-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Sông Hương ở Trong Lòng Thành Phố Huế - Ngữ Văn 11
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông là một trí thức yêu nước luôn tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống Mỹ-Ngụy ở thời kỳ trước năm 1975. Ông chuyên viết về bút kí và tản văn. Ông sinh ra ở Quảng Trị nhưng lại gắn bó sâu sắc với cố đô Huế nên những sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con người đặc biệt là văn hóa Huế như: “Ngồi trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông”......Trong đó tùy bút “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thực sự là một trong những trang viết hay nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông mang một huyền thoại đẹp – sông Hương. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Preview text:
Ai đã đặt tên cho dòng sông
(sông Hương ở trong lòng thành phố) Bài làm
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại,
ông là một trí thức yêu nước luôn tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống Mỹ-Ngụy
ở thời kỳ trước năm 1975. Ông chuyên viết về bút kí và tản văn. Ông sinh ra ở Quảng Trị
nhưng lại gắn bó sâu sắc với cố đô Huế nên những sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê
hương, đất nước, con người đặc biệt là văn hóa Huế như: “Ngồi trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Ai
đã đặt tên cho dòng sông”......Trong đó tùy bút “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thực sự là một
trong những trang viết hay nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông mang một huyền
thoại đẹp – sông Hương. Với sự hiểu biết sâu sắc về Huế, về thuỷ trình của sông Hương kết
hợp văn phong khoa học, chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa
chiều – Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thực đã mang đến những xúc cảm nồng nàn về Hương
giang – dòng sông của thơ ca. Tất cả những giá trị đặc sắc ấy đã được nhà văn tập trung sâu
sắc qua đoạn trích: (trích dẫn)
Là nhà văn gốc Quảng Trị nhưng trưởng thành ở Huế, gắn bó với Huế và đã hơn nửa
cuộc đời sống bên cạnh dòng sông Hương trước khi viết tuỳ bút này. Nên hơn ai hết, Hoàng
Phủ Ngọc Tường rất am hiểu Hương giang. Sông Hương với ông cũng như một người tình mà
suốt cả cuộc đời ông trăn trở đi tìm và lý giải cội nguồn tên gọi. Tuỳ bút này được nhà văn
viết tại Huế năm 1981, in trong tập cùng tên. Đoạn trích trên miêu tả sông Hương ở trong
thành phố Huế, là đoạn nằm ở phần giữa của bút ký –sau khi tác giả miêu tả sông Hương ở
thượng nguồn Trường Sơn và sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.
Không còn vẻ trầm mặc cổ thi, không còn những tiết tấu hùng tráng, không còn những
đường cong gợi cảm, sông Hương ở quãng này được tác giả cảm nhận với sắc màu hội họa,
sắc màu văn hoá gắn bó với kinh thành Huế. Bằng ngòi bút hoa mỹ của một cái tôi tài hoa, tác
giả đã cảm nhận Sông Hương dưới góc nhìn hội hoạ với sự thay đổi của dòng chảy và tâm
trạng của cô gái Hương Giang giàu xúc cảm. Chính tiếng chuông chùa Thiên Mụ đánh thức
dòng chảy đưa dòng sông từ dáng vẻ trầm mặc đột khởi thành niềm vui. Bởi thế mở đầu đoạn
trích là hình ảnh ngọc nữ Hương giang với tâm trạng “vui tươi hẳn lên”. Nàng đã nhìn thấy
“chiếc cầu trắng in ngấn lên nền trời nhỏ nhắn như những vành trăng non”, và chợt nhận ra đó
chính là tín hiệu của người tình nhân mong đợi. Trước mắt người đọc bỗng hiện ra bức tranh
phong cảnh kinh thành Huế với sắc màu tươi tắn mà thanh thoát, nhẹ nhàng. Phải chăng chính
cuộc tình đẹp đã làm cho khung cảnh gặp gỡ của lứa đôi cũng thật nên thơ. Bởi thế dòng
chảy của nàng Hương cũng trở nên “thẳng thực yên tâm” chảy nhanh hơn để gặp người tình.
Con sông vì thế mà như bỗng có hồn, có tâm trạng, con sông mang cái náo nức, rạo rực, nôn
nao, khao khát của một cô gái chuẩn bị gặp người mình yêu. Và thế là “nàng công chúa ngủ
trong rừng” đã sắp được gặp chàng hoàng tử ngàn năm mong chờ thật rồi. Thấy mình đã “tìm
đúng đường về” thật rồi – sông Hương như “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc
của vùng ngoại ô Kim Long”. Phép nhân hoá kết hợp với miêu tả trong những câu văn của
Hoàng Phủ Ngọc Tường làm dòng sông hiện lên thật sống động và gợi cảm biết bao.
Đoạn văn tiếp theo, tác giả mang đến ấn tượng thật sâu đậm về hình ảnh của Hương
giang đoạn chảy qua thành phố Huế. Nếu như trước đó, dòng sông chảy thật nhanh, chạy thật
mau trong nỗi niềm háo hức được ôm chầm lấy người mình yêu thì ở đoạn này sông Hương
lại mang một tâm trạng khác, một nét tâm lý khác: “Giáp thành phố ở cồn Giã Viên, sông
Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến; đường cong ấy làm dòng sông như mềm
hẳn đi như một tiếng “Vâng” không nói ra của tình yêu”. Phép so sánh mới lạ, độc đáo; cái
hữu hình so sánh với tâm trạng nên lột tả được cái e thẹn, ngượng ngùng, xấu hổ của người
con gái Hương Giang. Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật lãng mạn, tài hoa biết bao
trong những câu văn đậm chất hội hoạ và am hiểu tâm lý như thế. Qua ngòi bút tài hoa, tinh tế
ấy của nhà văn, sông Hương hiện lên như một thiếu nữ Huế. Trong niềm vui hân hoan của hội
ngộ mà phải đến “hàng thế kỷ qua đi” nàng mới được gặp người mình yêu, nhưng nàng vẫn
không đánh mất vẻ dịu dàng, e lệ, tình tứ vốn có của mình.
Bằng phép so sánh và cái nhìn hướng ngoại, nhà văn đã mở rộng tầm nhìn tới những
dòng sông đẹp của thế giới. Đó là những dòng sông nổi tiếng đã đi vào thi ca, nhạc hoạ như
sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Pu-đa-pét hay dòng sông Nê va hùng vĩ của nước Nga.
Tiếp đến, là cái nhìn hướng nội, tác giả lại quay về với Sông Hương, quay về với dòng sông
“nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình” và chợt nhận ra nàng Hương đoạn qua
thành phố Huế mang vẻ đẹp không chỉ ngoại hình mà còn đẹp ở tâm hồn thuỷ chung, chung
tình với Huế. Thầy Phan Danh Hiếu. Nhà văn Nga Lê-ô-nit Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm
phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” . Quả đúng vậy, nếu nhà
văn họ Hoàng sử dụng hình thức truyện ngắn hay tiểu thuyết để viết về sông Hương thì chắc
chắn sẽ không bao giờ lột tả hết được sức gợi của nó. Thể tuỳ bút đầy ngẫu hứng có lúc không
thể kiềm chế được cảm xúc của nhà văn nhưng chính nó đã mang lại vẻ đẹp lộng lẫy của sông
Hương. Chính nhờ thể tuỳ bút mà nhà văn đã “khám phá” được gần như đầy đủ nhất tâm hồn
sâu thẳm của Hương giang. Với cái nhìn hoài cổ kết hợp với cảm nhận tình yêu, nhà văn đã
thấu cảm được phần hồn sâu lắng của con sông xinh đẹp. Từ góc nhìn tình yêu, nhà văn nhìn
thấy giữa lòng thành phố, sông Hương tỏa thành nhiều nhánh sông Đào như những cánh tay
mềm mại, ôm ấp lấy người tình thủy chung. Ở góc nhìn hoài cổ, nhà văn lại thấy sông Hương
mang nét đẹp cổ thi đầy lãng mạn với hình ảnh: “sông Hương toả đi khắp phố thị, với những
cây đa cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy,
vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”.
Những hình ảnh ấy làm sông Hương vừa gần gũi đời thường, vừa lại như xa xăm như trong
cõi mênh mang của cổ thi. Hình ảnh “xóm thuyền xúm xít”, “ánh lửa…lập loè”, “đêm sương”
lại gợi nhớ “trăng tà chiếc quạ kêu sương”, “giang phong ngư hoả đối sầu miên” trong bài thơ
Đường nổi tiếng của Trương Kế – Phong Kiều dạ bạc. Nhưng sông Hương qua thành phố Huế
không chỉ mang những nét hội hoạ cổ thi như thế mà còn là một bản nhạc, một “điệu slow tình
cảm dành riêng cho Huế”.
Gặp gỡ người tình thủy chung, có lẽ ai cũng muốn thời gian trôi chậm lại, ngừng lại.
Sông Hương cũng vậy, phải trải qua một hành trình gian lao mới gặp được người tình mong
đợi nên dòng sông dùng dằng không chảy, lặng lẽ như chờ đợi. Vì thế qua Huế, dòng chảy
chùng hẳn xuống như “vấn vương của một nỗi lòng”. Chính đảo cồn Hến đã làm giảm lưu tốc
của dòng sông và tạo cho khuôn mặt dòng sông cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Nhà văn đã
quan sát tinh tế, bắt đúng thần thái, không khí, linh hồn cố đô: sâu lắng, kín đáo, suy tư. Thầy
Phan Danh Hiếu. Trong sự liên tưởng tới dòng chảy hùng vĩ của sông Nê Va với hình ảnh
giàu chất thơ: “sông Nê va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh
sáng của mặt trời mùa xuân” hay sự liên tưởng tới nhà triết học Hê –ra-clít đã khóc suốt đời vì
những dòng sông trôi qua quá nhanh. Nhà văn họ Hoàng lại đưa ta trở lại sông Hương trong
nỗi nhớ da diết, chảy bỏng: “tôi lại nhớ con sông Hương của tôi”. Rõ ràng, dù có đi trăm
phương nghìn hướng thì cũng không nơi nào đẹp bằng quê hương, và cũng chẳng có dòng
sông nào lại có thể đẹp bằng dòng sông của quê nhà. Qua cái nhìn hướng ngoại, lại hướng nội,
nhà văn càng thấy điệu slow của sông Hương thật trữ tình. Điệu slow ấy gắn với văn hoá tâm
linh của Huế: “có thể cảm nhận bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh từ
những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn
đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Ngôn ngữ mượt
mà, bóng bẩy, những tính từ, động từ mỹ miều kết hợp phép so sánh trong câu văn trên như tả
hết được nét đẹp lãng mạn mà giàu chất thơ, chất hoạ của sông Hương làm cho điệu slow tình
cảm ấy lại trở nên có linh hồn. Chính điệu slow trữ tình như bản tình ca dành riêng cho Huế đã
làm cho tấm chung tình của sông Hương với Huế trở nên da diết, đắm say. Tình yêu với Huế
của sông Hương cũng vì thế mà trở nên rất đỗi sâu nặng.
Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên một nét
đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm
nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là
“người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc
Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết
vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong
cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương
Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái
chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người
Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách
rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hoá Huế nói chung và vẻ
đẹp của Sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào ở trong nước cũng như trên thế giới.
Khi dời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc
điểm địa lý ở đất nước ta (hầu hết mọi dòng sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển) nên
thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy
sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự
nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu
hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và
chí tình. Nhà văn tưởng tượng, hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng
để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo
và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế. Hương giang
vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài
hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.
Đoạn trích sử dụng bút pháp miêu tả, nhân cách hoá, so sánh, liên tưởng độc đáo. Ngôn
ngữ vừa trí tuệ vừa giàu chất thơ, chất hoạ. Giọng văn mượt mà, truyền cảm. Bài ký rất tiêu
biểu cho phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường: kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa…
Qua những cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào thành phố Huế, có
thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian,
thời gian khác nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc
và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn ấy
và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết,
một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên
và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.