Soạn bài Vợ nhặt Kết nối tri thức | Ngữ văn 11 Kết nối tri thức
Soạn bài Vợ nhặt Kết nối tri thức được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu soạn văn 11 kết nối tri thức nhé. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
Chủ đề: Bài 1: Câu chuyện và điểm nhìn trong truyện kể
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Trước khi đọc
Câu 1. Bạn biết gì về nạn đói năm Ất Dậu (1945) xảy ra ở Việt Nam?
Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói lớn xảy ra tại miền Bắc Việt Nam
trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, làm khoảng
từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói. Đây là nạn đói lịch sử, là một
cơn ác mộng và nỗi nhức nhối khó quên.
Câu 2. Theo bạn, có phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống (như nạn
đói, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,....) cũng chỉ đẩy con người vào tình
thế bi quan, tuyệt vọng hay không? Vì sao?
Không bởi nếu vượt qua được nghịch bảnh thì bạn sẽ trưởng thành hơn. Đọc văn bản
Câu 1: Khung cảnh ngày đói được gợi ra qua những hình ảnh và cảm giác nào?
Khung cảnh ngày đói được gợi ra qua những hình ảnh: những gia đình từ
những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau
như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.
Cảm giác rùng rợn và mùi ôi thối từ những xác chết con người nằm còng queo bên đường.
Câu 2: Tâm trạng của Tràng và người "vợ nhặt" được bộc lộ qua những
biểu hiện bên ngoài (ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ,...) nào?
Điệu bộ: hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh
còn thị có vẻ rón rén, e thẹn.
Cử chỉ: Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng với lũ trẻ con.
Câu 3: Người dân trong xóm nghĩ và bàn luận hì khi thấy Tràng dẫn một
người phụ nữ lạ về nhà?
Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán, có vẻ hiểu được đôi phần.
Mọi người đều thắc mắc xem đó là ai và cuối cùng là vợ anh cu Tràng.
Câu 4: Những chi tiết nào thể hiện sự thay đổi trong tâm trạng của Tràng
và người "vợ nhặt" khi về đến nhà?
Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình
là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang
Dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng
vạng (thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén,
e thẹn”, ngượng nghịu, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”...)
Sau một ngày làm vợ, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà
khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu
vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.
Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, thị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về
thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi
phá kho thóc của Nhật. Chính thị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và
chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
Câu 5: Chú ý ngôn ngữ và cách ứng xử của người phụ nữ trước khi theo Tràng về nhà.
Ngôn ngữ và cách ứng xử của người phụ nữ trước khi theo Tràng về nhà
là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh:
Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và
“liếc mắt cười tít” với Tràng.
Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng
cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được
Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc.
Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…
Câu 6: Việc Tràng chấp nhận hành động "theo về" của một người phụ nữ
xa lạ thể hiện nét tính cách gì của nhân vật?
Tràng là người giàu tình yêu thương và lòng vị tha.
Câu 7: Chú ý hình thức lời văn được tác giả sử dụng để thể hiện tâm trạng
bà cụ Tứ trong tình huống này.
Sự ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy người đàn bà lạ trong nhà.
- Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai
mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại
đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong.
- Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn à ngồi ở đầu giường con mình
rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u
và được Tràng giới thiệu: " Kìa nhà tôi nó chào u". " Nhà tôi nó mới về
làm bạn với tôi đấy u ạ".
Câu 8: Tình cảm của bà cụ Tứ dành cho người con dâu mới được thể hiện
qua giọng điệu và những từ ngữ nào?
Bà vừa mừng vừa tủi khi hiểu mọi chuyện.
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình "nhặt" được vợ, bà "cúi đầu nín lặng".
Bà liên tưởng đến bao cơ sự "oái ăm" "ai oán" "xót thương" cho số kiếp
của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con
gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không
lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói " như ngả rạ" lại có
người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bọ dồn
vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi
con đã có vợ, Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu
không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
Câu 9: Khung cảnh ngày mới được cảm nhận chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật nào?
Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo,...)
Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình.
Thấy mình trưởng thành hơn, có trách nhiệm hơn với gia đình, với mẹ,
với vợ và những đứa con sau này.
Lúc ăn cơm hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới trong suy
nghĩ. -> Hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
=> Từ khi nhặt được vợ, nhân vật Tràng đã có sự biến đổi theo chiều
hướng tốt đẹp: hào phóng, quên đi hết những cay cực tăm tối trên đời,
chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả, tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.
Câu 10: Chú ý những chi tiết miêu tả sự thay đổi của nhân vật bà cụ Tứ
và người "vợ nhặt" trong buổi sáng của ngày đầu tiên sau khi Tràng nhặt được vợ.
Thị đã thay đổi hoàn toàn, thị trở nên “hiền hậu đúng mực”, đảm đang,
vun vén cho hạnh phúc gia đình. Điều này cho thấy rằng chính con người
có thể thay đổi được hoàn cảnh, đem đến hơi ấm mới cho gia đình. Đến
khi bà cụ Tứ bê nồi cháo cám ra, khi Thị điềm nhiên và vào miệng, bà cụ
Tứ tươi cười khen “Ngon đáo để”.
Câu 11: Chú ý vai trò chi tiết nồi chè khoán.
Là một chi tiết đắt giá trong truyện, hình ảnh “nồi cháo khoán” còn có ý
nghĩa rất cao về nghệ thuật. Là một trong những chi tiết có tính thúc đẩy
sự phát triển của cốt truyện, khắc họa rõ nét tính cách, và tâm lí hành động
của người mẹ nghèo nhưng rất thương con. Tuy là một chi tiết nhỏ, nhưng
lại mang sức gợi rất cao. Đó là sự tin tưởng, một khát vọng sống vươn lên
hoàn cảnh, và còn là sức mạnh của tình thương, một trái tim đẹp của con
người dành cho nhau. Thông qua đó còn gửi gắm một tấm lòng nhân đạo
của ông dành cho con người, luôn tôn vinh và ngợi ca họ dù trong hoàn
cảnh khó khăn và khốn cùng của kiếp người. Và nhờ chi tiết độc đáo “nồi
cháo khoán” đã cho ta thấy một tầm vóc lớn của một nhà văn giàu lòng
nhân đạo. Chi tiết đã nâng tầm của câu truyện lên và khiến cho ta, về sau
khi đọc lại, vẫn sẽ luôn nhớ mãi một chi tiết “nồi cháo khoán” giản dị như
một hơi ấm nhen lên giữa những ngày đau thương của dân tộc.
Câu 12: Tại sao bà cụ Tứ ngoảnh mặt vội ra ngoài, "không dám để con
dâu nhìn thấy mình khóc"?
Bởi bà muốn động viên các con có thêm động lực và lạc quan hơn trong
những ngày đói thảm hại này.
Câu 13: Tràng có tâm trạng như thế nào khi nghe câu chuyện mà người "vợ nhặt" kể?
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi, cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng
cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít và nghĩ tới những người phá kho thóc Nhật.
Câu 14: Hình ảnh ''lá cờ đỏ" hiện lên trong tâm trí của Tràng có ý nghĩa gì?
Hình ảnh lá cờ hiện lên trong đầu Tràng: Tràng đã bắt đầu mơ hồ tìm thấy
con đường đi cho tương lai của mình đồng thời cũng nói lên bước đầu của
sự nhận thức, giác ngộ với cách mạng của những người dân trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Sau khi đọc
Câu 1: Giữa nhan đề Vợ nhặt và nội dung câu chuyện có mối quan hệ với nhau như thế nào?
- Trước hết, từ “vợ” là một danh từ thiêng liêng, dùng để chỉ người phụ
nữ trong mối quan hệ được pháp luật công nhận với “chồng”. Theo phong
tục, vợ chồng chỉ được công nhận khi có sự chứng kiến của họ hàng, làng
xóm. Còn “nhặt” là hành động cầm vật bị đánh rơi lên.
- Kim Lân đã sáng tạo ra một nhan đề độc đáo. Vì người ta chỉ nói “nhặt”
được một món đồ nào đó. chứ không ai nhặt được một con người về làm
vợ bao giờ cả. Nhưng qua đó, nhà văn đã thể hiện được cảnh ngộ thê thảm
của con người lúc bấy giờ.
- Nhan đề “Vợ nhặt” trước hết khái quát được tình huống của truyện. Đồng
thời đó cũng lời kết án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ thực dân đã
đẩy người nông dân vào tình cảnh nghèo đói, người “chết như ngả rạ”.
- Nhan đề “Vợ nhặt” có tính khái quát cao, hoàn cảnh của Tràng chỉ là
một trong số đó. Đồng thời, qua nhan đề nhà văn cũng thể hiện sự đồng
cảm xót xa cho cảnh ngộ của người nông dân trong nạn đói năm 1945.
Câu 2: Xác định tình huống truyện và nêu ý nghĩa của nó.
Tình huống truyện: một anh chàng dân ngụ cư, xấu xí, nghèo khổ như
Tràng lại có thể “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng, chỉ
bằng mấy câu hát, mấy lời nói bông đùa “tầm phơ tầm phào” và vài bát bánh đúc. Ý nghĩa: - Giá trị hiện thực:
+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
Cái đói dồn đuổi con người.
Cái đói bóp méo cả nhân cách.
Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp. - Giá trị nhân đạo
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự
định thiết thực tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.
Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.
Câu 3: Câu chuyện trong Vợ nhặt được kể theo trình tự nào và có thể chia làm mấy phần?
- Phần 1 (từ đầu ... "tự đắc với mình"): Tràng đưa được người vợ nhặt về nhà
- Phần 2 (tiếp ... "đẩy xe bò"): chuyện hai vợ chồng gặp nhau, thành vợ thành chồng
- Phần 3 (tiếp ... "nước mắt chảy ròng ròng"): tình thương của người mẹ nghèo khó
- Phần 4 (còn lại): niềm tin vào tương lai
Câu 4: Theo trình tự của câu chuyện, các nhân vật đã có những thay đổi
như thế nào từ diện mạo, tâm trạng đến cách ứng xử?
Tràng thì một người khờ khệnh, sống vô lo vô nghĩ cuối cùng đã biết lo
cho cuộc sống tương lai.
Thị thì từ một người con gái thô kệch, đáo để cuối cùng trở thành một
người vợ hiền dịu, đảm đang, tháo vát.
Bà cụ Tứ thì một người ảm đạm, mặt mày xám xịt trở thành người vui vẻ, tươi tắn hẳn lên.
Câu 5: Phân tích những nét đáng chú ý trong cách người kể chuyện quan
sát và miêu tả sự thay đổi của các nhân vật (thể hiện ở các khía cạnh: điểm
nhìn, lời kể và giọng điệu).
Nhân vật Tràng từ trong cuộc sống bước vào trang văn của Kim Lân chân
thực gần như không gọt giũa gì. Nhà văn giới thiệu anh là một gã trai
nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê nuôi mẹ già. Cuộc sống
người dân ngụ cư vừa tủi cực vừa khốn khó. Anh ở trong một căn nhà
rách nát, tồi tàn. Anh thường bị mọi người trêu chọc và khinh rẻ. Đến trẻ
con cũng lấy anh làm trò đùa. Vì anh là dân ngụ cư. Đó là một gốc tích
không mấy sáng sủa. Nó gợi ra số phận trôi nổi, lận đận và gian truân của
lớp người vì bần cùng quá phải tha hương cầu thực, tìm kiếm nguồn sống trong xã hội.
Không những thế, Tràng lại có một ngoại hình rất thô kệch, xấu xí. Vai
anh to bè ra. Cái lưng to rộng như lưng gấu. Dáng đi khom khom trong
rất dị. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào
bóng chiều. Hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô
kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ
tợn… Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ
phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Hành vi của hắn lại càng thêm bí ẩn. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật
ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người
ngụ cư vào bên trong bến. Tràng xuất hiện trước cuộc đời với những điều
lạ lẫm. Rồi khi trở về, hắn lại chìm khuất trong bóng tối, trong cái nghèo
cùng kiệt, trong góc khuất của riêng mình. Chỉ có mình hắn mới biết hắn là ai.
Thế nhưng, nhà văn đã xâm nhập vào cuộc sống của nhân vật này. Ông
từng bước làm hiện ra trước mắt người đọc cuộc sống và tính cách của nhân vật bí ẩn ấy.
Cũng giống như bao nhiều người lao động hiền lương khác, Tràng là
người khá vô tư và nông cạn. Hầu như anh không hề toan tính gì. Anh
cũng không quá khổ tâm vè hoàn cảnh khốn khó của mình. Cuộc sống của
anh cứ tiếp diễn từng ngày bình tâm và tin tưởng.
Tràng lại là người thích chơi với trẻ con. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con
trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi
xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng
trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Ban
đầu anh hơi khó chịu về những hành động ấy. Nhưng sau lâu dần anh lại
thích bọn chúng. Chúng mang đến cho anh sự rộn ràng, thoải mái sau một
ngày lao động cực nhọc. Chúng khiến anh quan tâm đến cái xóm ngụ cư
vốn im lặng và lầm lũi trong đói nghèo. Anh với lũ trẻ con như anh em,
bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.
Cái tính vô tư của anh thể hiện rõ nhất ở việc anh lấy vợ. Là dân ngụ cư,
anh đâu dám mong có ai đó thương và chịu làm vợ anh. Từ lâu anh đã
không dám nghĩ đến điều đó. Lại trong lúc cái đói, cái chết tung hoành,
luồn lách sâu trong cuộc sống. Nó nằm kề cận với con người đêm đêm,
thủ thỉ những lời ghê rợn. Thế mà, khi người đàn bà chỏng lỏn kia buông
lời trêu ghẹo, Tràng cũng đáp lời vui đùa. Ai ngờ, lời nói chơi lại thành
thật. Tràng hơi bất ngờ nhưng anh chậc lưỡi một cái và chấp nhận luôn.
Thật là xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng.
Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng. Trong cảnh khốn khó,
nhờ có sức khỏe, Tràng dễ dàng tìm được công việc tốt. Ngoài kia biết
bao người thất nghiệp, cù bơ cù bất, thấp thỏm đứng ngồi chờ đợi. Họ đối
diện với cái đói, cái chết từng ngày. Anh thấu hiểu điều đó. Thế nên, thấy
người đàn bà đói, thân hình héo hắt, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo
mình thì Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Có thể lúc đó anh không nhận thức
hết được trách nhiệm của bản thân và những khó khăn sắp tới. Tràng lấy
vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đang đói khát hơn mình.
Sau khi người đàn bà theo Tràng về tới nhà, anh cũng có ý thức xác nhận
vị trí của người đàn bà trong gia đình và bắt tay vào sắm sửa chuẩn bị cho cuộc sống mới.
Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không
vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh tôn trọng vợ với tư
cách là một con người thực sự chứ không phải là một cái gì đó mà anh
vừa nhặt được. Và để thể hiện điều đó, anh sẵn sàng bỏ tiền mua dầu thắp
sáng, mua một thứ lặt vặt cần thiết để làm mới cuộc sống. Tràng tỏ ra trân
trọng và mừng rỡ, nâng niu cái hạnh phúc vừa chợt đến.
Cảnh sống tăm tối trước mặt bị lu mờ, không đủ sức đe dọa con người
nữa. Giờ đây, trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa gắn bó với người đàn bà
trong một gia đình ấm áp. Trên đường cùng người đàn bà trở về, dường
như có một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo
khổ ấy. Nó cứ ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng. Tựa hồ như có bàn tay
vuốt ve nhẹ trên sống lưng.
Chính nhờ người vợ nhặt ấy đã biến Tràng từ một người đàn ông vô tư trở
thành một người sống có trách nhiệm. Anh ngoan ngoãn với mẹ hơn, tỏ
ra gần gũi và hiếu thảo. Anh tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đối với
vợ anh nhã nhặn, tôn trọng và rất chân tình. Anh thực sự đắm mình trong
cuộc sống mới, trong hạnh phúc mới. Buổi sớm hôm sau khi trở dậy,
Tràng như vừa bước ra khỏi cơn mơ đẹp, trong người thấy êm ái lửng lơ lạ kì.
Anh bắt đầu quan tâm đến cuộc sống xung quanh, quan tâm đến mọi
người. Anh bắt đầu biết xác định vị trí của mình trong cuộc sống và không
ngừng khát vọng đổi đời. Những biến cố xã hội lúc này tác động vào nhận
thức và tâm hồn anh mãnh liệt. Anh thấy mọi người ầm ầm đi phá kho
thóc của Nhật. Anh thấy đằng trước có lá cờ đỏ thắm.
Tất cả những hình ảnh ấy làm cho anh thấy tiếc rẻ và háo hức ở trong
lòng. Từ đây, anh bắt đầu gắn cuộc đời mình với mọi người, với cộng
đồng. Từ đây, công việc và cuộc sống của mọi người cũng là công việc
của anh. Anh thấy mình cần có trách nhiệm hơn. Tình cảm ấy âm thầm
chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn người nông dân cục mịch, thô kệch,
hiền lành và làm nên sức mạnh đấu tranh của lớp người cùng khổ sau này.
Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang
tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng,
tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho
anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên
và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người
nông dân Việt Nam đã đi.
Sự gắn bó giữa Tràng và người đàn bà quả thật đã đem lại nhiều sự thay
đổi lớn. Không chỉ có Tràng thay đổi mà chính vợ Tràng cũng thay đổi.
Sau đêm tân hôn, Tràng nom thị hôm nay khác lắm. Rõ ràng thị là người
đàn bà hiền hậu, đúng mực.
Giờ đây ở thị không có vẻ gì là chao chát, chỏng lỏn như mấy ngày trước.
Thì ra chính cái đói nó che lấp mất bản tính tốt đẹp của con người. Cái
đói làm tha hóa con người. Giờ đây, người phụ nữ ấy được yêu thương và
tôn trọng. Chính điều đó làm cho thị trở về với đúng bản tính của người
phụ nữ. Nó biến chị trở thành người vợ hiền hậu, thương yêu chồng và đúng mực.
Người “vợ nhặt” là hiện thân cho những đau khổ và tủi cực của người dân
lao động nghèo trước Cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn
Kim Lân đã không cho cô “vợ nhặt” một danh tính, một tên gọi như bao
con người khác mà đây là một dụng ý của nhà văn. Dụng ý của ông là
cuộc đời, số phận nhân vật này như hòa lẫn với cuộc đời, số phận của bao
người dân nghèo khổ khác lúc bấy giờ.
Hình dáng bên ngoài của thị qua sự miêu tả của nhà văn bên ngoài thật
thảm hại. Khuôn mặt gầy sọp hẳn đi vì đói, quần áo rách tả tơi,… Tình
huống trớ trêu mà nhân vật người “vợ nhặt” phải trải qua.
Chính cái đói, sự mấp mé với cái chết đã đẩy người phụ nữ vào tình huống
trớ trêu. Đó là phải chấp nhận làm người “vợ nhặt” theo không Tràng mà
không hề cưới xin ăn hỏi gì. Đây là chi tiết thể hiện rõ sự đen tối của xã
hội và thân phận bèo bọt, sự rẻ rúng của con người.
Cuộc sống khắc nghiệt đã góp phần làm biến đổi, tha hóa cô “vợ nhặt”
đáng thương ấy. Đó không chỉ là sự thay đổi khốc liệt về hình thức. Chỉ
sau mấy ngày không gặp mà thị gầy sọp lại đi. Đó còn một sự biến đổi
ghê gớm về tâm tính. Bởi vì quá đói, thị đã không còn biết xấu hổ nữa.
Được mời, thị đã ăn liền một mạch hết bốn bát bánh đúc. Lời nói thì chao
chát, chỏng lỏn, không còn biết ngượng ngùng.
Nhưng đằng sau cái vẻ bề ngoài rách rưới, ăn nói chao chát, chỏng lỏn ấy,
Kim Lân vẫn nhận ra những phẩm chất tốt đẹp, ngời sáng.
Về nhà Tràng, thị như thay đổi hẳn. Thị trở lại với bản tính một người phụ
nữ. Thị cùng với bà cụ Tứ xăm xắm quét dọn nhà cửa, vườn tược. Hai ang
nước vốn khô cong nay cũng đầy ấy nước. Không phải ai khác mà chính
là cô “vợ nhặt” đã đem đến nhà Tràng một nguồn sinh khí mới, một sức
sống mới. Điều đó khiến cho các thành viên trong gia đình điều thay đổi
theo một hướng tích cực hơn.
Cũng chính cô “vợ nhặt” đã mở cho mọi người một niềm hi vọng đổi thay.
Qua câu chuyện hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người đi phá
kho thóc Nhật dự báo điều đó.
Sự thay đổi này cũng được thể hiện ở cả nhân vật bà cụ Tứ – mẹ Tràng.
Lúc đầu, bà ngỡ ngàng trước thái độ săn đón, vồn vã của Tràng. Ngạc
nhiên trước việc có người đàn bà lạ trong nhà mình (lại đứng ngay đầu
giường thằng con trai mình thế kia,…).
Rồi sau, vì thương con, bà không khỏi cảm thấy lo lắng, băn khoăn. Khóe
mắt cứ cay cay như muốn khóc. Nhưng rồi sau đó, lòng người mẹ nghèo
khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự. Nó vừa ai oán, vừa xót thương. Ai oán
cho số kiếp của mình. Lại thương xót cho con mình và cả người phụ nữ
khốn khổ kia. Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót: “người ta có
đói thì người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”.
Bà cảm thấy tủi nhục cho gia cảnh nhà mình. Bà xót xa cho việc cưới vợ
của Tràng không được diễn ra như ý muốn. Bà nhớ người chồng đã quá
cố. Bà nhớ về cuộc đời dài dằng dặc, đầy những khổ đau của mình. Bà tủi
hờn bởi nhà nghèo, không có nổi dăm mâm cơm mời làng xóm láng giềng.
Bà cố gượng làm vui trước hạnh phúc mong manh của con trai. Bà ao ước
mọi người cũng có được niềm vui như mình.
Thế nhưng, chỉ sau mấy ngày nỗi buồn bỗng dưng biến mất. Sự xuất hiện
của người vợ nhặt kia đã làm thay đổi người mẹ cằn cỗi ấy. Bà xăm xắn
thu dọn, quét tước nhà cửa. Cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rở hẳn
lên. Bà lo lắng chuẩn bị bữa ăn đón nàng dâu mới cho chu đáo hơn trong
hoàn cảnh có thể. Trong bữa ăn, bà toàn nói những chuyện vui vẻ, hạnh phúc về sau này.
Bà cụ Tứ là một người nhân hậu, thương mình, thương người, thậm chí
thương người còn hơn cả thương mình. Dẫu sao việc Tràng có vợ cũng
làm cho bà vui hơn. Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn hơn ngày thường.
Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên.
Thế nhưng niềm vui của bà thật ngắn ngủi. Nó không sao cất cánh hẳn
được. Nó cứ bị nỗi buồn, nỗi lo âu níu kéo xuống. Mùi khói đốt đống rơm
và tiếng hờ khóc người chết đói cứ vang lại. Tiếng trống thúc thuế lúc to
lúc nhỏ như kéo mọi người trở về với hiện tại khắc nghiệt, phũ phàng.
Có thể nói, trong hoàn cảnh đen tối, khốn cùng nhất cũng không thể làm
mất đi ở người dân lao động tình thương. Lòng nhân hậu, đạo nghĩa làm
người trong họ vẫn ấm nóng trong mọi hoàn cảnh. Họ vẫn thèm muốn tìm
đến hơi ấm của hạnh phúc. Họ khát khao được gây dựng đời sống giữa lúc khó khăn.
Dường như việc lấy vợ của Tràng đã thổi vào căn nhà u ám, nghèo nàn
một luồng gió mới làm thay đổi tất cả. Các thành viên trong gia đình này
vui vẻ thu xếp nhà cửa cho sạch sẽ, ngăn nắp hơn: “nhà cửa, sân vườn đều
được quét tước, thu dọn sạch sẽ. Hai cái ang nước vẫn cứ để khô cong nay
đã đầy ăm ắp”. Họ nghĩ rằng: “thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì
cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn khấm khá hơn”.
Có vợ, Tràng thấy phấn chấn trong lòng và cùng với niềm hạnh phúc là ý
thức trách nhiệm đối với mọi người, với cuộc sống. Hắn thấy mình cần có
trách nhiệm, bổn phận để chăm lo, vun vén cho cái gia đình này. Vợ Tràng
cũng thấy mình phải cố gắng làm được nhiều điều tốt đẹp để đền đáp lại
tấm lòng tốt của người đàn ông đang cưu mang che chở cho mình.
Riêng bà mẹ của Tràng thì dường như lột xác, trở thành con người khác
hẳn. Bà thấy mình khỏe ra, nhanh nhẹn hơn, thu xếp nhà cửa gọn gàng,
sạch sẽ. Bà còn hào hứng vạch ra kế hoạch dự tính về công việc làm ăn
cho con trai. Đầu tiên là nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy mà có
đàn gà. Bà tin tưởng vào sự đổi đời. Bà nói toàn chuyện vui, động viên,
khích lệ đôi vợ chồng trẻ…
Kim Lân đã khắc hoạ đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động và tình cảm
các nhân vật bằng ngòi bút sắc sảo, tinh tế vô cùng. Qua cuộc đời khốn
khổ và tủi cực của các nhân vật, không những nhà văn phản ánh một mặt
trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người
dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ. Kim Lân đã tiếp nối
những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của
những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao….
Câu 6: Hãy nêu chủ đề và đánh giá giá trị tư tưởng của tác phẩm.
Chủ đề của Vợ nhặt là phản ánh đời sống của những con người bần cùng,
lương thiện, trong cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra.
Giá trị tư tưởng: lên án xã hội thực dân phong kiến tàn bạo đã đẩy nhân
dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm 1945, biến con người thành vật vô
giá trị, người ra có thể nhặt bất cứ lúc nào. Phát hiện và diễn tả khát vọng
của người lao động. Cho dù bị đẩy vào tình cảnh bi đát, phải sống trong
sự đe dọa của cái chết, vẫn khao khát tình thương, khao khát hạnh phúc
gia đình, hướng về sự sống, tin tưởng tương lai (mà tương lai gắn với cách mạng).
Câu 7: Có thể xem truyện ngắn Vợ nhặt là một câu chuyện cổ tích trong
nạn đói hay không? Nêu và phân tích quan điểm của bạn về điều này.
Truyện ngắn Vợ nhặt không được coi là truyện cổ tích nạn đói vì dựa vào
các đặc điểm của truyện cổ tích thì tác phẩm này không phù hợp. Câu
chuyện có kết thúc mở, hình ảnh lá cờ kết thúc tác phẩm rất mơ hồ, phải
dựa vào nghĩa tường minh để minh giải cho hình ảnh này. Còn đối với
truyện cổ tích thì luôn là cái kết có hậu, cái kết trừng phạt những kẻ xấu.
Truyện ngắn này chỉ có khắc họa những con người nông dân nghèo khổ
còn thế lực xấu thì nói rất ít và không có kết cục của những thế lực ấy.
Kết nối Đọc - Viết
Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về
một thông điệp có ý nghĩa với bản thân được rút ra từ truyện ngắn Vợ nhặt. Bài làm
Qua truyện “Vợ nhặt”, tác giả Kim Lân còn cho ta thấy được trong hoạn
nạn, con người lao động càng yêu thương nhau hơn dù trong cảnh khó
khăn, khốn cùng, họ vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ “đói cho sách rách
cho thơm”. Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm
trí Kim - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một
con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách
mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình
lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện
ấy.Cuộc sống khắc nghiệt đọa đày con người bắt họ phải sống cuộc sống
của loài vật, nhưng nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong
lòng bà mẹ khốn khổ kia. Dường như ba mẹ con Tràng đã tìm thấy được
niềm vui ẩn giấu trong sự nương tựa , cưu mang nhau mà sống. Tình vợ
chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ sức mạnh vượt qua cơn hoạn nạn
khủng khiếp này. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những
tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà nhà vawb
Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một
đề tài không mới. Tác phẩm “Vợ nhặt” đã thể hiện thành công nghệ thuật
miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân
– một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
------------------------------