Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 28 | Ngữ văn 11 Kết nối tri thức

Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 28 Kết nối tri thức được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để soạn bài 11 Kết nối tri thức. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Củng cố, mở rộng
Câu hỏi 1. Hãy giới thiệu vị trí, nội dung và đặc điểm nghệ thuật của một
đoạn trích trong Truyện Kiều do bạn tự chọn.
Bài làm
Kiều ở lầu Ngưng Bích
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau
khi bị Giam Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú mắng nhiếc, Kiều nhất
quyết không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, nàng
định tự vẫn, sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải đưa nàng ra sống
riêng lầu Ngưng Bích với lời hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng
cho người tử tế nhưng thực chất giam lỏng nàng đthực hiện âm mưu
mới đê tiện và tàn bạo hơn
Nội dung: Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ đơn, buồn tủi,
đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết tấm lòng thủy chung, hiếu
thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích
Nghệ thuật: Đoạn trích thành công nghệ thuật miêu tả nội m đặc sắc
với t pháp tả cảnh ngụ tình được coi là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều,
phép điệp cấu trúc.
Câu hỏi 2. Trong Kim Vân Kiều truyện, sự kiện Thúy Kiều trao duyên
cho Thúy Vân được Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả Hồi thứ tư. Hãy tìm
đọc hồi truyện này chỉ ra một số điểm khác biệt giữa Nguyễn Du với
Thanh Tâm Tài Nhân trong cách miêu tả sự kiện trao duyên.
Bài làm
Nguyễn Du chỉ dùng hơn 20 câu thơ để miêu tả diễn biến tâm trạng trao
duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân hết sức đặc sắc. Thanh Tâm Tài Nhân
sử dụng riêng 1 hồi để miêu tả lại cảnh ấy.
Câu hỏi 3. Các văn bản đọc Bài 6 (Tác gia Nguyễn Du, Trao duyên -
trích Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí) đã giúp bạn hiểu gì về những giá
trị đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Du?
Bài làm
Những giá trị nghệ thuật trong di sản văn học của Nguyễn Du, đặc biệt là
tác phẩm Đoạn trường tân thanh (mà chúng ta quen gọi Truyện Kiều)
của ông kết qutài năng xuất chúng của nhân Đại thi hào, nhưng
cũng là kết tinh của tiến trình mấy nghìn năm phát triển của văn hóa, văn
học dân tộc kết hợp với những thành tựu của văn hóa khu vực Đông Á
Đông - Nam Á...
Những giá trị văn hóa kiệt xuất ấy thuộc về nhân dân, thuộc về dân tộc và
thuộc về nhân loại, sẽ trường tồn cùng thời gian. Có được điều đó bởi sự
nghiệp văn học mà Nguyễn Du để lại cho nhân loại với những tập thơ chữ
Hán đầy chất suy tư, trắc ẩn, chứa đựng những giá trị hiện thực lớn lao
của cả một thời đại như Bắc hành tạp lục, Thanh Hiên thi tập, Nam trung
tạp ngâm, bài Văn tế thập loại chúng sinh khóc thương cho thân phận
chúng sinh, cho những con người bất hạnh trong hội như các em bé m
côi không nơi nương tựa, các gái m nghề kỹ nữ và bao kiếp người
đau khổ khác…
Đặc biệt, Truyện Kiều bất hủ thể hiện một cách sinh động chủ nghĩa nhân
đạo cao cả, lòng thương yêu con người tha thiết, ca ngợi vđẹp thchất
và tâm hồn con người, khát vọng giải phóng họ khỏi sự áp bức, bất công,
vươn tới tự do, bình đẳng, hạnh phúc.
Những tác phẩm ấy đã tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, vẻ đẹp của
thơ ca, của cốt cách tâm hồn Việt Nam, khẳng định vị trí số một của
Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc từng bước chiếm lĩnh văn đàn
thế giới như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nhân loại.
Nguyễn Du từng đi sứ sang Trung Hoa, quê hương của Nho giáo trên
con đường thiên đầy hiểm nguy, trắc trở nơi xứ người, ông đã thấu triệt
chân lý: nơi đâu thì những người dân lành, đặc biệt người phụ nữ,
người tài hoa đều số phận đau khổ giống nhau, họ đều phải chịu biết
bao sự đọa đày, bóc lột từ những kquyền lực trong một thể chế bộc
lộ bản chất phi nhân tính.
Ông yêu thương, xót xa cho họ và viết lên những tác phẩm bất hủ sức
mạnh tố cáo mãnh liệt cũng chứa đựng những tình cảm yêu thương
mãnh liệt.
Trong ông, những giáo điều mang tính sách vở đã dần tan vỡ trước thực
tế khắc nghiệt; đã lớn dậy một tình yêu thương nhân loại sâu thẳm. Tình
yêu thương ấy không chỉ dành cho những sinh linh đất Việt cho cả
những con người bất hạnh khốn cùng nơi Trung Hoa bạt ngàn gió bão,
cho cả nhân loại chúng sinh.
Nguyễn Du là một nhà tư tưởng lớn và ở ông có nhiều nhận thức mới mẻ
đi trước thời đại, đặc biệt tập trung trong những giá trị nhân văn nổi bật
của các tác phẩm, trong vấn đề thay đổi nhận thức về thực trạng tư tưởng
và thực trạng xã hội...
Đoạn trường tân thanh được viết bằng truyện thơ Nôm - một thể loại văn
học thuần túy dân tộc, nguồn gốc sâu xa từ truyện thơ dân gian đã được
bác học hóa và là sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du, của văn học thế kỷ
XVIII - XIX. Thể thơ mà Nguyễn Du lựa chọnlục bát, cũng là một thể
thơ thuần túy dân tộc, đã tồn tại trong văn học dân gian từ lâu đời, là hình
thức thể hiện của những bài ca dao, dân ca làm say lòng người trong các
lễ hội dân gian trải dài khắp mọi miền đất nước. Nhưng ng chính thể
thơ lục bát qua n tay thiên tài của Đại thi hào đã được gọt rũa thành
những viên châu ngọc ngời sáng vẻ đẹp dân tộc.
Lục bát, ca dao, dân ca sau Truyện Kiều đã trở thành một thứ lục bát, ca
dao, dân ca đẹp hơn, dân tộc hơn, vừa cao sang, vừa gần gũi. Với Truyện
Kiều, Nguyễn Du trở thành người “phục hưng” những giá trị văn hóa, văn
học mang tính bản địa của dân tộc, và ông phát triển đến đỉnh cao những
thành tựu tinh thần này, khiến chúng trở thành bản sắc của văn học Việt
Nam trong khu vực và thế giới.
Số phận con người, cũng như sự phê phán những mặt trái, hạn chế của
chế độ phong kiến, đã trở thành vấn đề cấp bách, được đặt ra một cách
đầy gay gắt trong sáng tác của nhà thơ. Con người với thế giới m hồn
phong phú, với đời sống nội m sâu sắc, phức tạp thân phận bi kịch
của họ được Nguyễn Du khám phá, phát hiện những tầng bậc sâu xa
nhất. Ông trở thành một trong srất ít nghệ bậc thầy trên thế giới v
nghệ thuật miêu tả tâm lý.
Đại thi hào cho chúng ta thấy nỗi đau tinh thần, sự giằng xé trong nội tâm
con người còn đớn đau, vật hơn nhiều so với nỗi đau thể xác. Đây
một trong những thành tựu nghệ thuật hết sức to lớn của văn học dân tộc
mà Nguyễn Du là tiêu biểu.
Lòng thương xót, sự cảm thông, việc đề cao nhân cách, tài năng của người
phụ nữ được Nguyễn Du kế thừa từ tinh thần nhân văn của văn hóa dân
tộc mà truyền thống tôn trọng người phụ nữ, tín ngưỡng thờ mẫu đề cao
vai trò người mẹ là những giá trị tiêu biểu.
Những giá trị nhân văn trong các tác phẩm của Nguyễn Du còn được Đại
thi hào kế thừa từ tinh thần nhân đạo dân chủ của văn hóa, văn học dân
gian, từ các giá trị nhân bản của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo từ tín
ngưỡng, phong tục, tập quán dân tộc.
Tuy nhiên, nhà thơ không chỉ kế thừa mà đã nâng các giá trị nhân văn đó
lên một bước mới, đem lại cho giá trị nhân loại. Nhân vật Thúy Kiều
trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du thể hiện vẻ đẹp tâm hồn
những phẩm chất truyền thống cao quý của người phụ nữ Việt Nam như
tấm lòng thủy chung son sắt, sự nết na, thùy mỵ, bản lĩnh và nghị lực, thái
độ coi trọng nhân cách, coi trọng sự trắng trong của tâm hồn và thể xác...
Nguyễn Du ca ngợi tài năng đặc biệt của Kiều - những thứ tài không
những không được người đời chấp nhận còn bị khinh rẻ, dập vùi. Sự
tài hoa trở thành tiêu chí của cái đẹp, cái thẩm mỹ. Ông không xây dựng
nhân vật của mình thành một thánh nữ. Thúy Kiều của Nguyễn Du hết
sức đời thường, gần gũi, như bước vào trang sách từ chính cuộc đời thực.
Khác với quan niệm của Nho giáo, Nguyễn Du thông qua các tác
phẩm của mình cho chúng ta thấy chính tình yêu thương, trong đó tình
yêu đôi lứa, đã cảm hóa con người, làm con người trở nên nhân đạo hơn,
tốt đẹp hơn. Thúy Kiều của Nguyễn Du trong những giờ phút khắc nghiệt
nhất của cuộc đời đã nghĩ đến mối tình đầu với Kim Trọng điều đó
giúp nàng vượt lên khỏi cái chết, sự đau khđtiếp tục sống giữ gìn
nhân phẩm của mình.
Quan niệm của Nguyễn Du về chữ “trinh”, vnhân cách con người thật
mới mẻ, nhân đạo, phá vỡ những chuẩn mực đạo đức giáo điều xa rời thực
tế của tưởng chính thống. Thiên nhiên trong Đoạn trường tân thanh
các đoạn miêu tả tình yêu đôi lứa đều hết sức đẹp đẽ, rung động bởi
mang tâm trạng và niềm vui của con người.
Khát vọng tự do, công lý, khát vọng chính nghĩa đều là những chủ đề lớn
của văn học thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX được thể hiện một cách
mãnh liệt trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đặc biệt qua hai
nhân vật Từ Hải Thúy Kiều. Những khát vọng đó cũng khát vọng
của bao đời, được thể hiện một cách mãnh liệt trong văn học dân gian
trong văn học viết dân tộc, được thể hiện một cách i hoa trong tác phẩm
của Đại thi hào.
Câu hỏi 4. Truyện Kiều đã nhiều lần miêu tả cảnh Thúy Kiều đánh đàn.
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) bình luận về tiếng đàn của Thúy
Kiều trong một lần được Nguyễn Du miêu tả.
Bài làm
Tiếng đàn một ngôn ngữ đặc biệt biểu hiện trực tiếp tâm trạng nạn nhân
của Kiều.Cảm hứng bi kịch thích hợp với tiếng đàn nên Từ Hải không
được nghe đàn lần nào mặc dù Từ tri âm tri kỷ. Sống với Từ Hải phần
nạn nhân trong tâm hồn Kiều coi nbị tiêu vong nên khúc “Bạc mệnh”
kia không còn do tồn tại. Từ Hải chết, con người nạn nhân trong Kiều
sống lại ddội nên tiếng đàn cũng ùa trở về với một sắc thái bi thảm chưa
từng thấy. Tiếng đàn là ngôn ngữ không biết nói dối. Tiếng đàn không hề
chức năng che dấu tâm trạng mà chức năng giải tỏa tâm trạng,
một phép mầu nhiệm khiến cho ngay cả khi cất lên tiếng ca vui
đầm ấm dung hòa” mà một kẻ như Hồ Tôn Hiến cũng thấu hiểu được tâm
trạng đó là muôn oán nghìn sầu”, buồn thấm thía. Khi xuất hiện trước
Kim Trọng, tính chất nạn nhân của bộc lộ theo một kiểu khác, không
phải để nguyền rủa để tố cáo, để lên án, nên cái anh chàng Kim Trọng mới
có lúc bị lừa:
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
Anh ta bị Nguyễn Du “tiêm” thứ thuốc ởng hóa vào để lừa đấy
thôi, lúc ấy mà anh ta còn nghe thấy tiếng nói nạn nhân nữa thì đoạn đoàn
viên như thế hỏng bét! lẽ sự lạc quan của Kim Trọng cũng một
cách “chiêu tuyết” cho Kiều chăng? Ngày xưa, anh ta tri âm của Kiều,
chính Kiều cũng công nhận (“Đã cam tệ với tri âm bấy chầy”), nhưng bây
giờ đoàn viên thì anh ta không còn tri âm nữa. Bởi đôi tai của con
người kiểu Kim Trọng vốn như thế, nó quá tinh đến nỗi nghe được
những âm vang từ một cõi siêu hình tai trần không nghe thấy được,
nhưng nó lại cố điếc đến nỗi không nghe thấy những âm vang từ cuộc đời
“quằn quại vũng lầy” mà ai cũng thấy văng vẳng bên tai. Vì vậy, khi con
người nạn nhân của Kiều đã nhiễm những kinh nghiệm thực tiễn thì nó
mất đi một tri âm tự nguyện Kim Trọng thêm vào những kẻ tri âm
bất đắc dĩ là Hoạn Thư và Hồ Tôn Hiến.
Câu hỏi 5. Viết bài văn ngắn giới thiệu một bài thơ chữ Hán của Nguyễn
Du. Sử dụng bài viết để lập dàn ý cho bài nói (Giới thiệu một bài thơ chữ
Hán theo lựa chọn cá nhân).
Bài làm
Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài thơ, tập thơ chữ Hán đầu tiên của
Nguyễn Du. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi
thể phân chia ra làm ba giai đoạn.
Mười năm gió bụi (1786-1795) thời gian ông lẩn trốn Quỳnh Côi.
Thời gian Mười Năm Gió Bụi (1786-1795), Nguyễn Du làm nhiều bài thơ
viết vmùa Xuân buồn bã, u ám có bài ám chỉ tuổi ông cỡ ba mươi, như
thế lẽ làm vào cuối thời kỳ Mười m Gió Bụi (1794-1795). Một số
bài mang lên đây như: Quỳnh Hải Nguyên Tiêu (1/249), Xuân Nhật
Ngẫu Hứng (2/249), Tự Thán I II (3-4/249), Sơn Mạn Hứng
(7/249), U- (9/249), Mạn Hứng (10/249), Xuân Dạ (12/249). Dưới
chân núi Hồng (1796-1802), về ẩn quê nhà. Thời gian Dưới Chân i
Hồng bài Tạp Thi I (49/249). Làm quan Bắc (1802-1804). Thời
gian ra m quan Bắc ba bài Mộ Xuân Mạn Hứng (66/249), Thanh
Minh Ngẫu Hứng (67/249), Xuân Tiếu Lữ Thứ (75/249). Ba bài này làm
trong thời gian ông cỡ 40 tuổi (1804).
Phần Thanh Hiên Thi Tập này diễn dịch nghĩa 78 bài thơ của Nguyễn Du.
Khác với Bắc nh Tạp Lục với những bài thơ viết về cảm ngcủa
Nguyễn Du với những cảnh trí, địa phận ông đi ngang qua, vnhân vật
nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phần Thanh Hiên nói về nhân
Nguyễn Du và những tình cảm của ông trong hoàn cảnh đương thời.
Như đã nói đến trong phần tiểu sử của Nguyễn Du, những bài thơ trong
tập thơ Hán Nguyễn Du được sắp thứ tự khác nhau trong các ấn bản biên
khảo khác nhau, riêng tập thơ dịch của Sóng Việt-Đàm Giang dựa theo
cách sắp xếp trong ấn bản m 1978 của cụ Thước và đồng nhóm.
Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài được chia làm ba phần và ba thời kỳ: đó
Mười m Gió Bụi (1786-1795), Dưới Chân Núi Hồng ( 1796-1802),
và thời kỳ thứ ba là thời gian ra làm quan ở Bắc Hà (1802- 1804).
------------------------------------
| 1/9

Preview text:

Củng cố, mở rộng
Câu hỏi 1. Hãy giới thiệu vị trí, nội dung và đặc điểm nghệ thuật của một
đoạn trích trong Truyện Kiều do bạn tự chọn. Bài làm Kiều ở lầu Ngưng Bích
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau
khi bị Mã Giam Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất
quyết không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, nàng
định tự vẫn, Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải đưa nàng ra sống
riêng ở lầu Ngưng Bích với lời hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng
cho người tử tế nhưng thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu
mới đê tiện và tàn bạo hơn
Nội dung: Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi,
đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu
thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích
Nghệ thuật: Đoạn trích thành công ở nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc
với bút pháp tả cảnh ngụ tình được coi là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, phép điệp cấu trúc.
Câu hỏi 2. Trong Kim Vân Kiều truyện, sự kiện Thúy Kiều trao duyên
cho Thúy Vân được Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả ở Hồi thứ tư. Hãy tìm
đọc hồi truyện này và chỉ ra một số điểm khác biệt giữa Nguyễn Du với
Thanh Tâm Tài Nhân trong cách miêu tả sự kiện trao duyên. Bài làm
Nguyễn Du chỉ dùng hơn 20 câu thơ để miêu tả diễn biến tâm trạng trao
duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân hết sức đặc sắc. Thanh Tâm Tài Nhân
sử dụng riêng 1 hồi để miêu tả lại cảnh ấy.
Câu hỏi 3. Các văn bản đọc ở Bài 6 (Tác gia Nguyễn Du, Trao duyên -
trích Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí) đã giúp bạn hiểu gì về những giá
trị đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Du? Bài làm
Những giá trị nghệ thuật trong di sản văn học của Nguyễn Du, đặc biệt là
tác phẩm Đoạn trường tân thanh (mà chúng ta quen gọi là Truyện Kiều)
của ông là kết quả tài năng xuất chúng của cá nhân Đại thi hào, nhưng
cũng là kết tinh của tiến trình mấy nghìn năm phát triển của văn hóa, văn
học dân tộc kết hợp với những thành tựu của văn hóa khu vực Đông Á và Đông - Nam Á...
Những giá trị văn hóa kiệt xuất ấy thuộc về nhân dân, thuộc về dân tộc và
thuộc về nhân loại, sẽ trường tồn cùng thời gian. Có được điều đó bởi sự
nghiệp văn học mà Nguyễn Du để lại cho nhân loại với những tập thơ chữ
Hán đầy chất suy tư, trắc ẩn, chứa đựng những giá trị hiện thực lớn lao
của cả một thời đại như Bắc hành tạp lục, Thanh Hiên thi tập, Nam trung
tạp ngâm, bài Văn tế thập loại chúng sinh khóc thương cho thân phận
chúng sinh, cho những con người bất hạnh trong xã hội như các em bé mồ
côi không nơi nương tựa, các cô gái làm nghề kỹ nữ và bao kiếp người đau khổ khác…
Đặc biệt, Truyện Kiều bất hủ thể hiện một cách sinh động chủ nghĩa nhân
đạo cao cả, lòng thương yêu con người tha thiết, ca ngợi vẻ đẹp thể chất
và tâm hồn con người, khát vọng giải phóng họ khỏi sự áp bức, bất công,
vươn tới tự do, bình đẳng, hạnh phúc.
Những tác phẩm ấy đã tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, vẻ đẹp của
thơ ca, của cốt cách và tâm hồn Việt Nam, khẳng định vị trí số một của
Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc và từng bước chiếm lĩnh văn đàn
thế giới như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nhân loại.
Nguyễn Du từng đi sứ sang Trung Hoa, quê hương của Nho giáo và trên
con đường thiên lý đầy hiểm nguy, trắc trở nơi xứ người, ông đã thấu triệt
chân lý: ở nơi đâu thì những người dân lành, đặc biệt là người phụ nữ,
người tài hoa đều có số phận đau khổ giống nhau, họ đều phải chịu biết
bao sự đọa đày, bóc lột từ những kẻ có quyền lực trong một thể chế bộc
lộ bản chất phi nhân tính.
Ông yêu thương, xót xa cho họ và viết lên những tác phẩm bất hủ có sức
mạnh tố cáo mãnh liệt và cũng chứa đựng những tình cảm yêu thương mãnh liệt.
Trong ông, những giáo điều mang tính sách vở đã dần tan vỡ trước thực
tế khắc nghiệt; đã lớn dậy một tình yêu thương nhân loại sâu thẳm. Tình
yêu thương ấy không chỉ dành cho những sinh linh đất Việt mà cho cả
những con người bất hạnh khốn cùng nơi Trung Hoa bạt ngàn gió bão,
cho cả nhân loại chúng sinh.
Nguyễn Du là một nhà tư tưởng lớn và ở ông có nhiều nhận thức mới mẻ
đi trước thời đại, đặc biệt tập trung trong những giá trị nhân văn nổi bật
của các tác phẩm, trong vấn đề thay đổi nhận thức về thực trạng tư tưởng
và thực trạng xã hội...
Đoạn trường tân thanh được viết bằng truyện thơ Nôm - một thể loại văn
học thuần túy dân tộc, có nguồn gốc sâu xa từ truyện thơ dân gian đã được
bác học hóa và là sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du, của văn học thế kỷ
XVIII - XIX. Thể thơ mà Nguyễn Du lựa chọn là lục bát, cũng là một thể
thơ thuần túy dân tộc, đã tồn tại trong văn học dân gian từ lâu đời, là hình
thức thể hiện của những bài ca dao, dân ca làm say lòng người trong các
lễ hội dân gian trải dài khắp mọi miền đất nước. Nhưng cũng chính thể
thơ lục bát qua bàn tay thiên tài của Đại thi hào đã được gọt rũa thành
những viên châu ngọc ngời sáng vẻ đẹp dân tộc.
Lục bát, ca dao, dân ca sau Truyện Kiều đã trở thành một thứ lục bát, ca
dao, dân ca đẹp hơn, dân tộc hơn, vừa cao sang, vừa gần gũi. Với Truyện
Kiều, Nguyễn Du trở thành người “phục hưng” những giá trị văn hóa, văn
học mang tính bản địa của dân tộc, và ông phát triển đến đỉnh cao những
thành tựu tinh thần này, khiến chúng trở thành bản sắc của văn học Việt
Nam trong khu vực và thế giới.
Số phận con người, cũng như sự phê phán những mặt trái, hạn chế của
chế độ phong kiến, đã trở thành vấn đề cấp bách, được đặt ra một cách
đầy gay gắt trong sáng tác của nhà thơ. Con người với thế giới tâm hồn
phong phú, với đời sống nội tâm sâu sắc, phức tạp và thân phận bi kịch
của họ được Nguyễn Du khám phá, phát hiện ở những tầng bậc sâu xa
nhất. Ông trở thành một trong số rất ít nghệ sĩ bậc thầy trên thế giới về
nghệ thuật miêu tả tâm lý.
Đại thi hào cho chúng ta thấy nỗi đau tinh thần, sự giằng xé trong nội tâm
con người còn đớn đau, vật vã hơn nhiều so với nỗi đau thể xác. Đây là
một trong những thành tựu nghệ thuật hết sức to lớn của văn học dân tộc
mà Nguyễn Du là tiêu biểu.
Lòng thương xót, sự cảm thông, việc đề cao nhân cách, tài năng của người
phụ nữ được Nguyễn Du kế thừa từ tinh thần nhân văn của văn hóa dân
tộc mà truyền thống tôn trọng người phụ nữ, tín ngưỡng thờ mẫu đề cao
vai trò người mẹ là những giá trị tiêu biểu.
Những giá trị nhân văn trong các tác phẩm của Nguyễn Du còn được Đại
thi hào kế thừa từ tinh thần nhân đạo và dân chủ của văn hóa, văn học dân
gian, từ các giá trị nhân bản của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và từ tín
ngưỡng, phong tục, tập quán dân tộc.
Tuy nhiên, nhà thơ không chỉ kế thừa mà đã nâng các giá trị nhân văn đó
lên một bước mới, đem lại cho nó giá trị nhân loại. Nhân vật Thúy Kiều
trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và
những phẩm chất truyền thống cao quý của người phụ nữ Việt Nam như
tấm lòng thủy chung son sắt, sự nết na, thùy mỵ, bản lĩnh và nghị lực, thái
độ coi trọng nhân cách, coi trọng sự trắng trong của tâm hồn và thể xác...
Nguyễn Du ca ngợi tài năng đặc biệt của Kiều - những thứ tài không
những không được người đời chấp nhận mà còn bị khinh rẻ, dập vùi. Sự
tài hoa trở thành tiêu chí của cái đẹp, cái thẩm mỹ. Ông không xây dựng
nhân vật của mình thành một thánh nữ. Thúy Kiều của Nguyễn Du hết
sức đời thường, gần gũi, như bước vào trang sách từ chính cuộc đời thực.
Khác với quan niệm gò bó của Nho giáo, Nguyễn Du thông qua các tác
phẩm của mình cho chúng ta thấy chính tình yêu thương, trong đó có tình
yêu đôi lứa, đã cảm hóa con người, làm con người trở nên nhân đạo hơn,
tốt đẹp hơn. Thúy Kiều của Nguyễn Du trong những giờ phút khắc nghiệt
nhất của cuộc đời đã nghĩ đến mối tình đầu với Kim Trọng và điều đó
giúp nàng vượt lên khỏi cái chết, sự đau khổ để tiếp tục sống và giữ gìn nhân phẩm của mình.
Quan niệm của Nguyễn Du về chữ “trinh”, về nhân cách con người thật
mới mẻ, nhân đạo, phá vỡ những chuẩn mực đạo đức giáo điều xa rời thực
tế của tư tưởng chính thống. Thiên nhiên trong Đoạn trường tân thanh ở
các đoạn miêu tả tình yêu đôi lứa đều hết sức đẹp đẽ, rung động bởi nó
mang tâm trạng và niềm vui của con người.
Khát vọng tự do, công lý, khát vọng chính nghĩa đều là những chủ đề lớn
của văn học thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX được thể hiện một cách
mãnh liệt trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đặc biệt qua hai
nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều. Những khát vọng đó cũng là khát vọng
của bao đời, được thể hiện một cách mãnh liệt trong văn học dân gian và
trong văn học viết dân tộc, được thể hiện một cách tài hoa trong tác phẩm của Đại thi hào.
Câu hỏi 4. Truyện Kiều đã nhiều lần miêu tả cảnh Thúy Kiều đánh đàn.
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) bình luận về tiếng đàn của Thúy
Kiều trong một lần được Nguyễn Du miêu tả. Bài làm
Tiếng đàn là một ngôn ngữ đặc biệt biểu hiện trực tiếp tâm trạng nạn nhân
của Kiều.Cảm hứng bi kịch thích hợp với tiếng đàn nên Từ Hải không
được nghe đàn lần nào mặc dù Từ là tri âm tri kỷ. Sống với Từ Hải phần
nạn nhân trong tâm hồn Kiều coi như bị tiêu vong nên khúc “Bạc mệnh”
kia không còn lý do tồn tại. Từ Hải chết, con người nạn nhân trong Kiều
sống lại dữ dội nên tiếng đàn cũng ùa trở về với một sắc thái bi thảm chưa
từng thấy. Tiếng đàn là ngôn ngữ không biết nói dối. Tiếng đàn không hề
có chức năng che dấu tâm trạng mà có chức năng giải tỏa tâm trạng, nó
có một phép mầu nhiệm khiến cho ngay cả khi nó cất lên tiếng “ca vui
đầm ấm dung hòa” mà một kẻ như Hồ Tôn Hiến cũng thấu hiểu được tâm
trạng đó là “muôn oán nghìn sầu”, buồn thấm thía. Khi nó xuất hiện trước
Kim Trọng, tính chất nạn nhân của nó bộc lộ theo một kiểu khác, không
phải để nguyền rủa để tố cáo, để lên án, nên cái anh chàng Kim Trọng mới có lúc bị lừa:
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
Anh ta bị Nguyễn Du “tiêm” thứ thuốc mê lý tưởng hóa vào để lừa đấy
thôi, lúc ấy mà anh ta còn nghe thấy tiếng nói nạn nhân nữa thì đoạn đoàn
viên như thế là hỏng bét! Và có lẽ sự lạc quan của Kim Trọng cũng là một
cách “chiêu tuyết” cho Kiều chăng? Ngày xưa, anh ta là tri âm của Kiều,
chính Kiều cũng công nhận (“Đã cam tệ với tri âm bấy chầy”), nhưng bây
giờ đoàn viên thì anh ta không còn là tri âm nữa. Bởi vì đôi tai của con
người kiểu Kim Trọng vốn là như thế, nó quá tinh đến nỗi nghe được
những âm vang từ một cõi siêu hình mà tai trần không nghe thấy được,
nhưng nó lại cố điếc đến nỗi không nghe thấy những âm vang từ cuộc đời
“quằn quại vũng lầy” mà ai cũng thấy văng vẳng bên tai. Vì vậy, khi con
người nạn nhân của Kiều đã nhiễm những kinh nghiệm thực tiễn thì nó
mất đi một tri âm tự nguyện là Kim Trọng và thêm vào những kẻ tri âm
bất đắc dĩ là Hoạn Thư và Hồ Tôn Hiến.
Câu hỏi 5. Viết bài văn ngắn giới thiệu một bài thơ chữ Hán của Nguyễn
Du. Sử dụng bài viết để lập dàn ý cho bài nói (Giới thiệu một bài thơ chữ
Hán theo lựa chọn cá nhân). Bài làm
Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài thơ, là tập thơ chữ Hán đầu tiên của
Nguyễn Du. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi và có thể phân chia ra làm ba giai đoạn.
Mười năm gió bụi (1786-1795) là thời gian ông lẩn trốn ở Quỳnh Côi.
Thời gian Mười Năm Gió Bụi (1786-1795), Nguyễn Du làm nhiều bài thơ
viết về mùa Xuân buồn bã, u ám có bài ám chỉ tuổi ông cỡ ba mươi, như
thế có lẽ làm vào cuối thời kỳ Mười Năm Gió Bụi (1794-1795). Một số
bài mang lên ở đây như: Quỳnh Hải Nguyên Tiêu (1/249), Xuân Nhật
Ngẫu Hứng (2/249), Tự Thán I và II (3-4/249), Sơn Cư Mạn Hứng
(7/249), U-Cư (9/249), Mạn Hứng (10/249), Xuân Dạ (12/249). Dưới
chân núi Hồng (1796-1802), về ẩn ở quê nhà. Thời gian Dưới Chân Núi
Hồng có bài Tạp Thi I (49/249). Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804). Thời
gian ra làm quan ở Bắc Hà có ba bài Mộ Xuân Mạn Hứng (66/249), Thanh
Minh Ngẫu Hứng (67/249), Xuân Tiếu Lữ Thứ (75/249). Ba bài này làm
trong thời gian ông cỡ 40 tuổi (1804).
Phần Thanh Hiên Thi Tập này diễn dịch nghĩa 78 bài thơ của Nguyễn Du.
Khác với Bắc Hành Tạp Lục với những bài thơ viết về cảm nghĩ của
Nguyễn Du với những cảnh trí, địa phận ông đi ngang qua, về nhân vật
nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phần Thanh Hiên nói về cá nhân
Nguyễn Du và những tình cảm của ông trong hoàn cảnh đương thời.
Như đã nói đến trong phần tiểu sử của Nguyễn Du, những bài thơ trong
tập thơ Hán Nguyễn Du được sắp thứ tự khác nhau trong các ấn bản biên
khảo khác nhau, riêng tập thơ dịch của Sóng Việt-Đàm Giang dựa theo
cách sắp xếp trong ấn bản năm 1978 của cụ Lê Thước và đồng nhóm.
Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài được chia làm ba phần và ba thời kỳ: đó
là Mười Năm Gió Bụi (1786-1795), Dưới Chân Núi Hồng ( 1796-1802),
và thời kỳ thứ ba là thời gian ra làm quan ở Bắc Hà (1802- 1804).
------------------------------------