pháp và tư pháp) được trao một công cụ tác động lên hệ thống pháp luật.
1.1.1.1. Lập pháp
Việt Nam, Hiến pháp trao quyền lập hiến, lập pháp, một cách duy nhất, cho Quốc
hội. Tại điều 83, Hiến pháp 1992, quy định:
Quốc hội quan đại biểu cao nhất của nhân dân, quan quyền lực Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách bản về đối nội đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.”
Văn bản quy phạm pháp luật Quốc hội thẩm quyền ban hành Hiến pháp,
Bộ luật, Luật và Nghị quyết và văn bản do Quốc hội ban hành giá trị pháp lý cao nhất.
lOMoARcPSD|4960592 8
Ủy ban thường vụ Quốc hội quan thường trực của Quốc hội trong khoảng thời gian
không họp của mình. Theo quy định, Ủy ban thường vụ quốc hội có thẩm quyền ban hành
Pháp lệnh và Nghị quết, có giá trị pháp lý thấp hơn.
Hiến pháp Hoa kỳ trao quyền thông qua luật cho Quốc hội. Một đề xuất được Quốc
hội xem xét được gọi là một dự luật (bill). Nếu đa số thành viên mỗi viện (Thượng viện
Hạ viện) thông qua (trong trường hợp Tổng thống phủ quyết, thì tỷ lệ đa số phải hai phần
ba), thì dự luật sẽ trở thành luật. Luật liên bang được gọi là đạo luật (statute). Còn Bộ luật
Hoa Kỳ (United States Code) kết quả của việc “pháp điển hoá” các đạo luật liên bang.
Bản thân Bộ luật không phải một luật, chỉ các đạo luật được sắp xếp theo trật
tự lôgích. Ví dụ, Tiêu mục (Title) 20 bao gồm c đạo luật về Giáo dục, còn Tiêu mục 22
bao gồm các đạo luật về Đối ngoại.
Quyền làm luật của Quốc hội bị giới hạn. Nói chính xác hơn, được người dân
Mỹ ủy quyền thông qua Hiến pháp, trong đó quy định những lĩnh vực Quốc hội
quyền hoặc không quyền làm luật. Điều I, Mục 9 của Hiến pháp cấm Quốc hội thông
qua một số loại luật. Ví dụ, Quốc hội không được thông qua một đạo luật hồi tố “ex post
facto” (luật áp dụng hồi tố, “sau khi sự kiện đã diễn ra”), hoặc áp đặt thuế xuất khẩu. Điều
I, Mục 8 liệt kê các lĩnh vực Quốc hội được làm luật. Một số nội dung khá cụ thể (như
“Xây dựng Bưu điện”), nhưng nhiều nội dung khác thì lại rất chung chung, nổi bật nhất là
quy định “được điều chỉnh thương mại với nước ngoài, giữa các bang”. Tất nhiên, quyền
diễn giải các quy định thẩm quyền kém chính xác cực kỳ quan trọng. Do đó, trong giai
đoạn đầu của lịch sử nền cộng hòa, nhờ nắm được vai trò diễn giải, nên ngành tư pháp đã
nắm thêm một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
1.1.1.2. Tư pháp
Hệ thống tư pháp Việt Nam bao gồm hai thiết chế: Viện kiểm sát và Tòa án , tương
tự như Viện công tố và Tòa án của các nước phát triển. Xét xử là chức năng chính của tòa
án, trong khi đó, công tố và bảo vệ pháp luật là chức năng của Viện kiểm sát theo điều 127,
137 Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, bán án quyết định của Tòa án không mang tính luật,
xét về tính quy phạm, chỉ những phán quyết mang tính biệt. Một điểm nửa, Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thẩm quyền ban hành Nghị quyết. Suy cho
cùng, đó chỉ tập hợp kinh nghiệm xét xử, hướng dẩn giải quyết chung, thống nhất cho
ngành để đảm bảo hiệu quả cho công việc xét xử. Tóm lại, ở Việt Nam, Tòa án nói riêng,
hệ thống Tư pháp nói riêng, không có chức năng làm luật.
Cũng như các ngành khác, quyền của ngành pháp Hoa Kỳ được quy định trong
Hiến pháp. Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền xét xử liên bang trong một số loại tranh
chấp nhất định. Điều III, Mục 2 liệt kê những nội dung này. Hai loại tranh chấp quan trọng
nhất các vụ việc liên quan đến nghi vấn luật liên bang (“Tất cả c vụ việc về luật
công bằng, phát sinh từ Hiến pháp, các đạo luật của Hợp chúng quốc các hiệp ước đã
ký kết ...”) và các vụ việc “đa chủng”, tức là các vụ tranh chấp giữa công dân của hai bang
khác nhau. Thẩm quyền xét xử này cho phép mỗi bên có thể tránh đưa vấn đề ra trước các
tòa án của bang của nhau.
lOMoARcPSD|4960592 8
Quyền xét xử thứ hai xuất hiện trong những năm đầu của nền cộng hòa. Như giải
thích trong Chương 2, phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ trong vụ Marbury kiện
Madison (1803) đã giải thích thẩm quyền (được Hiến pháp ủy quyền) của nó là được phép
xác định một đạo luật vi hiến, và tuyên bố luật vô hiệu. Một đạo luật có thể vi hiến nếu nó
xâm phạm các quyền của người dân được Hiến pháp bảo vệ, hoặc nếu Điều I không cho
phép Quốc hội được thông qua loại luật đó.
Do đó, quyền diễn giải các quy định hiến pháp tả lĩnh vực nào Quốc hội được
làm luật là rất quan trọng. Theo truyền thống, Quốc hội thường chứng minh rằng các đạo
luật là cần thiết nhằm điều chỉnh “thương mại ... giữa một số bang”, hay còn gọi là thương
mại xuyên bang. Đây là một khái niệm mềm dẻo, khó mô tả chính xác. Thực tế, mỗi người
đều có thể cho rằng gần như tất cả các đạo luật đều có sự ràng buộc hợp giữa mục đích
của với việc điều chỉnh thương mại xuyên bang. Nhưng nhiều lúc ngành pháp diễn
giải “điều khoản thương mại” một cách bó hẹp. dụ, năm 1935, Tòa án tối cao đã vô hiệu
hóa một đạo luật liên bang quy định số giờ làm và mức lương của người lao động ở các lò
mổ New York, tất cả thịt được xử đây đều được bán cho các cửa hàng quầy
thịt New York do vậy không yếu tố thương mại xuyên bang. Tuy nhiên, ngay sau
đó, Tòa án tối cao bắt đầu ủng hộ các chương trình thuộc Chính sách mới (New Deal) củ a
Tổng thống Franklin D. Roosevelt một cách rộng rãi hơn, và ngày nay các tòa án liên bang
vẫn tiếp tục diễn giải quyền thương mại theo nghĩa rộng, mặc dù không rộng đến mức có
thể cho phép Quốc hội có thể thông qua bất cứ loại luật nào.
2.1.1.3. Hành pháp
Chính phủ - quan hành pháp tối cao của Việt Nam - thống nhất quản lý việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của
Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc
tôn trọng chấp hành Hiến pháp pháp luật; phát huy quyền m chủ của nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân.
Để thực hiện chức năng của mình, Chính phủ có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, theo quy định tại điều 2, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008:
Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng
các Bộ và Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước. Và, đây thẩm quyền lập quy của cơ
quan Hành pháp, hiệu lực pháp lý thấp hơn so với văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội ban hành.
Điều II, Hiến pháp Hoa Kỳ, trao “Quyền hành pháp” cho Tổng thống Hợp chúng
quốc. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống George Washington, toàn bộ ngành hành pháp bao
gồm một Tổng thống, một Phó tổng thống, các bộ Ngoại giao, Ngân khố, Chiến tranh
pháp. Nhưng khi đất nước lớn mạnh lên, ngành hành pháp cũng phát triển thêm.
Ngày nay, có đến 15 bộ cấp nội các. Mỗi bộ có một số tổng cục, cục và các cơ quan khác.
Ngoài ra còn một phần ngành hành pháp nằm ngoài các bộ. Tất cả đều thực thi quyền
hành pháp do Tổng thống ủy nhiệm và chịu trách nhiệm cuối cùng trước Tổng thống.
lOMoARcPSD|4960592 8
Trong mt s lĩnh vc, mi quan h gia hành pháp và hai ngành kia là không rõ
ràng. Giả sử có một hoặc một số người cướp ngân hàng. Quốc hội thông qua một đạo luật
quy định hành vi cướp ngân hàng là phạm tội (Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 18, Mục 2113
1
).
Cục điều tra liên bang (FBI), một cục thuộc Bộ Tư pháp, có thể sẽ điều tra vụ việc. Khi nó
phát hiện một hoặc một số người tình nghi, một viên Công tố liên bang (cũng thuộc Bộ
pháp) thể cố gắng chứng minh người tình nghi tội phạm trong một phiên xét xử do
một Tòa án sơ thẩm cấp hạt Hoa Kỳ tiến hành.
Cướp ngân hàng là một vụ việc đơn giản. Nhưng khi đất nước ngày càng phát triển
hiện đại hóa, mối quan hệ giữa ba ngành trong hệ thống luật pháp cũng phát triển để
giải quyết các vấn đề phức tạp hơn của xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp. Vai trò của
ngành hành pháp thay đổi nhiều nhất. Trong dụ cướp ngân hàng, Quốc hội hầu như
không cần đến chuyên môn để thể dự thảo một đạo luật quy định hành vi cướp ngân
hàng là tội phạm. Hãy giả sử các nhà làm luật muốn cấm các lọai dược phẩm “nguy hiểm”
trên thị trường, hay hạn chế lượng ô nhiễm “độc hại” trong không khí. Quốc hội thể
chọn cách quy định chính xác định nghĩa của các thuật ngữ đó. Đôi lúc Quốc hội cũng làm
vậy, nhưng có xu thế là Quốc hội ngày càng tăng cường trao bớt một phần thẩm quyền của
cho các quan hành chính công trong ngành hành pháp. Do đó, Cục quản thực phẩm
thuốc (FDA) quan giám sát độ tinh sạch của thực phẩm dược phẩm quốc gia,
còn quan bảo vệ môi trường (EPA) quan điều chỉnh vấn đề tác động môi trường
đất, nướ c và không khí của các ngành công nghiệp.
Mặc các quan nhà nước chỉ nắm giữ những thẩm quyền được Quốc hội ủy
quyền theo luật, nhưng phạm vi thẩm quyền đó thể khá lớn. có thể bao gồm quyền
được ban hành các quy tắc quy định chính xác các thuật ngữ chung chung trong luật. Luật
có thể cấm lượng ô nhiễm “nguy hiểm” trong không khí, còn EPA sẽ quy định loại chất và
hàm lượng của mỗi loại chất được coi nguy hiểm. Đôi lúc luật trao quyền cho một
quan nhà nước được phép điều tra các hành vi vi phạm các quy tắc của nó, phán xử các vi
phạm đó, và thậm chí là cả việc áp dụng lệnh trừng phạt.
Các tòa án sẽ vô hiệu hóa một đạo luật trao quá nhiều quyền cho một cơ quan. Một đạo
luật quan trọng Đạo luật thủ tục hành chính (Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 5, Mục 551,
mục tiếp theo) đã giải thích các thủ tục mà một cơ quan phải tuân thủ khi ban hành các quy
tắc, đánh giá vi phạm áp dụng chế tài. cũng quy định các bên được phép đưa một
quyết định của cơ quan hành pháp ra xem xét trước toà như thế nào.
2.2. Các nguồn luật khác
Về mặc lý luận cũng như thực tiển, Việt Nam vẩn chưa thừa nhận án lệ( thông luật)
là nguồn của luật. Theo Hiến pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan duy nhất, ngoài
Quốc hội có thẩm quyền giải thích luật. Do vậy, các giải pháp, nguyên tắc ghi nhận tại các
Kết luận tác dụng vạch ra đường lối xét xử của thẩm phán, nhưng không được coi
chuẩn mực xét xử công dân phải tuân theo trong đời sống pháp lý. Tuy nhiên, không
thể không thừa nhận rằng đường lối xét xtạo ra một hành lang một khi không đi ra
khỏi hành lang đó, chủ thể quan hệ pháp luật thể an tâm với thái độ ứng xử của mình,
nhất là khi vụ việc xảy ra tranh chấp tại Tòa án.
lOMoARcPSD|4960592 8
Nguồn rõ ràng nhất của luật pháp Mỹ là các đạo luật do Quốc hội thông qua, được
bổ sung bằng các quy định hành chính. Đôi khi những nguồn này quy định ràng ranh
giới giữa hành vi hợp pháp phạm pháp như trong dụ cướp ngân hàng nhưng không
có nhà nước nào thể ban hành đủ luật để khép kín được tất cả các tình huống. Rất may
là đã một thực thể khác quy định các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý giúp lấp các chỗ
trống, như trình bày dưới đây
2.2.1. Thông luật
Khi không có sự khống chế của các quy định hiến pháp và đạo luật, các tòa án liên
bang và bang thường đối chiếu với thông luật; đó là một tuyển tập các quyết định tư pháp,
thông tụcquy tắc chung có từ nhiều thế kỷ trước ở nước Anh và vẫn tiếp tục phát triển
cho đến nay. nhiều bang, thông luật tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tranh chấp hợp
đồng, do các nhà làm luật của bang thấy không cần thiết phải thông qua các đạo luật quy
định tất cả những trường hợp bất thường về hợp đồng có thể xảy ra.
2.2.2. Tiền l tư pháp
Các tòa án xét xử các hành vi vi phạm luật và các tranh chấp nảy sinh từ luật. Thông
thường, tòa án cần phải diễn giải luật. Để làm điều đó, các tòa án tự ng buộc bởi cách
giải thích luật trước đó của các toà án cùng cấp hoặc cao hơn. Đây được gọi là nguyên tắc
“theo quyết định trước”, hay đơn giản gọi là tiền lệ. Nó giúp bảo đảm sự nhất quán và
thể lường trước. Nếu phải đối mặt với các tiền lệ hoặc luật án lệ (case law) bất lợi, bên bị
thường tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa những yếu tố khách quan của vụ việc đang
xem xét với các sự kiện đã dẫn đến quyết định trước đó.
Đôi khi các tòa án diễn giải luật không giống nhau. Ví dụ, Tu chính án Hiến pháp
thứ mười lăm có một quy định là “trong bất kỳ vụ án hình sự nào, không ai ... bị buộc phải
làm chứng chống lại mình”. Thỉnh thoảng lại có c vụ án trong đó một cá nhân từ chối trả
lời các câu hỏi hoặc khai nhận dưới hình thức khác, trên cơ sở lập luận rằng lời khai đó có
thể sẽ được dùng làm cơ sở khởi tố cá nhân này ở một nước khác (không phải ở Hoa Kỳ).
Có thể áp dụng điều luật tự buộc tội trong trường hợp này hay không? T phúc thẩm địa
phận số 2 của Hoa Kỳ cho rằng có thể áp dụng, nhưng Tòa phúc thẩm các địa phận số 4
11 li din gii ngưc li
2
. Điều đó nghĩa luật pháp khác nhau phụ thuộc nơi vụ
việc đó phát sinh!
Các tòa án cấp cao hơn tìm cách giải quyết sự thiếu nhất quán này. Ví dụ, Tòa án tối
cao Hoa Kỳ thường chọn việc xét xử các vụ án nếu phán quyết của vụ đó có thể giải quyết
sự bất đồng giữa các tòa phúc thẩm. Tiền lệ của Tòa án tối cao sẽ khống chế, hoặc áp dụng
cho tất cả các toà án liên bang cấp dưới. Trong vụ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ kiện Balsys,
524 U.S. 666 (1998), Tòa án tối cao đã phán quyết rằng sợ bị truy tố ở nước ngoài là vượt
quá phạm vi của Điều luật tự buộc tội
3
.
Phán quyết này trở thành luật của toàn nước Mỹ, kể cả khu vực Tòa phúc thẩm
địa phận số 2. Bất kỳ tòa án liên bang nào sau này gặp phải vấn đề đó đều bị ràng buộc bởi
phán quyết của tòa cấp cao trong vụ Balsys. Tương tự, phán quyết của toà phúc thẩm lưu
động vùng giá trị ràng buộc tất cả các tòa án hạt trong khu vực. Tiền lệ cũng được áp
lOMoARcPSD|4960592 8
dụng ở nhiều hệ thống tòa án bang. Do đó, tiền lệ ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn
nội dung diễn giải.
Kết luận:
Với cách thức tổ chức nhà nước liên bang, pháp luật Hoa Kỳ được xem là phức tạp
trong cách thức tổ chức, quy định vận hành của mình. Lập pháp, Hành pháp, pháp
đều vai trò quan trọng, độc lập tương đối, tác động đến hệ thống pháp luật Liên Bang.
Một điểm nửa, pháp luật Hoa Khệ thống pháp luật điển hình cho trường phái luật
Commom law, đặc trưng về cách thức sử dụng thông luật( án lệ) trong quá trình áp dụng
pháp luật. So với Việt Nam, do ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil law, nên luật viết
là nguồn chính thống( nhưng không duy nhất) tạo chất nền cho toàn bộ hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, theo xu hưng hp tác, phát trin và tm nh hưng ngày càng ln ca pháp
luật Hoa kỳ( common law) đã, đang và sẽ tạo nên ảnh hưởng cho quá trình xây dựng pháp
luật Việt Nam. Suy cho cùng, luật viết hay án lệ, cả hai điều những ưu, nhược điểm riêng
chúng bổ trợ cho nhau; Do vậy, chấp nhận án lệ là điều tất yếu để hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam trên cả về luận lẩn thực tiển đây cũng xu hướng chung của
pháp luật các nước trên thế giới.
| 1/8

Preview text:

lOMoARcPSD|49605928
SO SÁNH: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG HOA KỲ
Khác nhau về cách thức tổ chức nhà nước là điểm quan trọng dẩn đến sự khác biệt
giữa hệ thống pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ. Hơn nửa, do đi theo hai trương phái luật
khác nhau, Common law và Civil law, Việt Nam và Hoa Kỳ có những điểm khác biệt về
việc sử dụng án lệ trong lý luận cũng như thực tiển pháp lý. Trong phạm vi bài viết này, tác
giả đi phân tích, so sánh hệ thống pháp luật hai nước về nguồn của luật – cách thức tổ chức
hệ thống pháp luật theo chiều dọc.
1. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LIÊN BANG HOA KỲ
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ có nhiều cấp, có thể là nhiều hơn hầu hết các nước
khác. Nguyên nhân một phần là do có sự phân chia giữa luật liên bang và bang. Để hiểu
được điều đó, cần nhắc lại rằng lịch sử Hoa Kỳ không phải hình thành từ một quốc gia,
mà là một liên minh 13 khu vực thuộc địa, mỗi khu vực đều độc lập tách khỏi Anh Quốc.
Do đó, Tuyên ngôn độc lập (1776) có nói đến “Dân tộc các khu vực thuộc địa”, nhưng
đồng thời cũng thừa nhận “Các khu vực thuộc địa Hợp chúng quốc là, và có quyền được
làm, CÁC BANG TỰ DO VÀ ĐỘC LẬP”. Sự giằng kéo giữa một dân tộc và nhiều bang
là một vấn đề bao trùm lịch sử pháp lý Mỹ. Như giải thích ở dưới, Hiến pháp Mỹ (thông
qua năm 1787, phê chuẩn năm 1788) bắt đầu một quá trình chuyển đổi đầy tranh cãi,
chậm chạp và gián đoạn, từ chỗ quyền lực và thẩm quyền pháp lý nằm trong tay các
bang, đã chuyển giao cho nhà nước liên bang. Tuy nhiên, đến nay các bang vẫn giữ nhiều
thẩm quyền lớn. Các sinh viên nghiên cứu hệ thống pháp luật Mỹ phải hiểu được tại sao
phạm vi thẩm quyền lại được phân chia giữa chính quyền liên bang và các bang.
Hiến pháp đã xác định nhiều ranh giới giữa luật liên bang và bang. Nó cũng phân
chia quyền lực liên bang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp (tạo ra cái gọi
là “tam quyền phân lập” và gìn giữ một cách thiêng liêng hệ thống “kiềm chế và đối
trọng”, nhằm ngăn chặn không cho một ngành nào đó có thể lạm dụng quyền lực của các
ngành khác); và mỗi ngành có đóng góp riêng biệt vào hệ thống pháp lý. Trong hệ thống
đó, Hiến pháp quy định những loại luật mà Quốc hội có thể thông qua.
Nhưng ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác: luật Mỹ không chỉ là các đạo luật
do Quốc hội thông qua. Trong một số lĩnh vực, Quốc hội có thể cho phép các cơ quan
hành pháp được ban hành các quy tắc chi tiết hóa luật định. Và toàn bộ hệ thống được
dựa trên các quy tắc pháp lý truyền thống của Thông luật Anh. Mặc dù Hiến pháp và các
đạo luật đều có giá trị cao hơn thông luật, toà án vẫn tiếp tục áp dụng các nguyên tắc lOMoARcPSD|49605928
thông luật bất thành văn để lấp các chỗ trống chưa được Hiến pháp đề cập, cũng như
không được Quốc hội luật hóa.
2. NGUỒN CỦA LUẬT – HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THEO CHIỀU DỌC 2.1. Luật thành văn
Việt Nam theo trường phái luật Châu âu lục địa( Civil law) nên luật viết là nguồn
chính thức, chủ yếu của hệ thống pháp luật. Do vậy, thẩm quyền ban hành, hiệu lực pháp
lý của văn bản là yếu tố tạo nên hệ thống pháp luật về chiều dọc khi xét đến. Ngược lại,
là điển hình của trường phái Common law, hệ thống pháp luật Hoa kỳ mang những đặc
điểm riêng, kèm theo đó là tính phức tạp trong quá trình vận hành hệ thống pháp luật.

2.1.1. Hiến pháp và tính tối cao của pháp luật
Hiến pháp là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất ở các nước lập hiến. Điều này
đồng nghĩa với tất cả các văn bản pháp lý khác( kể cả điều ước quốc tế) phải tuân thủ các
quy định của Hiến pháp. Việt Nam cũng không ngoại lệ, tính tối cao đó được quy định rất
rõ tại điều 146, Hiến pháp 1992, là: “ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác
phải phù hợp với Hiến pháp.”

Ở Mỹ, trong giai đoạn 1781–1788, đã có một thỏa thuận gọi là Hiến chương liên
minh điều chỉnh mối quan hệ giữa 13 bang. Một Quốc hội tòan quốc tương đối lỏng lẻo
được thành lập. Mặc dù mỗi bang đều cam kết danh dự sẽ tuân thủ phán quyết tòa án củ a
các bang khác (theo cơ chế “tin cậy và tín nhiệm hoàn toàn”), nhưng Hiến chương không
có quy định nào về thẩm quyề n pháp lý liên bang, trừ quy định về tòa án hàng hải.
Việc xây dựng và phê chuẩn Hiến pháp thể hiện ngày càng có sự đồng thuận trong
vấn đề cần phải củng cố nhà nước liên bang. Hệ thống pháp luật là một trong những lĩnh
vực thực hiện được vấn đề đó. Nội dung quan trọng nhất là “điều khoản tối cao”, trong
Điều VI của Hiến pháp:
“ Hiến pháp này, và các luật của Hợp chúng quốc được xây dựng trên cơ sở tuân
thủ Hiến pháp, và tất cả các hiệp ước đã được ký kết hoặc sẽ được ký kết, với tư cách thẩm
quyền Hợp chúng quốc, sẽ là luật tối cao của tổ quốc; và mang tính ràng buộc đối với thẩm
phán ở tất cả các bang, cho dù trong Hiến pháp và luật của các bang có bất cứ nội dung gì trái ngược.”

Quy định này đã thiết lập nguyên tắc tiên quyết của luật Hoa Kỳ: Một khi Hiến pháp
đã quy định, không bang nào được quyền làm trái. Có một điểm vẫn chưa rõ, là điều cấm
này sẽ được áp dụ ng cho bản thân chính quyền liên bang như thế nào, và hệ thống pháp
luật từng bang có vai trò như thế nào trong nhữ ng lĩnh vực mà Hiến pháp không quy định lOMoARcPSD|49605928
rõ. Các tu chính án Hiến pháp đã phần nào trả lời vấn đề nà y; lịch sử còn nhiều thăng trầm,
và thậm chí đến nay, người Mỹ vẫn tiếp tục vật lộn để định ra đường phân giới rõ ràng giữa
thẩm quyền liên bang với thẩm quyền bang.
1.1.1. Vai trò của Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp trong hệ thống pháp luật
Nhà nước là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị của một quốc gia. Một trong
những chức năng quan trọng và duy nhất của nhà nước là tạo ra pháp luật – công cụ hữu
hiệu và chủ yếu để Nhà nước quản lý xã hội. Mổi quốc gia có cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước khác nhau, nhưng tựu chung, chúng luôn hướng đến tính cân bằng và hợp lý trong
phân chia quyền lực nhà nước. Đơn giản, nếu một đạo luật được tạo ra, đòi hỏi phải có cơ
chế đảm bảo thực hiện và bảo vệ nó, và chức năng này không thể tập trung vào trong tay
một chủ thể nào cả, vì chúng ta không thể chấp nhận đối tượng “vừa đá bóng vừa thổi còi” được.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân;
quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhân, thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội và có
sự phân công, phân nhiệm trên ba chức năng: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc
tập trung, dân chủ luôn chi phối toàn diện về phương thức tổ chức cũng như hoạt động đối
với bộ máy nhà nước Việt Nam.
Khác với Việt Nam, do ảnh hưởng từ học thuyết tam quyền phân lập của
Montesqueiu(1689-1755), khi những người dự thảo Hiến pháp tìm cách củng cố nhà nước
liên bang, họ cũng sợ là sẽ tăng cường quyền lực quá mức. Một biện pháp nhằm khống chế
cơ chế mới là phân chia thành các ngành. Như James đã giải thích trên tờ Federalist (Người
liên bang)
số 51, “sự lạm dụng quyền lực được khống chế bằng cách chia nhà nước thành
các cấu phần tách rời một cách rõ rệt”. Mỗi một “cấu phần” của Madison (lập pháp, hành
pháp và tư pháp) được trao một công cụ tác động lên hệ thống pháp luật.
1.1.1.1. Lập pháp
Ở Việt Nam, Hiến pháp trao quyền lập hiến, lập pháp, một cách duy nhất, cho Quốc
hội. Tại điều 83, Hiến pháp 1992, quy định:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.

Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.”
Văn bản quy phạm pháp luật mà Quốc hội có thẩm quyền ban hành là Hiến pháp,
Bộ luật, Luật và Nghị quyết và văn bản do Quốc hội ban hành có giá trị pháp lý cao nhất. lOMoARcPSD|49605928
Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội trong khoảng thời gian
không họp của mình. Theo quy định, Ủy ban thường vụ quốc hội có thẩm quyền ban hành
Pháp lệnh và Nghị quết, có giá trị pháp lý thấp hơn.
Hiến pháp Hoa kỳ trao quyền thông qua luật cho Quốc hội. Một đề xuất được Quốc
hội xem xét được gọi là một dự luật (bill). Nếu đa số thành viên mỗi viện (Thượng viện và
Hạ viện) thông qua (trong trường hợp Tổng thống phủ quyết, thì tỷ lệ đa số phải là hai phần
ba), thì dự luật sẽ trở thành luật. Luật liên bang được gọi là đạo luật (statute). Còn Bộ luật
Hoa Kỳ (United States Code)
là kết quả của việc “pháp điển hoá” các đạo luật liên bang.
Bản thân Bộ luật không phải là một luật, mà nó chỉ là các đạo luật được sắp xếp theo trật
tự lôgích. Ví dụ, Tiêu mục (Title) 20 bao gồm các đạo luật về Giáo dục, còn Tiêu mục 22
bao gồm các đạo luật về Đối ngoại.
Quyền làm luật của Quốc hội bị giới hạn. Nói chính xác hơn, nó được người dân
Mỹ ủy quyền thông qua Hiến pháp, trong đó quy định những lĩnh vực mà Quốc hội có
quyền hoặc không có quyền làm luật. Điều I, Mục 9 của Hiến pháp cấm Quốc hội thông
qua một số loại luật. Ví dụ, Quốc hội không được thông qua một đạo luật hồi tố “ex post
facto” (luật áp dụng hồi tố, “sau khi sự kiện đã diễn ra”), hoặc áp đặt thuế xuất khẩu. Điều
I, Mục 8 liệt kê các lĩnh vực Quốc hội được làm luật. Một số nội dung khá là cụ thể (như
“Xây dựng Bưu điện”), nhưng nhiều nội dung khác thì lại rất chung chung, nổi bật nhất là
quy định “được điều chỉnh thương mại với nước ngoài, và giữa các bang”. Tất nhiên, quyền
diễn giải các quy định thẩm quyền kém chính xác là cực kỳ quan trọng. Do đó, trong giai
đoạn đầu của lịch sử nền cộng hòa, nhờ nắm được vai trò diễn giải, nên ngành tư pháp đã
nắm thêm một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
1.1.1.2. Tư pháp
Hệ thống tư pháp Việt Nam bao gồm hai thiết chế: Viện kiểm sát và Tòa án , tương
tự như Viện công tố và Tòa án của các nước phát triển. Xét xử là chức năng chính của tòa
án, trong khi đó, công tố và bảo vệ pháp luật là chức năng của Viện kiểm sát theo điều 127,
137 Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, bán án và quyết định của Tòa án không mang tính luật,
xét về tính quy phạm, mà chỉ là những phán quyết mang tính cá biệt. Một điểm nửa, Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền ban hành Nghị quyết. Suy cho
cùng, đó chỉ là tập hợp kinh nghiệm xét xử, hướng dẩn giải quyết chung, thống nhất cho
ngành để đảm bảo hiệu quả cho công việc xét xử. Tóm lại, ở Việt Nam, Tòa án nói riêng,
hệ thống Tư pháp nói riêng, không có chức năng làm luật.
Cũng như các ngành khác, quyền của ngành tư pháp Hoa Kỳ được quy định trong
Hiến pháp. Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền xét xử liên bang trong một số loại tranh
chấp nhất định. Điều III, Mục 2 liệt kê những nội dung này. Hai loại tranh chấp quan trọng
nhất là các vụ việc liên quan đến nghi vấn luật liên bang (“Tất cả các vụ việc về luật và
công bằng, phát sinh từ Hiến pháp, các đạo luật của Hợp chúng quốc và các hiệp ước đã
ký kết ...”) và các vụ việc “đa chủng”, tức là các vụ tranh chấp giữa công dân của hai bang
khác nhau. Thẩm quyền xét xử này cho phép mỗi bên có thể tránh đưa vấn đề ra trước các
tòa án của bang của nhau. lOMoARcPSD|49605928
Quyền xét xử thứ hai xuất hiện trong những năm đầu của nền cộng hòa. Như giải
thích trong Chương 2, phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ trong vụ Marbury kiện
Madiso
n (1803) đã giải thích thẩm quyền (được Hiến pháp ủy quyền) của nó là được phép
xác định một đạo luật vi hiến, và tuyên bố luật vô hiệu. Một đạo luật có thể vi hiến nếu nó
xâm phạm các quyền của người dân được Hiến pháp bảo vệ, hoặc nếu Điều I không cho
phép Quốc hội được thông qua loại luật đó.
Do đó, quyền diễn giải các quy định hiến pháp mô tả lĩnh vực nào Quốc hội được
làm luật là rất quan trọng. Theo truyền thống, Quốc hội thường chứng minh rằng các đạo
luật là cần thiết nhằm điều chỉnh “thương mại ... giữa một số bang”, hay còn gọi là thương
mại xuyên bang. Đây là một khái niệm mềm dẻo, khó mô tả chính xác. Thực tế, mỗi người
đều có thể cho rằng gần như tất cả các đạo luật đều có sự ràng buộc hợp lý giữa mục đích
của nó với việc điều chỉnh thương mại xuyên bang. Nhưng nhiều lúc ngành tư pháp diễn
giải “điều khoản thương mại” một cách bó hẹp. Ví dụ, năm 1935, Tòa án tối cao đã vô hiệu
hóa một đạo luật liên bang quy định số giờ làm và mức lương của người lao động ở các lò
mổ New York, vì tất cả thịt gà được xử lý ở đây đều được bán cho các cửa hàng và quầy
thịt ở New York và do vậy không có yếu tố thương mại xuyên bang. Tuy nhiên, ngay sau
đó, Tòa án tối cao bắt đầu ủng hộ các chương trình thuộc Chính sách mới (New Deal) củ a
Tổng thống Franklin D. Roosevelt một cách rộng rãi hơn, và ngày nay các tòa án liên bang
vẫn tiếp tục diễn giải quyền thương mại theo nghĩa rộng, mặc dù không rộng đến mức có
thể cho phép Quốc hội có thể thông qua bất cứ loại luật nào.
2.1.1.3. Hành pháp
Chính phủ - cơ quan hành pháp tối cao của Việt Nam - thống nhất quản lý việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của
Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc
tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Để thực hiện chức năng của mình, Chính phủ có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, theo quy định tại điều 2, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008:
Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng
các Bộ và Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước. Và, đây là thẩm quyền lập quy của cơ
quan Hành pháp, có hiệu lực pháp lý thấp hơn so với văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành.
Điều II, Hiến pháp Hoa Kỳ, trao “Quyền hành pháp” cho Tổng thống Hợp chúng
quốc. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống George Washington, toàn bộ ngành hành pháp bao
gồm một Tổng thống, một Phó tổng thống, và các bộ Ngoại giao, Ngân khố, Chiến tranh
và Tư pháp. Nhưng khi đất nước lớn mạnh lên, ngành hành pháp cũng phát triển thêm.
Ngày nay, có đến 15 bộ cấp nội các. Mỗi bộ có một số tổng cục, cục và các cơ quan khác.
Ngoài ra còn có một phần ngành hành pháp nằm ngoài các bộ. Tất cả đều thực thi quyền
hành pháp do Tổng thống ủy nhiệm và chịu trách nhiệm cuối cùng trước Tổng thống. lOMoARcPSD|49605928
Trong một số lĩnh vực, mối quan hệ giữa hành pháp và hai ngành kia là không rõ
ràng. Giả sử có một hoặc một số người cướp ngân hàng. Quốc hội thông qua một đạo luật
quy định hành vi cướp ngân hàng là phạm tội (Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 18, Mục 21131).
Cục điều tra liên bang (FBI), một cục thuộc Bộ Tư pháp, có thể sẽ điều tra vụ việc. Khi nó
phát hiện một hoặc một số người tình nghi, một viên Công tố liên bang (cũng thuộc Bộ Tư
pháp) có thể cố gắng chứng minh người tình nghi là tội phạm trong một phiên xét xử do
một Tòa án sơ thẩm cấp hạt Hoa Kỳ tiến hành.
Cướp ngân hàng là một vụ việc đơn giản. Nhưng khi đất nước ngày càng phát triển
và hiện đại hóa, mối quan hệ giữa ba ngành trong hệ thống luật pháp cũng phát triển để
giải quyết các vấn đề phức tạp hơn của xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp. Vai trò của
ngành hành pháp thay đổi nhiều nhất. Trong ví dụ cướp ngân hàng, Quốc hội hầu như
không cần đến chuyên môn để có thể dự thảo một đạo luật quy định hành vi cướp ngân
hàng là tội phạm. Hãy giả sử các nhà làm luật muốn cấm các lọai dược phẩm “nguy hiểm”
trên thị trường, hay hạn chế lượng ô nhiễm “độc hại” trong không khí. Quốc hội có thể
chọn cách quy định chính xác định nghĩa của các thuật ngữ đó. Đôi lúc Quốc hội cũng làm
vậy, nhưng có xu thế là Quốc hội ngày càng tăng cường trao bớt một phần thẩm quyền của
nó cho các cơ quan hành chính công trong ngành hành pháp. Do đó, Cục quản lý thực phẩm
và thuốc (FDA) là cơ quan giám sát độ tinh sạch của thực phẩm và dược phẩm quốc gia,
còn Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) là cơ quan điều chỉnh vấn đề tác động môi trường
đất, nướ c và không khí của các ngành công nghiệp.
Mặc dù các cơ quan nhà nước chỉ nắm giữ những thẩm quyền được Quốc hội ủy
quyền theo luật, nhưng phạm vi thẩm quyền đó có thể khá lớn. Nó có thể bao gồm quyền
được ban hành các quy tắc quy định chính xác các thuật ngữ chung chung trong luật. Luật
có thể cấm lượng ô nhiễm “nguy hiểm” trong không khí, còn EPA sẽ quy định loại chất và
hàm lượng của mỗi loại chất được coi là nguy hiểm. Đôi lúc luật trao quyền cho một cơ
quan nhà nước được phép điều tra các hành vi vi phạm các quy tắc của nó, phán xử các vi
phạm đó, và thậm chí là cả việc áp dụng lệnh trừng phạt.
Các tòa án sẽ vô hiệu hóa một đạo luật trao quá nhiều quyền cho một cơ quan. Một đạo
luật quan trọng là Đạo luật thủ tục hành chính (Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 5, Mục 551, và
mục tiếp theo) đã giải thích các thủ tục mà một cơ quan phải tuân thủ khi ban hành các quy
tắc, đánh giá vi phạm và áp dụng chế tài. Nó cũng quy định các bên được phép đưa một
quyết định của cơ quan hành pháp ra xem xét trước toà như thế nào.
2.2. Các nguồn luật khác
Về mặc lý luận cũng như thực tiển, Việt Nam vẩn chưa thừa nhận án lệ( thông luật)
là nguồn của luật. Theo Hiến pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan duy nhất, ngoài
Quốc hội có thẩm quyền giải thích luật. Do vậy, các giải pháp, nguyên tắc ghi nhận tại các
Kết luận có tác dụng vạch ra đường lối xét xử của thẩm phán, nhưng không được coi là
chuẩn mực xét xử mà công dân phải tuân theo trong đời sống pháp lý. Tuy nhiên, không
thể không thừa nhận rằng đường lối xét xử tạo ra một hành lang mà một khi không đi ra
khỏi hành lang đó, chủ thể quan hệ pháp luật có thể an tâm với thái độ ứng xử của mình,
nhất là khi vụ việc xảy ra tranh chấp tại Tòa án. lOMoARcPSD|49605928
Nguồn rõ ràng nhất của luật pháp Mỹ là các đạo luật do Quốc hội thông qua, được
bổ sung bằng các quy định hành chính. Đôi khi những nguồn này quy định rõ ràng ranh
giới giữa hành vi hợp pháp và phạm pháp – như trong ví dụ cướp ngân hàng – nhưng không
có nhà nước nào có thể ban hành đủ luật để khép kín được tất cả các tình huống. Rất may
là đã có một thực thể khác quy định các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý giúp lấp các chỗ
trống, như trình bày dưới đây
2.2.1. Thông luật
Khi không có sự khống chế của các quy định hiến pháp và đạo luật, các tòa án liên
bang và bang thường đối chiếu với thông luật; đó là một tuyển tập các quyết định tư pháp,
thông tục và quy tắc chung có từ nhiều thế kỷ trước ở nước Anh và vẫn tiếp tục phát triển
cho đến nay. Ở nhiều bang, thông luật tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tranh chấp hợp
đồng, do các nhà làm luật của bang thấy không cần thiết phải thông qua các đạo luật quy
định tất cả những trường hợp bất thường về hợp đồng có thể xảy ra.
2.2.2. Tiền lệ tư pháp
Các tòa án xét xử các hành vi vi phạm luật và các tranh chấp nảy sinh từ luật. Thông
thường, tòa án cần phải diễn giải luật. Để làm điều đó, các tòa án tự ràng buộc bởi cách
giải thích luật trước đó của các toà án cùng cấp hoặc cao hơn. Đây được gọi là nguyên tắc
“theo quyết định trước”, hay đơn giản gọi là tiền lệ. Nó giúp bảo đảm sự nhất quán và có
thể lường trước. Nếu phải đối mặt với các tiền lệ hoặc luật án lệ (case law) bất lợi, bên bị
thường tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa những yếu tố khách quan của vụ việc đang
xem xét với các sự kiện đã dẫn đến quyết định trước đó.
Đôi khi các tòa án diễn giải luật không giống nhau. Ví dụ, Tu chính án Hiến pháp
thứ mười lăm có một quy định là “trong bất kỳ vụ án hình sự nào, không ai ... bị buộc phải
làm chứng chống lại mình”. Thỉnh thoảng lại có các vụ án trong đó một cá nhân từ chối trả
lời các câu hỏi hoặc khai nhận dưới hình thức khác, trên cơ sở lập luận rằng lời khai đó có
thể sẽ được dùng làm cơ sở khởi tố cá nhân này ở một nước khác (không phải ở Hoa Kỳ).
Có thể áp dụng điều luật tự buộc tội trong trường hợp này hay không? Toà phúc thẩm địa
phận số 2 của Hoa Kỳ cho rằng có thể áp dụng, nhưng Tòa phúc thẩm các địa phận số 4 và
11 lại diễn giải ngược lại2. Điều đó có nghĩa là luật pháp khác nhau phụ thuộc nơi mà vụ việc đó phát sinh!
Các tòa án cấp cao hơn tìm cách giải quyết sự thiếu nhất quán này. Ví dụ, Tòa án tối
cao Hoa Kỳ thường chọn việc xét xử các vụ án nếu phán quyết của vụ đó có thể giải quyết
sự bất đồng giữa các tòa phúc thẩm. Tiền lệ của Tòa án tối cao sẽ khống chế, hoặc áp dụng
cho tất cả các toà án liên bang cấp dưới. Trong vụ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ kiện Balsys,
524 U.S. 666 (1998), Tòa án tối cao đã phán quyết rằng sợ bị truy tố ở nước ngoài là vượt
quá phạm vi của Điều luật tự buộc tội3.
Phán quyết này trở thành luật của toàn nước Mỹ, kể cả ở khu vực Tòa phúc thẩm
địa phận số 2. Bất kỳ tòa án liên bang nào sau này gặp phải vấn đề đó đều bị ràng buộc bởi
phán quyết của tòa cấp cao trong vụ Balsys. Tương tự, phán quyết của toà phúc thẩm lưu
động vùng có giá trị ràng buộc tất cả các tòa án hạt trong khu vực. Tiền lệ cũng được áp lOMoARcPSD|49605928
dụng ở nhiều hệ thống tòa án bang. Do đó, tiền lệ ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn nội dung diễn giải. Kết luận:
Với cách thức tổ chức nhà nước liên bang, pháp luật Hoa Kỳ được xem là phức tạp
trong cách thức tổ chức, quy định và vận hành của mình. Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp
đều có vai trò quan trọng, độc lập tương đối, tác động đến hệ thống pháp luật Liên Bang.
Một điểm nửa, pháp luật Hoa Kỳ là hệ thống pháp luật điển hình cho trường phái luật
Commom law, đặc trưng về cách thức sử dụng thông luật( án lệ) trong quá trình áp dụng
pháp luật. So với Việt Nam, do ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil law, nên luật viết
là nguồn chính thống( nhưng không duy nhất) tạo chất nền cho toàn bộ hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, theo xu hướng hợp tác, phát triển và tầm ảnh hưởng ngày càng lớn của pháp
luật Hoa kỳ( common law) đã, đang và sẽ tạo nên ảnh hưởng cho quá trình xây dựng pháp
luật Việt Nam. Suy cho cùng, luật viết hay án lệ, cả hai điều có những ưu, nhược điểm riêng
và chúng bổ trợ cho nhau; Do vậy, chấp nhận án lệ là điều tất yếu để hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam trên cả về lý luận lẩn thực tiển và đây cũng là xu hướng chung của
pháp luật các nước trên thế giới.