



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61178690
Phần 1 :Lời cảm ơn
Đầu tiên ,em xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể giảng viên trường Đại Học Thủ Đô Hà
Nội ,những người thầy ,người cô đã trực tiếp giảng dạy và tạo điều kiện cho em có
môi trường học tập tốt trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Thuý Hạnh ,cô đã tận
tình hướng dẫn ,truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm của mình cho em trong suốt
quá trình thực hiện bài tập lớn này
Vì thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế,nên em không thể tránh khỏi
những thiếu sót trong bài làm của mình .Em rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của thầy giáo ,cô giáo để bài làm của em được hoàn thiện hơn và đạt hiệu quả
cao .Em xin chân thành cảm ơn ! Trân trọng ! lOMoAR cPSD| 61178690
Phần 2 : Mở Đầu
Tâm lý học trẻ em – với tư cách là một khoa học nghiên cứu về đời sống tinh thần
và hành vi lứa tuổi trẻ – không chỉ giúp chúng ta hiểu được những quy luật chung
của tâm lý, mà còn mở ra cánh cửa để tiếp cận sâu sắc hơn với thế giới nội tâm
phong phú của trẻ em trong từng giai đoạn phát triển. Trong đó, tâm lý học lứa tuổi
và tâm lý học phát triển đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu quá trình
hình thành và biến đổi tâm lý từ lúc con người chào đời cho đến khi trưởng thành.
Việc thấu hiểu đặc điểm tâm lý của trẻ nhỏ không chỉ là yêu cầu của khoa học mà
còn là nền tảng thiết yếu để xây dựng môi trường giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng phù hợp.
Hai thời kỳ ấu nhi (15 – 36 tháng tuổi) và hài nhi (2 – 15 tháng tuổi) – là khoảng
thời gian có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tuệ, cảm xúc và nhân cách
của trẻ. Đây là giai đoạn mà não bộ phát triển mạnh mẽ, các mối quan hệ xã hội
đầu tiên được hình thành, đồng thời trẻ bắt đầu khám phá thế giới xung quanh
bằng các giác quan, vận động và tương tác. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm tâm
lý riêng, phản ánh sự vận động không ngừng của đời sống tinh thần và khả năng
thích nghi với môi trường sống.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, bài tập lớn này được thực hiện nhằm mục tiêu so
sánh sự phát triển tâm lý của trẻ ấu nhi và trẻ hài nhi, từ đó đề xuất những biện
pháp cụ thể nhằm hỗ trợ phát triển tâm lý cho trẻ ấu nhi một cách khoa học và phù
hợp. Qua việc vận dụng kiến thức tâm lý học vào thực tiễn chăm sóc và giáo dục trẻ
nhỏ, bài viết không chỉ góp phần củng cố lý luận mà còn nhấn mạnh vai trò ứng
dụng thiết thực của môn Tâm lý học trẻ em đối với sự phát triển toàn diện của con
người từ những bước đi đầu tiên trong cuộc đời. Đặc biệt, trong bối cảnh giáo dục
mầm non ngày càng được quan tâm, việc xác định rõ những đặc điểm nổi bật trong
từng giai đoạn sẽ giúp phụ huynh, giáo viên và người chăm sóc trẻ có những
phương pháp tác động hiệu quả nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện cho trẻ. Phần 3 : Nội dung
Đề bài : So sánh sự phát triển tâm lí của trẻ ấu nhi với sự phát triển tâm lí của trẻ
hài nhi. Từ đó đề xuất các biện pháp phát triển tâm lí cho trẻ ấu nhi. lOMoAR cPSD| 61178690
1.Sự cần thiết phải so sánh sự phát triển tâm lí của trẻ ấu nhi với sự phát triển
tâm lí của trẻ hài nhi.
Trẻ em là những mầm non đang từng ngày phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần.
Nhưng nếu chúng ta chỉ nhìn trẻ em như một nhóm đối tượng đồng nhất thì thật
thiếu sót. Bởi lẽ, tâm lí của trẻ thay đổi rất rõ rệt theo từng độ tuổi, giới tính, hoàn
cảnh sống và môi trường giao dục. Chính vì vậy, việc so sánh tâm lí trẻ em không
chỉ là điều cần thiết, mà còn vô cùng quan trọng, đặc biệt là giữa giai đoạn hài nhi
và ấu nhi. Nhờ đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng biệt và sự
khác nhau giữa các độ tuổi để đưa ra những hoạt động khai phác phù hợp với sự
phát triển nhận thức, cũng như tâm lí của trẻ hài nhi với đồ vật chỉ là sự tò mò
không nhằm vào việc khám phá chức năng và phương thức sử dụng nó. Do đó trẻ
có thể nghịch với cái thìa cũng chẳng khác gì chơi với cái bút chì que. Khi bước vào
tuổi ấu nhi, mọi chuẩn bị giữa trẻ với thế giới đồ vật được thay đổi đáng kể. Độ vật
lúc này đối với trẻ không phải là cái để nghịch, để chơi mà còn chứa đựng trong đó
một chức năng nhất định và có một phương pháp sử dụng trong. Chẳng hạn cái thìa
dùng để xúc cơm và có cách cầm thìa nhất định. Với sự hướng dẫn của người lớn,
đưa trẻ hướng hoạt động của mình vào việc nắm cách sử dụng đồ vật. Cứ như vậy
lặp đi lặp lại nhiều lần, những kinh nghiệm lúc đầu rời rạc được kết vào trong các đồ vật.
Như vậy sự phát triển tâm lí của trẻ ở mỗi giai đoạn là sự kế thừa phát triển những
thành tựu tâm lí của giai đoạn trước đó. Sự phát triển tâm lí của con người là một
quá trình phức tạp và kéo dài trong đó những năm đầu đời đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành các đặc điểm và hành vi của trẻ. Trẻ em trong giai đoạn đầu
đời phát triển rất mạnh mẽ các đặc điểm tâm lí đặc biệt chịu ảnh hưởng bởi cơ sở
yếu tố sinh học và môi trường giao dục. Trong đó giai đoạn tuổi hài nhi (2–15 tháng)
và tuổi ấu nhi (12,15–36 tháng) là thời kì của nền tảng sự phát triển nhân thức, cảm
xúc và xã hội. Tâm lý học nghiên cứu các quy luật nảy sinh ,vận hành ,phát triển và
bộc lộ của các hiện tượng tâm lý .Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các quy định vận
hành phát triển của các hiện tượng tâm lý qua các giai đoạn lứa tuổi là khác nhau.
Tâm lý học trẻ em phải được quan tâm tới việc trẻ em dần hình thành như thế nào,
phải tìm hiểu xem đứa trẻ hiện có những gì có thể làm được những gì và đứa trẻ sẽ
thay đổi phát triển như thế nào trong cuộc sống thực của nó. Khi nghiên cứu tâm
lý của lứa tuổi hài nhi và ấu nhi ta sẽ biết được những đặc điểm và quy luật riêng lOMoAR cPSD| 61178690
biệt của sự phát triển từng giai đoạn hài nhi và ấu nhi để từ đó chúng ta thêm thấu
hiểu , có cái nhìn đa diện và đầy đủ hơn về sự phát triển hình thành tâm sinh lí ,
nhận thức , tư tưởng , tình cảm ..... Đây là cơ sở để các nhà giáo dục ,cha mẹ và
người chăm sóc lựa chọn phương pháp phù hợp.
Sự khác biệt về tâm lí giữa hai giai đoạn này thể hiện rất rõ rệt.Nếu trẻ hài nhi chủ
yếu phát triển theo hướng cảm giác vận động,bắt đầu hình thành nhận thức ban đầu
thông qua các hoạt động như nhìn ,nghe ,cầm nắm ,bắt chước thì trẻ ấu nhi đã phát
triển mạnh mẽ về ngôn ngữ ,phát triển trí tuệ .Đó là những bước chuyển biến quan
trọng trong quá trình phát triển nhận thức và cảm xúc của trẻ.Đồng thời nó là cơ sở
để người lớn lựa chọn nội dung,hình thức ,phương pháp giáo dục phù hợp với giai
đoạn.Ở trẻ hài nhi cần sự gắn bó về mặt cảm xúc ,chăm sóc dịu dàng ,còn trẻ ấu nhi
cần được kích thích tư duy ,tạo điều kiện giao tiếp khám phá và tương tác xã hội .
So sánh sự phát triển tâm lý của trẻ hài nhi và trẻ ấu nhi là một việc làm cần thiết và
có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nó không chỉ giúp nhận diện đặc điểm tâm lý từng giai
đoạn mà còn tạo cơ sở khoa học cho việc lựa chọn phương pháp giáo dục, chăm sóc
phù hợp, đồng thời hỗ trợ phát hiện và can thiệp kịp thời các vấn đề phát triển của
trẻ. Trong bối cảnh giáo dục hiện đại lấy trẻ làm trung tâm, việc hiểu rõ và tôn trọng
sự phát triển đặc thù của từng lứa tuổi chính là chìa khóa để nuôi dưỡng một thế hệ
khỏe mạnh về thể chất và vững vàng về tâm lý.Qua sự so sánh đó giúp các nhà giáo
dục đổi mới nội dung ,nâng cao yêu cầu,thay đổi phương pháp ,hình thức giáo dục
sao cho phù hợp với từng lứa tuổi.
Thấu hiểu được sự phát triển tâm lí của trẻ ấu nhi so với hài nhi sẽ giúp dục đổi
mới nội dung, nâng cao yêu cầu , thay đổi phương pháp,hình thức giáo dục sao cho
phù hợp với trẻ ấu nhi . Bởi đối với trẻ thơ giai đoạn đầu tiên của đời người( từ lọt
lòng đến 3 tuổi giáo dục) nhằm phát triển các chức năng tâm lý hình thành những
cơ sở ban đầu của nhân cách con người chuẩn bị cho những giai đoạn phát triển
sau được thuận lợi. Trẻ em không đứng một mình đối diện với thế giới xung quanh
nó. Những quan hệ của nó với thế giới xung quanh bao giờ cũng thông qua người
lớn. Ngay từ những năm đầu đời của cuộc sống đã tồn tại mối liên quan chặt chẽ
giữa người lớn với người chăm sóc chúng. Người lớn là trung tâm của mọi tình
huống mà đứa trẻ ở trong đó. Càng về sau mối liên hệ càng sâu sắc và trở nên tinh
tế hơn đa dạng hơn và dưới những hình thức phức tạp hơn. Người lớn là người cụ
thể mang trong mình tất cả những gì mà trong quá trình sống trẻ lĩnh hội được. Chỉ
thông qua việc người lớn và nhờ có người lớn trẻ mới lĩnh hội được toàn bộ sự lOMoAR cPSD| 61178690
phong phú của thực tại: thế giới đồ vật với cách sử dụng chúng kho tàng ngôn ngữ
những năng lực phẩm chất người .Để quá trình giáo dục mang lại hiệu quả cao thì
người ta cần nghiên cứu xác định xem dạy trẻ cái gì và dạy như thế nào ở các giai
đoạn hài nhi và ấu nhi là khác nhau. Đứa trẻ phát triển được là nhờ có quá trình
lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội mà chính giáo dục đã truyền thụ cho trẻ những
kinh nghiệm đó. Vấn đề mối quan hệ tương hỗ giữa giáo dục và phát triển của trẻ
được các nhà tâm lí học theo trường phái khác nhau giải quyết không giống nhau
.Giáo dục có thể định hướng phát triển tâm lý trẻ em chính vì vậy giáo dục phải đưa
ra những hình thức hoạt động nhất định và tổ chức nó sao cho có thể hình thành ở
trẻ những phẩm chất tâm lý cần thiết và có thể điều chỉnh những mẹo tâm lý đã
hình thành trước đây. Nhà giáo dục có thể tạo ra những điều kiện tốt giúp trẻ thuận
lợi .Từ đó, giáo dục không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc, mà còn góp phần kích thích
sự phát triển toàn diện, đặt nền móng vững chắc cho quá trình học tập và hình
thành nhân cách sau này của trẻ. Có thể nói nhà giáo dục gọi là nhà tổ chức hoạt
động giỏi muốn phát triển tâm lý cho trẻ không còn cách nào ờ ngoài việc tổ chức
mọi hoạt động cho trẻ được tốt. giáo dục không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc, mà
còn góp phần kích thích sự phát triển toàn diện, đặt nền móng vững chắc cho quá
trình học tập và hình thành nhân cách sau này của trẻ.
2.Nội dung nghiên cứu
2.1 Sự thay đổi hoạt động chủ đạo từ hoạt động giao tiếp xúc cảm trực tiếp với
người lớn ở trẻ hài nhi sang hoạt động với đồ vật ở trẻ ấu nhi là một bước phát
triển tâm lí mới ở trẻ ấu nhi.
Trong những năm tháng đầu đời, mỗi giai đoạn phát triển của trẻ đều gắn liền với
những thay đổi căn bản về mặt tâm lí và hành vi. Trước tiên chúng ta thấy được sự
thay đổi hoạt động giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn ở trẻ hài nhi sang hoạt
động với đồ vật ở trẻ ấu nhi là một bước phát triển mới ở trẻ ấu nhi . Bởi trẻ hài nhi
(từ 2 tháng đến khoảng 15 tháng tuổi) là giai đoạn quan trọng trong sự phát triển thể
chất và tâm lý. Đây là thời kỳ trẻ dần tách khỏi sự lệ thuộc hoàn toàn vào phản xạ
bẩm sinh và bắt đầu hình thành những tiền đề cơ bản cho các hoạt động tâm lý, vận
động, giao tiếp và ngôn ngữ . Trẻ hài nhi bắt đầu phát triển nhanh về khả năng vận
động, giác quan, ngôn ngữ và cảm xúc; hình thành những tương tác đầu tiên với thế
giới xung quanh. Trẻ hài nhi hình thành sự gắn bó với người chăm sóc (thường là
mẹ), học cách nhận biết và biểu đạt cảm xúc. Trẻ bắt đầu theo dõi vật chuyển động, lOMoAR cPSD| 61178690
nhận biết được người lạ người quen . Từ đó ,góp phần giúp trẻ nhận biết và gắn bó
với người thân, hình thành kết nối tình cảm ban đầu . Hài nhi cũng dần cảm nhận
được nhiệt độ, sự mềm cứng, nhẵn sần... biết ôm hôn, chạm vào người khác để thể
hiện tình cảm . Xúc giác là cách trẻ cảm nhận được tình yêu thương sự an toàn. Nhu
cầu giao tiếp với người lớn ngày càng tăng , làm nảy sinh khả năng nói ở trẻ, bắt
chước những âm thanh trong lời nói của những người xung quanh. Trẻ hài nhi có
những phản ứng lại với nhiều sắc thái khi giao tiếp với người lớn như nhoẻn miệng
cười khi nghe thấy âm thanh vui vẻ, mếu máo nếu âm thanh dữ tợn.Càng về cuối
năm đứa trẻ càng thích được giao tiếp với người lớn hơn thông qua tiếng bập bẹ của
mình.( Biểu hiện của việc chuẩn bị nói ) .Ngữ âm là yếu tố đầu tiên quyết định thái
độ phản ứng của trẻ cũng tức là quyết định sự hiểu ngôn ngữ của trẻ.
Ví dụ như :Khi mẹ thường xuyên trò chuyện, đọc truyện, hát ru cho bé nghe từ sớm,
bé sẽ sớm biết phản ứng lại bằng ánh mắt, nụ cười và bập bẹ các âm thanh đầu tiên
– là nền tảng cho ngôn ngữ và giao tiếp sau này .Cuối tuổi hài nhi, mối liên hệ giữa
tên đối tượng và bản thân đối tượng trở nên rõ ràng và phong phú hơn. Đó chính là
hình thức đầu tiên của sự thông hiểu ngôn ngữ. Lúc này trẻ có thể chỉ ra đúng đối
tượng mà người lớn hỏi. Như vậy, trong quá trình tiếp xúc trực tiếp với người lớn,
sự thông hiểu ngôn ngữ của trẻ dần mang tính chất tích cự hơn và trở thành một
trong những phương tiện quan trọng để mở rộng khả năng giao tiếp của trẻ với những người xung quanh.
Khi bước vào tuổi ấu nhi, mối quan hệ giữa trẻ với thế giới đồ vật được thay đổi
đáng kể. Đồ vật lúc này đối với trẻ không phải chỉ là cái để nghịch, để chơi mà còn
chứa đựng trong đó có chức năng nhất định và có một phương thức sử dụng tương
ứng . Hoạt động đồ vật của trẻ là một loại hoạt động đối tượng ngày càng giống với
cách sử dụng của người lớn (như cầm bút, cầm thìa, gõ trống,tháo mở hộp). Ở trẻ ấu
nhi, hoạt động với đồ vật trở thành chủ đạo. Ở lứa tuổi hài nhi, khi hoạt động với đồ
vật mục đích của trẻ là để chơi, để nghịch như: sờ, ném, đập...một cách tuỳ tiện, tuỳ
thích. Thì vào tuổi ấu nhi,quan hệ giữa trẻ với thế giới đồ vật có sự thay đổi đáng kể.
Trẻ luôn hướng vào thế giới đồ vật của con người và luôn tìm kiếm khám phá xem
đây là cái gì,cách sử dụng nó như thế nào...Dưới sự hướng dẫn của người lớn trẻ dần
dần lĩnh hội được những kinhnghiệm xã hội lịch sử được củng cố trong các đồ vật .
Nhờ hoạt động với đồ vật mà chức năng của đồ vật lần đầu tiên được bộc lộ trước
đứa trẻ, đồng thời trẻ nắm được cách sử dụng các đồ vật sinh hoạt hang ngày.Nhờ
việc tham gia vào hoạt động với đồ vật , đời sống tâm lý của trẻ trở nên phong phú
hơn, các chức năng tâm lí của trẻ như tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng,... được lOMoAR cPSD| 61178690
phát triển mạnh mẽ. Nhờ hành động với đồ vật mà xúc cảm, tình cảm của trẻ được
hình thành và phát triển: trẻ nâng niu, yêu quý đồ vật, đồ chơi vì trẻ năm được quy
tắc hành vi xã hội khi sử dụng đồ vật.
Ví dụ : Chơi điện thoại đồ chơi trẻ biết chức năng của nó là để liên lạc, biết bấm vào
phím để sử dụng, cầm cái cốc để biết chức năng của nó là để đựng nước uống và
cách sử dụng cầm vào quai…
Như vậy , Ở giai đoạn hài nhi, trẻ chủ yếu giao tiếp với người lớn qua các tín hiệu
phi ngôn ngữ như tiếng khóc, ánh mắt, tiếng bập bẹ, cử động tay chân… Chẳng hạn,
khi đói, trẻ sẽ khóc để thu hút sự chú ý của mẹ; khi vui, trẻ mỉm cười, đập tay, phát
ra âm thanh để đáp lại sự âu yếm từ người lớn. Trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào người
chăm sóc trong việc thỏa mãn nhu cầu và học hỏi qua giao tiếp trực tiếp với họ.Sang
giai đoạn ấu nhi, trẻ bắt đầu giảm dần sự phụ thuộc vào người lớn trong giao tiếp,
và tăng cường hoạt động với đồ vật. Lúc này, trẻ không chỉ quan sát mà còn chủ
động khám phá, thao tác và sử dụng đồ vật một cách có mục đích. Ví dụ, trẻ bắt đầu
biết cách cầm thìa để tự xúc ăn, biết dùng chổi để quét nhà như người lớn, hay xếp
hình, lắp ghép các khối đồ chơi. Trẻ không chỉ tương tác với người lớn mà còn học
hỏi qua chính những hành động của mình với thế giới vật chất xung quanh. Sự
chuyển biến từ giao tiếp chủ yếu với người sang tương tác với vật thể hiện sự phát
triển mạnh mẽ về nhận thức, tư duy và kỹ năng vận động ở trẻ. Trẻ dần hình thành
ý thức về bản thân, hiểu chức năng của đồ vật, và bước đầu phát triển tư duy công
cụ – nền tảng cho sự học tập sau này.
2.2 Sự khác biệt về hành động với đồ vật của trẻ ấu nhi so với trẻ hài nhi.
Đối với mỗi loại đồ chơi hay đồ vật thật ,trẻ đều cố gắng tìm kiếm một phương thức
hành động tương ứng .Sự tiếp xúc với thế giới xung quanh ngày càng rộng thì
phương thức hành động với đồ vật ngày càng phong phú .Trong số những hành động
với đồ vật mà trẻ nắm được ở lứa tuổi ấu nhi thì những hành động thiết lập các mối
tương quan và những hành động công cụ là những hành động có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng với sự phát triển của trẻ hơn cả . Là hành động trong đó một đồ vật nào
đó được sử dụng như một công cụ để tác động lên các đồ vật khác. Chẳng hạn dùng
thìa để xúc cơm, dùng dao để thái rau.Việc sử dụng công cụ, dù là những công cụ
cầm tay đơn giản nhất không những chỉ cầm làm tăng thêm sức lực tự nhiên của con
người, mà còn làm cho người có thể thực hiện được nhiều hành động mà nếu chỉ
bằng tay không khó có thể làm được hoặc kết quả kém. Có thể xem công cụ như là
khí quan nhân tạo của con người làm trung gian giữa con người và tự nhiên. lOMoAR cPSD| 61178690
Ở tuổi ấu nhi, trẻ mới chỉ học cách sử dụng một số công cụ sơ đẳng nhất như thìa,
cốc, bút chì… Tuy vậy, những cái đó cũng đã có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển
tâm lý, vì những công cụ đó đã mang trong mình những đặc điểm chung của mọi
công cụ, cách thức dùng chung là do xã hội quy định và cấu tạo của công cụ lại do
chức năng của chúng quy định. Công cụ là khâu trung gian giữa bàn tay con người
với đồ vật cần tác động tới và tác động đó diễn ra như thế nào lại tùy thuộc vào cấu
tạo của công cụ, dùng thìa để xúc cơm khác xa với dùng tay để bốc cơm vào mồm,
vì vậy việc sử dụng công cụ đòi hỏi phải thay đổi hoàn toàn động tác của tay, làm
cho bàn tay phải phục tùng cấu tạo công cụ.Sự thay đổi này diễn ra nếu trẻ biết chú
ý đến mối quan hệ giữa công cụ và đối tượng mà hành động hướng tới (tức là quan
hệ giữa thìa và cơm ),nhưng đây không phải là việc dễ dàng đối với trẻ,bởi vì trước
đó trẻ mới chỉ biết hành động bằng tay trực tiếp lên đối tượng chứ không thông qua
một công cụ nào .Trẻ chỉ nắm được hành động công cụ một cách đúng đắn khi có sự
hướng dẫn có hệ thống của người lớn.Người lớn làm mẫu cho trẻ ,hướng dẫn sự vận
động bàn tay sao cho phù hợp với công cụ và luôn nhắc nhở trẻ chú ý đến kết quả.Cứ
như vậy trẻ sẽ lĩnh hội được những hành động công cụ cần cho cuộc sống hằng ngày
.Có thể chia quá trình lĩnh hội hành động công cụ thành nhiều giai đoạn:lúc đầu công
cụ chỉ là sự kéo dài bàn tay của trẻ (trẻ nắm lấy thìa và đưa gần vào bát rồi xúc cơm
đưa thẳng lên mồm y như đưa nắm tay lên mồm vậy).Lúc này sự chú ý của trẻ không
hướng về công cụ mà chỉ hướng về đối tượng(không hướng về cái thìa mà chỉ hướng
về cơm).Do đó ,hành động chưa thể thành công (cơm rơi vãi hết,trẻ chỉ đưa được cái thìa không lên mồm ).
Ở giai đoạn này mặc dù trẻ đã cầm công cụ ,nhưng đây chưa phải là hành động công
cụ mà chỉ là mới hành động bằng tay.Sang giai đoạn tiếp theo,trẻ mới bắt đầu chú ý
tới quan hệ giữa công cụ và đối tượng mà hành động hướng tới (giữa thìa và cơm
).Lúc này trẻ phải làm đi làm lại nhiều lần mới đạt kết quả .Cuối cùng ,chỉ khi nào
bàn tay thích nghi đầy đủ với cấu tạo công cụ thì mới xuất hiện hành động công cụ
đích thực . Hành động công cụ mà trẻ nắm được ở lứa tuổi ấu nhi hoàn toàn thành
thạo, còn phải tiếp tục hoàn thiện thêm. Hành động thiết lập các mối tương quannlà
những hành động đưa hai hoặc nhiều đối tượng (hoặc các bộ phận của chúng) vào
những mối tương quan nhất định trong không gian. Chẳng hạn hành động chồng các
khối gỗ thành hình tháp, hoạt động lắp ráp các đồ chơi.Ngay trong tuổi hài nhi, trẻ
đã bắt đầu thực hiện các hành động với các đồ vật như tháo ra lắp vào, đậy lại. Tuy
nhiên, các hành động này có đặc điểm là khi tiến hành, trẻ hài nhi chưa biết các thuộc lOMoAR cPSD| 61178690
tính của đồ vật, chưa biết chọn đồ vật theo hình dáng, theo kích thước, sắp xếp chúng
theo một trật tự nhất định.
Ngược lại,những hành động thiết lập các mối tương quan mà trẻ bắt đầu lĩnh hội ở
tuổi ấu nhi đòi hỏi phải tính đến những thuộc tính của đối tượng .Chẳng hạn để sắp
xếp được hình tháp cho đúng trẻ cần phải chú ý đến tương quan về độ lớn của các
khối gỗ,phải biết sắp xếp khối gỗ to nhất ở dưới cùng ,rồi chồng lên lần lượt những
khối nhỏ dần . Đây là những hành động khá phức tạp đối với trẻ ấu nhi, bởi vì những
hành động này phải được điều chỉnh bằng chính kết quả thu được. Nhưng trẻ lại
chưa tự mình tạo ra kết quả đó, nhất là trong thời kỳ đầu, trẻ rất khó đạt tớt kết quả
này, chúng thường xếp lung tung. Người lớn cần phải giúp trẻ đạt tới kết quả đúng
bằng cách làm mẫu cho trẻ và giúp trẻ thực hiện cách hành động để dần dần trẻ nắm
được hành động đó. Sự lĩnh hội những hành động thiết lập các mối tương quan của
trẻ phụ thuộc vào phương pháp dạy dỗ .Chẳng hạn khi dạy trẻ lắp những vật có hình
dạng khác nhau vào các hình tương ứng được đục trên một thể gỗ ,người lớn cần
phải dạy trẻ quan sát bằng mắt để tìm thấy sự giống nhau của các hình được đục
trong thẻ với các hình ở ngoài thẻ ,tức là dạy trẻ thiết lập mối tương quan giữa các
hình đó ,rồi đề nghị trẻ lần lượt lấy hình ngoài thẻ lắp vào các hình trong thẻ theo
tương quan về hình dạng .Học được phương thức hành động tương ứng phức tạp hơn
. Nhờ hành động thiết lập các mối tương quan như vậy các chức năng tâm lý của trẻ
như tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy được phát triển mạnh, đặt biệt tư duy trực
quan - hành động, làm cơ sở cho sự phát triển các kiểu tư duy cao hơn sau này (như
tư duy trực quan - hình tượng, tư duy Logic).
“Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi” có thể coi là sự đúc
kết của nhân dân ta về quá trình phát triển, vận động từ thấp đến cao của đứa trẻ
trong năm đầu tiên. Cùng với sự vận động ấy, đứa trẻ còn biết sờ mó, cầm nắm các
đồ vật xung quanh rồi hành động với chúng như ném xuống đất, hoặc gõ vào nhau...
tất cả các vận động và hành động đó (Manipulaton) là bậc thang đầu tiên để dần dần
trẻ có thể nắm được những hình thức, hành vi của con người.Sự tiến bộ của những
vận động và hành động của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào sự hướng dẫn của người
lớn. Nếu người lớn thường xuyên chú ý tới trẻ và tổ chức hành động cho trẻ thì việc
di chuyển trong không gian (như bò, đi chập chững…) và việc cầm nắm các đồ vật
và hành động với chúng có những bước tiến bộ rõ rệt và đóng vai trò tích cực trong
sự phát triển tâm lý. Bò là các vận động đầu tiên của trẻ. Khoảng chừng 7 - 8 tháng
trẻ bắt đầu biết bò. Lúc này trẻ cố gắng vươn tới đồ vật đang thu hút nó. Thoạt tiên
là trườn, sau đó bò lồm cồm cả hai chân, hai tay. Trước khi biết đi, trẻ phải trải qua lOMoAR cPSD| 61178690
một thời gian dài để học cách đứng dậy trên hai chân có vịn, rồi không cần vịn tay,
đi men rồi sau cố chập chững từng bước một. Quá trình này không diễn ra một cách
tự nhiên mà rất cần sự giúp đỡ của người lớn. Thông thường trẻ không tự đi mà dễ
thích nghi với động tác bò (là hình thái vận động đặc trưng của động vật). Vì vậy
người lớn cần tán thưởng thường xuyên khi trẻ học đi để việc đi theo tư thế đứng
thẳng được thắng thế. Trong những tháng đầu tiên, trẻ khám phá môi trường xung
quanh bằng thị giác, thính giác và cả vị giác. Sau tháng thứ ba, trẻ bắt đầu dùng hai
tay để sờ mó đồ vật. Hai bàn tay tạo ra những ấn tượng xúc giác về đồ vật, giúp cho
trẻ biết được vài đặc tính đơn giản của chúng. Đến tháng thứ tư trẻ bắt đầu nắm lấy
đồ vật. Nhiều khi trẻ nắm chắc trong tay một đồ vật hồi lâu, tuy trẻ vẫn chưa làm
chủ hoàn toàn hành động nắm.Từ tháng thứ sáu trở đi thì hành động nắm được cải
thiện hơn, bàn tay hướng về đồ vật, ngón tay cái đối lập với các ngón tay khác, nhờ
đó trẻ đã cầm đồ vật bằng các ngón tay. Càng về cuối năm động tác nắm càng chính
xác hơn. Vị trí của các ngón tay dần dần thích hợp với các kiểu đồ vật (Quả bóng
được cầm với những ngón tay xoè rộng, khi cầm khối vuông thì các ngón tay đặt
theo gờ cạnh).Chỉ khi trẻ bắt đầu thực hiện các vận động và thao tác với đồ vật thì
các giác quan của trẻ phát triển mạnh hơn và có thêm nhiệm vụ mới là bắt đầu điều
khiển, điều chỉnh đôi chút những vận động và thao tác của trẻ.Có thể nói rằng định
hướng của trẻ vào thế giới xung quanh trước hết bằng sự vận động và thao tác với
đồ vật, trên cơ sở đó mà làm phát triển của quá trình tâm lý, rồi sau mới có sự định
hướng bằng các quá trình tâm lý.
Ta có thể nhìn thấy đứa trẻ làm quen với không gian như thế nào qua cách trẻ hoàn
thiện những cử động của cánh tay hướng về một đồ vật mà nó thích thú.Quá trình
cầm, nắm bằng tay với đồ vật, giúp trẻ biết được các thuộc tính khác nhau của chúng
như hình dáng, trọng lượng, độ dày, độ cứng…..do đó trẻ có thể thay đổi các ngón
tay cho thích hợp với các đồ vật ấy. Vậy là đồ vật đã “bắt buộc” bàn tay và sau đó là
cả mắt nữa phải tính đến các đặc tính của nó.Từ khi trẻ biết hướng tới kết quả của
động tác với các đồ vật thì cũng đồng thời phát hiện được những thuộc tính của
chúng, đồ vật có thể di chuyển, có thể rơi, có thể phát thành tiếng, có thể bóp méo,
cứng hay mềm, gộp lại gần nhau hay tách xa nhau v.v.. Nhưng trẻ chỉ biết được tính
chất này khi đang thao tác với các đồ và nếu ngừng lại thì “kiến thức” ấy cũng sẽ
biến mất.Về cuối năm, sau khi đã nhiều lần thao tác với đồ vật và nhiều tuần ghi lại
ấn tượng về nó thì lúc đó đồ vật mới bắt đầu trở thành một sự tồn tại thường xuyên
trong thế giới xung quanh với những thuộc tính ổn định. Cần chú ý quá trình phát
triển vận động, thao tác với đồ vật và định hướng vào môi trường xung quanh tự trẻ lOMoAR cPSD| 61178690
không thể thực hiện được mà phải có sự hướng dẫn, kích thích bằng tình cảm, trí tuệ
của người lớn. Nhờ người lớn hướng dẫn, tổ chức sự vận động và thao tác với đồ
vật, đứa trẻ có những biểu tượng đầu tiên về thế giới xung quanh làm xuất hiện
những hình thái đầu tiên của hoạt động tâm lý giúp trẻ định hướng được vào thế giới
và tạo nên những tiền đề để trẻ tiếp nhận những loại kinh nghiệm lịch sử - xã hội
khác nhau ở những giai đoạn sau này.
2.3 Môi trường hoạt động của trẻ ấu nhi được mở rộng hơn ở trẻ hài nhi
Sự khác biệt rõ rệt giữa hai giai đoạn này nằm ở mức độ chủ động trong vận động:
nếu trẻ hài nhi chủ yếu là “người nhận” thì trẻ ấu nhi đã trở thành “người tham gia”
tích cực trong các hoạt động phát triển thể chất và giác quan. Hoạt động vận động ở
trẻ hài nhi được thể hiện dưới đây. Vận động thô 2-3 tháng: biết ngẩng đầu khi nằm
sấp. Hai chân, hai tay cử động linh hoạt, đạp và vẫy . 4-6th: biết lẫy , chống tay để
nhấc ngực khi nằm sấp, ngồi có sự giúp đỡ .7-9th: ngồi vững không cần tựa. Bò
trườn, đứng vịn.10-12th: đứng vững, biết đi men, một số bé có thể bước đi những
bước đầu tiên .13-15th: đi độc lập ,thích kéo đẩy đồ vật.Về vận động tinh .2-3th:
phản xạ nắm còn tồn tại, bắt đầu nhìn chăm chú vào tay mình .4-6th: tay với đồ vật,
chuyển đồ vật từ tay này sang tay kia, cầm nắm đồ có chủ đích .79th: cầm nắm chính
xác hơn, nhặt vật nhỏ bằng ngón cái và ngón trỏ .10-12th: cầm thìa, nhưng chưa
chính xác, biết bỏ đồ vật vào hộp, chỉ ngón tay, vẫy tay theo yêu cầu .13-15th: biết
vẽ nguệch ngoạc, lật sách,cầm cốc bằng 2 tay...
Đặc điểm trong môi trường vận động ở độ tuổi ấu nhi: Động tác đi ngày càng tiến
bộ, đứa trẻ đã làm chủ được thân thể của mình, những bước đi trở lên mạnh dạn.Trẻ
không những chỉ đi mà còn cả chạy. Trẻ bắt đầu thích phức tạp hóa bước đi của mình
như đi thụt lùi, xoay vòng quanh, nhiều khi còn muốn vượt qua một số đồ vật, lúc
này trẻ rất say mê thựchiện các bài tập do người lớn hướng dẫn. Do đó, nên tận dụng
thời cơ này để tập những động tác vận động khéo léo cho trẻ để việc đi đứng của
chúng được mạnh dạn và linh hoạt hơn. Đi theo tư thế thẳng đứng là một bước tiến
cơ bản nhằm cho trẻ độc lập về mặt sinh học, đồng thời là một bước quan trọng trong
việc biến đứa trẻ trở thành người lớn:Khi đã biết đi, những đồ vật mà trẻ muốn tìm
hiểu trở nên phong phú và đa dạng hơn nhiều, phạm vi của chúng được mở rộng
đáng kể. Nhờ việc đi thành thạo, đứa trẻ thu thập cho mình nhiều kinh nghiệm về
cuộc sống, trẻ biết những khó khăn có thể vấp phải .Ví dụ: như đi xuống bậc thang
mà không vịn vào tường thì dễ ngã, cầm đuôi con mèo mà giật mạnh thì dễ bị nó
cào, đặt chân xuống vũng nước thì bị bẩn…Tóm lại, biết đi là một bước trưởng thành lOMoAR cPSD| 61178690
của trẻ không chỉ về sinh học (cơ thể cứng cáp) và quan trọng hơn cả là về mặt xã
hội. Từ đây đứa trẻ với tư cách là con người thực sự, có tính độc lập trong việc chiếm
lĩnh thế giới đồ vậtvà trong việc giao tiếp với những người xung quanh.cách là con
người thực sự, có tính độc lập trong việc chiếm lĩnh thế giới đồ vật và trong việc
giao tiếp với những người xung quanh.
2.4 Sự khác biệt về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ấu nhi so với trẻ hài nhi:
Trong suốt năm đầu đời, nhu cầu giao tiếp với người lớn của trẻ hài nhi ngày càng
tăng, từ đó thúc đẩy sự hình thành và phát triển khả năng ngôn ngữ. Trẻ bắt đầu bắt
chước những âm thanh trong lời nói của người xung quanh, tạo nên những tiếng bập
bẹ đầu tiên – biểu hiện rõ ràng cho sự chuẩn bị nói. Trong quá trình tương tác, trẻ
thể hiện nhiều sắc thái phản ứng khác nhau: nhoẻn miệng cười khi nghe âm thanh
vui vẻ, hoặc mếu máo nếu âm thanh có tính chất dữ tợn. Ngữ âm trở thành yếu tố
đầu tiên quyết định phản ứng cảm xúc cũng như khả năng tiếp nhận ngôn ngữ của
trẻ. Vào cuối giai đoạn hài nhi, trẻ đã có thể tạo mối liên hệ giữa tên gọi và bản thân
đối tượng; ví dụ, khi người lớn hỏi, trẻ có thể chỉ đúng món đồ được nhắc đến. Đây
chính là hình thức đầu tiên của sự hiểu ngôn ngữ, đánh dấu bước tiến từ giao tiếp
cảm xúc đơn thuần sang giao tiếp có ý nghĩa. Thông qua quá trình tiếp xúc trực tiếp
với người lớn, khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ của trẻ trở nên tích cực hơn, dần
trở thành phương tiện quan trọng để trẻ mở rộng giao tiếp với thế giới xung quanh.
Nếu như trong giai đoạn hài nhi, khả năng ngôn ngữ của trẻ mới chỉ dừng lại ở mức
phản ứng cảm xúc, bắt chước âm thanh và bước đầu hiểu tên gọi đối tượng, thì sang
giai đoạn ấu nhi – đặc biệt từ 2 đến 3 tuổi – ngôn ngữ đã có bước phát triển mạnh
mẽ, trở thành một công cụ giao tiếp chủ động và hiệu quả. Trẻ hai tuổi thường được
ví như “cả nhà học nói”, bởi đây là thời kỳ bùng nổ ngôn ngữ. Khi hoạt động với đồ
vật trở nên phong phú hơn, giao tiếp của trẻ với người xung quanh cũng mở rộng
đáng kể. Từ khoảng 20 tháng tuổi trở đi, trẻ ngày càng mạnh dạn, sáng tạo trong giao
tiếp, tích cực sử dụng lời nói để thể hiện mong muốn, cảm xúc và quan sát thế
giới.Tuy nhiên, trong giai đoạn này, ngôn ngữ của trẻ vẫn mang tính tự trị – tức là
trẻ sử dụng những từ ngữ mà chỉ bản thân và người gần gũi mới hiểu được. Điều này
xuất phát từ việc bộ máy phát âm chưa hoàn thiện và vốn từ còn hạn chế. Trẻ thường
nói các từ đơn lẻ hoặc các cụm từ 2–3 từ, với trật tự từ có thể chưa chính xác. Gần
ba tuổi, trẻ bắt đầu nói được những câu dài hơn, tuy nhiên ngữ pháp vẫn còn sai lệch,
phát âm chưa rõ ràng.Đến khoảng ba tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển vượt bậc: các
hình thức ngữ pháp được mở rộng, câu nói trở nên phong phú và logic hơn. Ngôn
ngữ lúc này không chỉ là phương tiện giao tiếp, mà còn là công cụ để trẻ tư duy, học lOMoAR cPSD| 61178690
hỏi kinh nghiệm xã hội và bộc lộ các chức năng tâm lý. Ý nghĩa của từ ngữ ngày
càng rõ ràng và được mở rộng qua quá trình sử dụng thực tế. Việc trẻ bắt đầu nói
đúng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ chính là biểu hiện của một trình độ phát triển cao trong
tư duy và nhận thức. Dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ, các quá trình tâm lý khác như
tri giác, trí nhớ, tư duy cũng được tổ chức lại và phát triển toàn diện hơn.
*Sự khác biệt về khả năng nghe hiểu lời nói của hai độ tuổi: Ở tháng thứ hai, trẻ hài
nhi đã có thể hướng đầu tới phía nguồn phát ra âm thanh, bắt đầu chú ý đến những
âm thanh quen thuộc. Trẻ bắt đầu biết lắng nghe tiếng trò chuyện quanh mình, và
cũng biết phản ứng lại các âm thanh to và lạ bằng cách giật mình. Trẻ đã có thể bắt
đầu cười ra tiếng khi tiếp xúc với cha mẹ và người thân. Bắt đầu từ 4 tháng tuổi trở
đi, khả năng phản xạ lại âm thanh thu nhận được của trẻ trở nên rõ rệt hơn. Trẻ có
thể tự tạo ra các âm thanh đơn giản của chính mình hoặc đáp lại những âm thanh của
người khác một cách tự nhiên hoặc bằng cử chỉ. Khả năng nghe hiểu lời nói của trẻ
có sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn hài nhi và ấu nhi, phản ánh quá trình phát triển
ngôn ngữ theo chiều hướng từ bị động đến chủ động. Ở giai đoạn hài nhi, trẻ chủ
yếu phản ứng với âm thanh dựa trên cảm xúc. Trẻ có thể quay đầu về phía tiếng
động, mỉm cười khi nghe giọng nói dịu dàng, hoặc khóc khi nghe tiếng quát mắng.
Mặc dù chưa hiểu được ý nghĩa cụ thể của lời nói, nhưng trẻ dần phân biệt được ngữ
điệu, âm sắc và giọng nói quen thuộc của người chăm sóc. Đến cuối giai đoạn này,
trẻ bắt đầu có thể nhận diện tên một số đối tượng quen thuộc khi được nhắc
đến.Trong khi đó, trẻ ở giai đoạn ấu nhi có khả năng nghe hiểu lời nói tiến bộ vượt
bậc. Trẻ không chỉ nhận ra âm thanh và giọng nói, mà còn bắt đầu hiểu được nội
dung, mệnh lệnh đơn giản và câu hỏi quen thuộc từ người lớn. Từ khoảng hai tuổi
trở đi, trẻ có thể phản hồi chính xác với các chỉ dẫn như “lại đây”, “đưa mẹ quả
bóng”, hoặc “con tên gì?”. Càng gần ba tuổi, khả năng hiểu ngôn ngữ càng rõ ràng,
khi trẻ bắt đầu nắm được mối quan hệ giữa các từ trong câu, hiểu được các tình
huống ngôn ngữ phức tạp hơn, và dần nắm bắt được ngữ pháp tiếng mẹ đẻ.
*Sự khác biệt về hoạt động lời nói của hai độ tuổi : Nếu như trẻ hài nhi ngay từ lúc
sinh ra, trẻ đã có thể phát ra những âm thanh nho nhỏ, mặc dù năng lực thính giác
chưa có biểu hiện rõ ràng. Đến tháng thứ hai, trẻ đã có thể bắt đầu phát ra những
tiếng ọ ẹ, hay tạo ra những tiếng kêu khe khẽ thích thú. Bước sang tháng thứ tư, nhìn
chung trẻ đã có thể tạo ra nhiều âm ê a khác nhau, biết nâng cao giọng ê a của mình
một cách tự nhiên. Trẻ bắt đầu biết tập trung chú ý, quan sát tỉ mỉ cử động và hình
dáng miệng của người lớn khi người lớn nói chuyện với trẻ. Tháng thứ năm, trẻ đã
tự mình phát ra được một số âm, chủ yếu là nguyên âm, khi tiếp xúc với người hoặc lOMoAR cPSD| 61178690
vật, hoặc trong lúc chơi một mình.Bước sang tháng thứ sáu, nói chung trẻ đã biết
quay đầu hướng sang phía người gọi tên mình và đã có thể phát ra và lặp đi lặp lại
những âm tiết (chưa có nghĩa) đầu tiên. Bước vào giai đoạn này, những thành tựu
ngôn ngữ mà trẻ có được ở giai đoạn trước phát huy mạnh mẽ. Năng lực nghe và
phát âm của trẻ tiến bộ rõ rệt. Từ những tiếng bập bẹ nói gọi pa pa, ma ma, da da,…
trẻ bắt đầu có những phát triển rõ rệt hơn về mặt ngôn ngữ.Số từ mà trẻ có thể hiểu
có thể lên tới con số hàng trăm, trong đó trẻ dễ phản ứng theo những từ như bà, mẹ,
bố, hôn, thơm, tạm biệt, há miệng, bế, đi chơi, về, đi làm, bú, ti,… Đồng thời, trẻ
cũng đã nhận biết và có phản ứng phù hợp và rõ ràng với những lời nói tích cực (âu
yếm, cưng nựng, cười đùa), những lời nói tiêu cực (tiếng quát mắng, cáu giận) hay
lời nói “không” của cha mẹ.Cuối giai đoạn 6-12 tháng tuổi, trẻ có thể bập bẹ những
âm thanh đầu tiên của ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Những từ đó thường là những từ
bà, mẹ/ mạ, ba, nhăm, măm,… Khi nói ra được những từ như vậy thì trẻ cũng đã bắt
đầu biết kết hợp giữa cử chỉ và ngôn ngữ của mình để thực hiện các yêu cầu đơn
giản.Còn với trẻ ấu nhi , hoạt động lời nói có sự phát triển hơn nhiều , trẻ đã bắt đầu
nhận biết và sử dụng được tên gọi của người quen, đồ vật quen thuộc trong nhà, các
bộ phận cơ thể. Trẻ biết lắng nghe những câu chuyện ngắn, tập trung quan sát cuộc
nói chuyện của người lớn, dễ dàng lặp lại những từ nghe lỏm được. Trẻ có thể nghe
theo các chỉ dẫn, hiệu lệnh đơn giản mà không cần có cử chỉ hay hành động đi kèm.
Cuối giai đoạn, trẻ có thể tự đặt những câu hỏi như cái gì? đi đâu?… Bước sang tuổi
thứ hai, trẻ bước sang giai đoạn bùng phát về mặt ngôn ngữ trên cả phương diện từ
vựng lẫn phương diện tổ chức ngôn ngữ. Cũng bắt đầu từ đây, cá tính của mỗi đứa
trẻ đã được bộc lộ. Ở giai đoạn này, trẻ học từ mới rất nhanh. Năng lực sử dụng từ
ngữ cũng được cải thiện đáng kể, có thể gây ngạc nhiên cho người lớn. Trẻ không
chỉ học cách gọi tên sự vật, hiện tượng, mà còn học cả những từ chỉ quan hệ ngữ
pháp (cái, của, rồi, chưa, à,…). Trẻ thường xuyên nói chuyện một mình, nói chuyện
với đồ chơi, quan sát và bắt chước lời nói của người lớn (cũng như bắt chước làm
theo việc người lớn làm).Đến ba tuổi, trẻ có thể có 1.000 từ. Câu nói của trẻ dài năm
– sáu âm tiết, thậm chí chín – mười âm tiết. Năng lực và nhu cầu thực hiện các hành
động ngôn ngữ tăng lên đáng kể – các nhu cầu, mong muốn của trẻ đều có thể được
thể hiện trực tiếp bằng các hành động ngôn ngữ (Con muốn uống. Đái tè…). Trẻ có
thể hiểu, nhớ và làm theo một số mệnh lệnh đơn giản liên tiếp (đi ra ngoài, đóng cửa;
bê ghế, ngồi vào bàn,…).
2.5 Sự khác biệt về sự phát triển trí tuệ của trẻ ấu nhi so với trẻ hài nhi: lOMoAR cPSD| 61178690
*Sự khác biệt về khả năng tri giác của hai độ tuổi:Ở tuổi hài nhi ,trẻ đã bắt đầu tri
giác thuộc tính của đồ vật xung quanh ,nắm được những mối liên hệ đơn giản nhất
giữa những đồ vật đó và đã bắt đầu sử dụng mối liên hệ này trong các hành động
chơi nghịch của mình .Vào tuổi ấu nhi ,việc nắm vững hoạt động với đồ vật và mở
rộng giao tiếp bằng ngôn ngữ với những người xung quanh ,tạo điều kiện cho trẻ ấu
nhi phát triển trí tuệ một cách mạnh mẽ. Đầu tuổi ấu nhi, khả năng tri giác của trẻ
còn hết sức sơ sài, mới chỉ nhận được các dấu hiệu nào đó của đồ vật đang đập vào
mắt rồi căn cứ vào dấu hiệu đó để nhận biết các đối tượng, đó chỉ là dấu hiệu bên
ngoài mang tính chất ngẫu nhiên và còn mơ hồ. Tri giác của trẻ được tinh vi, đầy đủ
dần chính là nhờ trẻ được hoạt động với đồ vật, nhất là hành động công cụ và hành
động thiết lập các mối tương quan. Trong khi hành động với một đồ vật nào đó để
lĩnh hội phương thức sử dụng nó, đồng thời cũng tri giác được kích thước và hình
dạng của nó.Việc nắm vững hành động định hướng bên ngoài không diễn ra ngay
lập tức mà phụ thuộc vào sự dạy dỗ của người lớn. Nếu trẻ được người lớn hướng
dẫn sử dụng các đồ chơi được chế tạo, sao cho trong cấu tạo của chúng đã chứa sẵn
các thao tác lắp ráp các bộ phận với nhau buộc trẻ phải so sánh, đối chiếu, lựa chọn
sao cho phù hợp, nếu không sẽ không đưa đến một kết quả nào hết, chẳng hạn trẻ
phải lắp ráp các bộ phận đầu cá, mình cá, đuôi cá, vây cá để hình thành một con cá,
hay xếp các hình tương ứng vào hộp.Từ sự đối chiếu, so sánh các thuộc tính của các
đối tượng bằng các định hướng bên ngoài, trẻ chuyển sang so sánh, đối chiếu các
thuộc tính của đối tượng bằng mắt. Hành động định hướng bằng mắt cho phép trẻ
tích luỹ được khá nhiều biểu tượng về các đối tượng trong hiện thực và được ghi lại
trong ký ức, biến thành các mẫu để so sánh với các đồ vật khác trong khi tri giác
chúng. Chẳng hạn tri giác các đồ vật có hình tam giác trẻ nói là: “giống cái nhà”,
những đồ vật có hình tròn trẻ nói “giống quả bóng”, những đồ vật hình bầu dục trẻ
nói “giống quả dưa chuột”, những đối tượng có màu đỏ trẻ nói “giống cờ”, những
đối tượng có màu xanh trẻ nói “giống cỏ”.vv…Việc tích luỹ các biểu tượng bằng
thuộc tính của các đồ vật tuỳ thuộc vào mức độ trẻ làm chủ được sự định hướng bằng
mắt trong quá trình hành động với đồ vật. Nghe độ cao của âm thanh tức là tri giác,
mối quan hệ giữa các âm thanh theo độ cao cũng được phát triển tốt ở trẻ ấu nhi,
nhưng với điều kiện có sự giáo dục chu đáo, cần giúp trẻ tri giác những âm thanh có
độ cao khác nhau, bằng các bài hát đơn giản và hấp dẫn, và chỉ cho trẻ biết những
âm thanh có độ cao khác nhau phát ra từ những đối tượng quen thuộc, như con gà
gáy “ò,ó,o”, hay con vịt kêu “cạc, cạc, cạc”. Những đồ chơi phát ra âm thanh cũng lOMoAR cPSD| 61178690
hấp dẫn trẻ chú ý lắng nghe, cần khuyến khích trẻ gõ trống, rung lục lạc hay nhún
nhảy theo nhạc để phát triển khả năng tiết tấu.
*Sự khác biệt về tư duy của hai độ tuổi: Cuối tuổi hài nhi ở nhiều trẻ đã xuất hiện
nhhững hành động có thể coi là mầm mống của tư duy, trẻ biết sử dụng mối lên hệ
giữa đối tượng để đạt tới mục đích, chẳng hạn kéo cái rổ để lấy quả cam đựng trong
đó.Điều quan trọng trong tuổi ấu nhi là trẻ học được những hành động xác lập mối
quan hệ giữa các đồ vật để giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn nào đó. Việc đó chỉ có
thể thực hiện được trong khi hoạt động với đồ vật nhờ sự giúp đỡ của người lớn.
Người lớn đưa ra những mẫu hành động cho trẻ bắt chước. Việc chuyển từ việc biết
sử dụng các mối liên hệ có sẵn hay những mối liên hệ do người lớn chỉ ra sang biết
xác lập những mối liên hệ mới giữa các đối tượng là một bước rất quan trọng đối với
sự phát triển tư duy của trẻ em. Tư duy của trẻ được thực hiện nhờ những hành động
định hướng bên ngoài gọi là tư duy trực quan - hành động . Trẻ ấu nhi sử dụng tư
duy trực quan - hành động để “nghiên cứu” những mối liên hệ muôn màu muôn vẻ
trong thế giới đồ vật xung quanh. Loại tư duy này chỉ được hình thành trong quá
trình trẻ em hoạt động với đồ vật, chủ yếu qua các hành động cụ thể xác lập những
mối tương quan, nhờ sự hướng dẫn của người lớn.Cuối tuổi ấu nhi, trên cơ sở tư duy
trực quan hành động đang phát triển mạnh, bắt đầu có sự xuất hiện một số hành động
tư duy được thực hiện trong óc, không cần những phép thử bên ngoài. Chẳng hạn
sau nhiều lần dùng que để khều các đồ vật nào đó từ xa đến gần, do hành đông ngẫu
nhiên của trẻ hay hành động mẫu mà người lớn bày cho trước đây thì bây giờ trước
tình huống mới : Quả bóng bị lăn vào gầm giường trẻ có thể dự đoán đoán là dùng
que để khều quả bóng ra. Sự dự đoán này là phép thử được tiến hành trong óc. ản
nhất, còn chủ yếu là thực hiện tư duy trực quan - hành động. Mặc dù mới dừng ở
trực quan - hành động nhưng tư duy của trẻ đã đạt tới những khái quát ban đầu mang
tính độc đáo. Khi quan sát hiện tượng xung quanh trẻ ấu nhi chỉ chú ý đến những
thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng trực tiếp đập vào mắt, và nhận ra sự giống
nhau về các thuộc tính bề ngoài của các sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn một em bé
20 tháng gọi tất cả các con vật như : chó, thỏ … đều là “mèo”, vì chúng có lông
giống nhau, thậm chí có đứa trẻ còn gọi tóc và râu của bố là “mèo”, đứa trẻ gọi tất
cả các loại hoa quả đều là “cam” dù đó là quýt, táo hay mắc cọp ..chỉ vì chúng có
hình tròn.Trong sự hình thành những khái quát ban đầu tức là sự hợp nhất trong óc
các đồ vật, những hành động có dấu hiệu bề ngoài giống nhau, thì việc lĩnh hội các
từ giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi vì ý nghĩa của từ mà người lớn dạy cho trẻ luôn
luôn dùng với ý nghĩa khái quát. Chẳng hạn trẻ học từ “Đồng hồ” lúc thì để chỉ đồng lOMoAR cPSD| 61178690
hồ đeo tay, lúc để chỉ đồng hồ báo thức hay đồng hồ treo tường, mặc dù trẻ hiểu
nghĩa của từ còn mơ hồ và còn khác xa với ý nghĩa mà người lớn hiểu. -Việc hướng
dẫn và làm mẫu của người lớn giúp trẻ dần dần nhận ra có một tên gọi chung cho
nhiều đồ vật có cùng công dụng. Tuy vậy, những đồ vật có cùng một công dụng
nhưng lại có thuộc tính bên ngoài hết sức khác nhau (Chẳng hạn như các loại bình
hoa với những hình dáng, màu sắc, chất liệu khác nhau) thì trẻ rất khó nhận thấy
rằng chúng có cái gì đó chung để gọi bằng một từ giống nhau. Nếu trẻ tích cực hoạt
động với đồ vật với sự giúp đỡ của người lớn. Khi nắm được phương thức sử dụng
các đồ vật thì lúc đó trẻ mới khái quát hoá được đồ vật theo chức năng của chúng.
Nếu người lớn dạy cho trẻ xúc cơm bằng các loại thìa khác nhau (thìa canh, thìa cà
phê, thìa nông, thìa sâu, thìa ngắn, thìa dài, thìa sứ, thìa nhôm, thìa nhựa….) thì trẻ
sẽ rất nhanh chóng nắm được các chức năng chung của thìa.Trong khi hoạt động với
đồ vật, đặc biệt là khi thực hiện những hành động công cụ, không những trẻ nhận ra
những chức năng chung của các đồ vật mà còn nhận ra rằng có nhiều hành động với
các công cụ khác nhau nhưng lại có cùng một mục đích. Chẳng hạn như khi trẻ đã
biết sử dụng gậy để khều một vật nào đó ở xa đến gần, thì sau đó rơi vào một tình
huống mới; Muốn lấy quả bóng ở trong gầm giường mà quanh đây lại không có một
cái gậy nào cả, nhưng lại thấy có cái chổi dài ở cạnh đấy, đứa trẻ lấy ngay cái chổi
thay cho cái gậy để khều quả bóng. Qua việc này, trẻ đã hiểu thêm rằng hành động
dù là bằng gậy hay bằng chổi nhưng nếu có mục đích là lấy cho được một vật từ xa
lại gần thì đều giống nhau và đều gọi chung là từ “khều”.Như vậy, là sự khái quát
các đồ vật theo chức năng của chúng đầu tiên xuất hiện trong hành động với đồ vật
thì sau đó được củng cố trong từ ngữ. Những đồ vật - công cụ trở thành những yếu
tố đầu tiên chứa đựng sự khái quát, nhưng chỉ khi đứa trẻ biết hành động với những
đồ vật đó theo phương thức sử dụng nó (tức là biết thực hiện những hành động công
cụ) thì mới thực sự lĩnh hội được ý nghĩa khái quát của nó. Cuối tuổi ấu nhi, bên
cạnh tư duy trực quan - hành động có xuất hiện kiểu tư duy trực quan - hình tượng,
tức là các bài toán trong óc dựa vào các biểu tượng đã tích luỹ được. Tuy vậy, kiểu
tư duy này còn hết sức đơn sơ và chỉ xuất hiện trong những trường hợp bài toán được
đặt ra cho trẻ một cách hết sức đơn giản.
2.6 Sự xuất hiện tiền đề của sự hình thành nhân cách - nét tâm lí mới của trẻ ấu
nhi so với trẻ hài nhi.
Nếu trong tuổi hài nhi người lớn có thể áp đặt cho trẻ chế độ sinh hoạt hàng ngày
(ăn, ngủ, tắm, chơi) thì sang tuổi ấu nhi đã có lúc trẻ không ngoan ngoãn phục tùng
người lớn. Có nghĩa là người lớn không còn hoàn toàn chỉ huy được hành vi của trẻ lOMoAR cPSD| 61178690
nữa. Đó là do trẻ đã xuất hiện một thế giới bên trong riêng.Lên hai tuổi, trẻ đã có
hành động không chỉ dưới ảnh hưởng của những ấn tượng trực tiếp bên ngoài mà
còn dưới ảnh hưởng của mô hình được giữ lại trong trí nhớ. Suốt thời kỳ này, trí nhớ
bắt đầu đóng vai trò quan trọng, sự tham gia của trí nhớ vào các quá trình tâm lý đã
làm cho thế giới bên trong được hình thành và hành vi của trẻ cũng được cải thiện.
Trí nhớ lúc này giúp cho trẻ tìm thấy vị trí của mình không những trong thế giới đồ
vật và những người xung quanh, mà còn bắt đầu nhận ra mối quan hệ giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai nữa.Nhưng ngay từ đầu tuổi ấu nhi đã có sự hình thành những
biểu tượng ổn định về các đối tượng, nên ở nó đã xuất hiện những ý muốn gắn liền
với đối tượng mà trẻ nhớ lại, mặc dù nó không nhìn thấy đối tượng đó trước mặt.
Điều đó có nghĩa là hành động của trẻ đã bị thế giới nội tâm ở đây là các biểu tượng
chi phối. Chẳng hạn cháu bé 18 tháng được đón từ nhà trẻ về là lập tức chui vào gầm
giường để tìm cho được quả bóng mà cháu vẫn chơi lúc ở nhà.Trong tuổi hài nhi, trẻ
bắt đầu có tình yêu đối với những người gần gũi như bố, mẹ, anh chị, ông bà. Bước
sang tuổi ấu nhi tình yêu lại có thêm hình thái mới. Đứa trẻ mong được người lớn
khen ngợi, âu yếm và rất sợ khi người lớn tỏ ra không bằng lòng.Tất nhiên sự phát
triển tính tự trọng, tự hào và xấu hổ không có nghĩa là trẻ đã điều chỉnh được một
cách thường xuyên hành động của mình dưới ảnh hưởng của các tình cảm đó.Trong
tuổi ấu nhi khả năng tự điều khiển hành vi của mình còn rất hạn chế. Trẻ còn rất khó
khăn khi phải kiềm chế nếu không được thoả mãn một nhu cầu nào đó và càng khó
khăn hơn khi phải làm một việc mà nó không muốn làm, mặc dầu đã được gợi ý.
3. Các biện pháp phát triển tâm lí trẻ ấu nhi
3.1 Các biện pháp tổ chức hoạt động với đồ vật phù hợp với nhu cầu,
hứng thú và khả năng của trẻ ấu nhi (ý nghĩa của biện pháp; nội dung và cách tiến hành).
*Ý nghĩa của biện pháp hoạt động với đồ vật : Hoạt động với đồ vật là hoạt động
chủ đạo của trẻ ấu nhi bởi lẽ hoạt động này gây ra những biến đổi về chất, tạo nên
nét tâm lí mới, có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển tâm lí và nhân cách của
trẻ ấu nhi đồng thời là tiền đề cho hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo. Thông
qua hoạt động với đồ vật, trẻ biết được tên gọi của đồ vật (cái gì?), biết được đặc
điểm, tính chất (màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị...) và cộng dụng của đồ vật
ấy (đồ vật dùng để làm gì?)... Đặc biệt quan trọng hơn cả là thông qua quá trình hoạt
động với đồ vật, trẻ nắm được phương thức (cách) hoạt động với đồ vật theo kiểu
người. Tuy nhiên, lúc đầu trẻ cũng hành động lung tung như lấy thìa gõ vào mâm lOMoAR cPSD| 61178690
cơm, ném cốc, bát xuống nền nhà, nhưng lập tức ngay sau đó trẻ sẽ tỏ vẻ bối rối, sợ
hãi vì nó hiểu rằng như vậy đã phạm đến qui tắc đối xử với đồ vật mà mọi người đều
phải tuân theo. Ở giai đoạn này nếu được luyện tập thường xuyên, trẻ sẽ biết cách
sử dụng một số loại công cụ và có khả năng thực hiện được cả những động tác phức
tạp. Một khi đã nắm được nguyên tắc sử dụng công cụ , trẻ có thể bước vào thế giới
vận dụng của con người. Để trẻ nắm được cách sử dụng công cụ thành thạo đòi hỏi
pahir có quá trình tiếp xúc, được hành động với đồ vật. Đặc biệt, trong quá trình thao
tác với đồ vật, nếu có sự hướng dẫn của người lớn (bố mẹ, giáo viên) thì trẻ sẽ phát
triển tốt hơn. Như vậy, thông qua hoạt động với đồ vật dưới sự giúp đỡ của người
lớn, trẻ chiếm lĩnh được cái và cách, có nghĩa là trẻ chiếm lĩnh được những kinh
nghiệm lịch sử xã hội loài người chứa đựng trong thế giới đồ vật. Vì thế có thể nói,
hoạt động với đồ vật đã tạo ra những nét tâm lý mới đặc trưng cho độ tuổi ấu nhi.
Mặt khác trong quá trình hoạt động với đồ vật, trẻ có được các biểu tượng về thế
giới đồ vật xung quanh cùng với các kĩ năng thao tác với đồ vật đó. Chẳng hạn như
kĩ năng chăm sóc búp bê, bắt chước một số hành động thường ngày của người lớn-
điều này rất cần cho trẻ nhập vai trong trò chơi đóng vai ở độ tuổi mẫu giáo tiếp
theo.Khi hoạt động với đồ vật, các giác quan của trẻ dần được luyện tập và phát
triển. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển quá trình tư duy và tưởng tượng của trẻ
ở cuối độ tuổi ấu nhi, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ nhập vai và phần nào hành động
tương ứng với vai của mình đảm nhận trong trò chơi mô phỏng sinh hoạt hàng ngày
của người lớn xung quanh. Từ đó có thể nói hoạt động với đồ vật là tiền đề cho trò
chơi đóng vai ở độ tuổi mẫu giáo. Hoạt động với đồ vật là phương tiện giáo dục cho
trẻ bởi hoạt động với đồ vật có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển vận động
khéo léo, linh hoạt của bàn tay và ngón tay của trẻ tuổi nhà trẻ. Nhờ hoạt động với
đồ vật, từ chỗ trẻ biết cầm nắm đồ vật bằng cả bàn tay còn rất vụng về đến chỗ trẻ
biết thao tác với đồ vật một cách khéo léo, linh hoạt hơn (nhặt đồ chơi, tháo lắp vòng,
đóng mở nắp hộp, xếp hình...). Có thể nói, hoạt động với đồ vật là mảnh đất đầu tiên
để cho trẻ được luyện tập sự khéo léo, tinh tế của bàn tay và ngón tay. Hoạt động với
đồ vật là con đường đầu tiên giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội loài người. Thông qua hoạt động với đồ vật, trẻ được tạo điều kiện để
phát triển các giác quan, đặc biệt là thị giác, thính giác, xúc giác... và phát triển sự
phối hợp giữa thính giác và thị giác cho trẻ. Hoạt động với đồ vật, đồ chơi còn góp
phần phát triển tâm lý trẻ nói chung. Đó là sự phát triển các quá trình tâm lý nhận
thức như: cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ, tưởng tượng và ngôn ngữ của trẻ. Mặt
khác, thế giới đồ vật muôn hình muôn vẻ về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm lOMoAR cPSD| 61178690
thanh luôn luôn đem đến cho trẻ sự vui mắt, thích thú, tạo cho trẻ tình cảm, xúc cảm
tích cực.Như vậy, hoạt động với đồ vật là một trong những hoạt động cơ bản của trẻ
ở trường mầm non. Nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ,
nó đem đến sự phát triển về các mặt: thể chất, tâm lý- xã hội cho đứa trẻ ở giai đoạn
này. Để phát huy được vai trò, ý nghĩa của hoạt động với đồ vật, giáo viên cần nắm
vững nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức nhằm phát huy tối đa tính tích cực,
sáng tạo của trẻ trong quá trình thao tác với đồ vật, đồ chơi.
*Nội dung: Trò chơi thao tác với đồ vật, đồ chơi :Trò chơi nhận biết-phân biệt màu
sắc, hình dạng và kích thước đồ vật. Ví dụ: Trò chơi dạy trẻ nhận biết 3 màu (xanh,
đỏ, vàng); Trò chơi phân biệt hình dạng (tròn, vuông); Trò chơi phân biệt kích thước
(to - nhỏ). Từ những hình khác nhau có thể xếp bàn, ghế, nhà, giường, bộ xa lông,
chuồng, cổng, nhà và cổng, con đường, hàng rào, bậc thang v.v... Từ những hột hạt,
hoa lá trẻ có thể xâu được nhiều chuỗi hạt, vòng...Các trò chơi vận động có chủ đề
Trò chơi vận động có chủ đề (bịt mắt bắt dê, chim sẻ mèo con, trời nắng trời mưa
v.v...). Trò chơi vận động không có chủ đề (trò chơi tập các vận động trườn, bò ...).
Trò chơi với các dụng cụ thể thao (cầu trượt, thanh lao, bập bênh ...) .Trò chơi - sinh
hoạt cho trẻ (trò chơi mô phỏng) .Trong năm thứ ba, trẻ vẫn thích chơi với đồ chơi,
từ các thao tác sờ mó đồ vật dần dần chuyển sang các thao tác vui. *Cách tiến hành
:Căn cứ vào mức độ khó, dễ của các nội dung và khả năng của trẻ trong lớp mà giáo
viên quyết định số lần hoạt động cho mỗi nội dung. Các nội dung này còn được ôn
luyện, củng cố trong hình thức hoạt động tự do với đồ vật. Thời gian của mỗi buổi
hoạt động khoảng 8- 10 phút đối với trẻ 12- 18 tháng tuổi, 10- 12 phút đối với trẻ
18- 24 tháng tuổi Thời gian: 10 – 15 phút Số lượng trẻ: 1 nhóm Các bước tổ chức
hoạt động với đồ vật có chủ đích: ổn định trẻ, gây hứng thú với hoạt động. Cô hướng
dẫn mẫu. Trẻ hoạt động kết thúc .HĐ tự do với đồ vật là hình thức tổ chức cho trẻ
HĐVĐV theo nhu cầu, sở thích và hứng thú của trẻ. Mục tiêu: mở rộng, phức tạp
hóa, củng cố, ôn luyện những nội dung hoạt động với đồ vật đã được tiến hành ở
hình thức chơi tập có chủ đích. Nội dung: có nhiều nội dung hoạt động, mỗi buổi
chơi có thể tổ chức 3,4 hoặc 5 nội dung tuỳ thuộc vào số trẻ trong lớp. Nội dung hoạt
động tự do với đồ vật là những nội dung trẻ đã được chơi trong các giờ hoạt động
với đồ vật có chủ đích.
3.2 Các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ ấu nhi phù hợp với đặc
điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ ấu nhi