Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu

Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
24 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu

Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

163 82 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội. Sự biến đổi đó đã đặt ra cho các gia đình Việt Nam
những thách thức gì? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc
Họ và tên SV:
Lớp học phần:
Mã SV:
GVHD: TS. LÊ NGỌC THÔNG
....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2021
lOMoARcPSD| 45740413
MỤC LỤC
Chương 1. LÍ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH ............................. 1
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình ............................................................................ 1
1.1. Khái niệm về gia đình ...................................................................................................... 1
1.2. Vai trò của gia đình trong xã hội ...................................................................................... 1
II. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội .................................... 6
2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội ....................................................................................................... 6
2.2. Cơ sở chính trị - xã hội ..................................................................................................... 6
2.3. Cơ sở văn hoá ................................................................................................................... 6
2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ ................................................................................................... 6
Chương 2. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊNCHỦ NGHĨA XÃ HỘI ......................................................................................................... 7
I. Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ................ 7
II. Sự biến đổi của gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa hội đã đặt ra cho gia đình
Việt Nam những thách thức gì? ................................................................................................ 10
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH
...................................................................................................................................................... 11
MỚI TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................ 11
I. Nội dung chính sách của Đảng trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam ................... 11
II. Thành tựu và hạn chế của quá trình xây dựng chính sách gia đình mới ở Việt Nam .......... 12
Chương 4. GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CHO QUÁ
TRÌNH ......................................................................................................................................... 15
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM ............................................... 15
Chương 5. LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN TRONG VIỆC GÓP PHẦN ... 17
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA HIỆN NAY .................................................................... 17
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 18
MỞ ĐẦU
Vào thế kỉ XXI, cùng với sự phát triển của hội, có nhiều vấn đề mới nảy sinh,
trong đó vấn đề gia đình cũng có nhiều biến đổi phức tạp. Trong năm quốc tế gia đình
1994, với chủ đ“Gia đình các nguồn lực thế giới đang đổi thay”, Liên Hợp Quốc
đã lan tỏa thông điệp tốt đẹp đến thế giới nhằm động viên các quốc gia cần chú trọng
hơn trong việc xây dựng củng cố gia đình. Qua đó cho thấy gia đình một trong
những vấn đthời sự được nhân loại quan tâm. Việt Nam cũng không ngoại lệ, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm 2001 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
lOMoARcPSD| 45740413
định: Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng bồi dưỡng các thành
viên của mình có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của con người và
là tế bào lành mạnh của xã hội”.
thể nói gia đình “tế bào của hội”, vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, khi ta bước theo nhịp độ phát triển mới ngày nay, lại càng phải chú ý tới
việc phát huy những giá trị truyền thống trong gia đình, đồng thời chọn lọc đphát triển
hình hiện đại và phù hợp. Bên cạnh đó, nó còn ý nghĩa ứng dụng cùng lớn đối
với con người, đặc biệt với những người trẻ để tạo ra một xã hội mới ngày càng tốt đẹp
hơn.
Từ bối cảnh trên, ta đặt ra câu hỏi: Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội như thế nào trách nhiệm của bản thân trong việc góp
phần xây dựng gia đình văn hóa ra sao ? Nhằm tìm câu trả lời cho câu hỏi trên, em đã
chọn đề tài nghiên cứu: “Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội. Sự biến đổi đó đã đặt ra cho các gia đình Việt Nam những thách
thức gì? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần xây dựng gia đình
văn hóa hiện nay.”.
Rất mong thầy cô giáo bộ môn góp ý bổ sung để em có thể hoàn thiện thêm kiến
thức, hiểu biết để rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn!
lOMoARcPSD| 45740413
1
NỘI DUNG
Chương 1. LÍ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình
1.1. Khái niệm về gia đình
Gia đình một cộng đồng người đặc biệt, chủ yếu hình thành từ các mối quan hệ hôn nhân
và huyết thống, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hội. K.Marx F.Engels
đã đưa ra những nhận định về các quan hệ xã hội tham gia vào quá trình lịch sử: “Quan hệ thứ ba
tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và
vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình.”
Các cơ sở để hình thành nên quan hệ gia đình:
Quan hệ hôn nhân: (vợ - chồng): sở, nền tảng của các mối quan hệ khác trong gia
đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình.
Quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái): Là quan hệ giữa những người cùng dòng tộc, xuất
phát từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau một
cách bền chặt và tự nhiên nhất .
Các quan hệ khác: ông bà cháu – cháu chắt, anh chị - em ruột/họ, cha/mẹ nuôi (người đỡ
đầu) – con nuôi…
Các quan hệ này đều tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, hạn chế và phụ thuộc lẫn nhau. Vì
vậy có thể nói, yếu tố huyết thống và tình cảm chính là nét cơ bản nhất của gia đình. Tuy nhiên,
trước những yêu cầu của sản xuất, sinh hoạt và đời sống kinh tế, mối quan hệ giữa gia đình – xã
hội, giữa các thành viên trong cộng đồng dần trở nên chặt chẽ hơn, thích ứng với từng điều kiện
sản xuất cụ thể. Từ đó, làm cho gia đình trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh “xã hội thu
nhỏ”, có vai trò mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của xã hội.
1.2. Vai trò của gia đình trong xã hội
Gia đình không chỉ đơn vị tình cảm m hình thành từ mối quan hệ huyết thống
hôn nhân mà xét một cách rộng và đầy đủ hơn, gia đình còn là một tổ chức kinh tế - tiêu dùng (sở
lOMoARcPSD| 45740413
2
hữu, sản xuất, thu nhập,…), một môi trường giáo dục – văn hoá (văn hoá gia đình và cộng đồng),
một cơ cấu – thiết chế xã hội (có cơ chế và cách thức vận động riêng)…
1.2.1. Vị trí của gia đình
Thứ nhất, gia đình là “tế bào của xã hội”.
Mối quan hệ giữa gia đình hội cùng mật thiết với nhau, tương tự như tương c
hữu cơ trong tự nhiên của quá trình trao đổi chất . Xã hội (tổ hợp của các tế bào tạo thành cơ thể)
tạo điều kiện lành mạnh cho các gia đình phát triển, ngược lại các gia đình (tế bào) hạnh phúc
đóng góp cho sự đi lên của xã hội.
Trong mối quan hệ mật thiết ấy, trình độ phát triển của hội luôn được phản ánh trên hình
thức, tích chất kết cấu quy gia đình. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều này khi các đặc
điểm của gia đình đều lần lượt biến đổi tương ứng với những giai đoạn phát triển của xã hội khác
nhau:
hội nguyên thuỷ: gia đình tập thể, quần hôn, phù hợp với kinh tế cộng đồng nguyên
thuỷ, chế độ mẫu hệ, không có áp bức và bất bình đẳng.
Chế độ chiếm hữu lệ nhà nước phong kiến: gia đình thể nhưng còn tồn tại hình
thức đa thê, phù hợp với tư tưởng trọng nam khinh nữ, sự bất bình đẳng, bóc lột trong xã hội.
Nhà nước TBCN XHCN: gia đình thể tiên tiến, một vmột chồng, quan hệ bình
đẳng, được bảo vệ bởi pháp luật, đề cao quyền con người.
Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh, vững chắc thì con người phải quan tâm
xây dựng tế bào gia đình tốt. Chỉ khi con người được yên ấm, thuận hòa trong gia đình, thì mới
thể yên tâm lao động, sáng tạo đóng góp sức mình cho hội ngược lại. Chính vậy,
quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan
trọng trong con đường quá độ lên XHCN của bất kì quốc gia nào.
Thứ hai, gia đình là tổ ấm thân yêu, mang lại những giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên.
Gia đình môi trường tốt nhất để mỗi nhân được yêu thương, nuôi dưỡng, trưởng thành,
phát triển: trẻ thơ có điều kiện được an toàn khôn lớn, người già nơi nương tựa, người lao động
lOMoARcPSD| 45740413
3
được phục hồi sức khoẻchămc về tinh thần… Sự yên bình, hạnh phúc của mỗi gia đình là
tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực; từ đó tr
thành công dân tốt, đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
Vì vậy, việc xây dựng gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của con đường
quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói rằng: Nhiều gia đình cộng lại mới thành
xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia
đình. Chính vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa hội phải chú ý hạt nhân cho tốt.”. Tuy nhiên,
mức độ tác động của gia đình đối với hội phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ hội, đường
lối, chính sách của giai cấp cầm quyền, tđó đặt ra thách thức phải chính sách gia đình phù
hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Thứ ba, gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.
Gia đình c động cùng lớn đến sự hình thành phát triển nhân cách của mỗi con
người. Tuy nhiên, bên cạnh việc sống trong mối quan hệ gia đình, mỗi người còn cần thiết lập
những mối quan hệ với người khác ngoài những người thân trong gia đình. Mỗi người không chỉ
là thành viên trong gia đình, mà còn là thành viên của xã hội.
Trong thực tế, nhiều thông tin về xã hội được tác động đến cá nhân thông qua gia đình;
dụ như xã hội (cơ quan chính trị, bạn bè, trường lớp…) có cái nhìn toàn diện hơn về một cá nhân
khi biết thông tin về gia đình cá nhân dó. Nhiều nội dung quản lí xã hội không chỉ được thực hiện
qua các thiết chế xã hội mà còn qua hoạt động của gia đình; ví dụ như khi thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ bầu cử của công dân, dưới sự tác động chung của gia đình, các cá nhân trong gia đình sẽ
đưa ra quyết định sáng suốt nhất.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để có thể nâng cao ý thức công dân của
nhân trong việc thực hiện quyền nghĩa vụ, cùng góp công phát triển đất nước thì gia đình
chính là một cầu nối đáng tin cậy và hiệu quả cần được tận dụng tối đa.
1.2.2. Chức năng cơ bản của gia đình Chức
năng tái sản xuất con người.
Đây chính chức năng đặc trưng của gia đình trong hội không một cộng đồng
nào thể thay thế được. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh tnhiên của con
lOMoARcPSD| 45740413
4
người, nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ còn đáp ứng nhu cầu chung cung
cấp một lớp người mới, một lực lượng lao động mới, đảm bảo sự phát triển và trường tồn của
hội.
Tùy từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của hội, chức năng này được thực hiện theo xu
hướng hạn chế hay khuyến khích bởi mặc dù diễn ra trong gia đình, quá trình sinh đẻ ảnh hưởng
trực tiếp đến mật độ sự cân bằng dân số - một yếu tố liên quan chặt chẽ đến quá trình phát triển
mọi mặt của đời sống xã hội.
Vì vậy, để đất nước có một nguồn nhân lực hợp lí cho quá trình xây dựng đời sống kinh tế
- xã hội của hội XHCN, các quốc gia cần chú ý áp dụng chính sách kế hoạch hoá sinh sản theo
từng thời kì sao cho hợp lí nhất.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục.
Gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người ích cho gia đình
cộng đồng. Điều này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, đồng
thời cho thấy trách nhiệm của gia đình đối với hội. Khi thực hiện chức năng này, gia đình
vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Mỗi
thành viên trong gia đình đều vị trí, vai trò nhất định, vừa chủ thể, vừa khách thể trong
việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm
mẹ phải có kiến thức bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, quan trọng nhất là văn hóa, học vấn,
đặc biệt là phương pháp giáo dục để áp dụng phù hợp trong từng giai đoạn giáo dục khác nhau,
xuyên suốt quá trình phát triển của con trẻ: lúc lọt lòng đến lúc trưởng thành.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.
Gia đình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tái sản xuất ra liệu sản xuất
liệu tiêu dùng. Bên cạnh quá trình truyền nòi giống, đây chính là vai trò quan trọng đóng góp cho
xã hội.
Gia đình còn một đơn vị tiêu dùng trong hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức
tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt
trong gia đình. Đó là sử dụng hợp lý khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình để đảm bảo
lOMoARcPSD| 45740413
5
đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên. Hiệu quả kinh tế của gia đình quyết định hiệu
quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình.
Vì vậy, thực hiện tốt chức năng này không những tạo cho gia đình cơ sở để tổ chức tốt đời
sống, trở thành “tế bào” lành mạnh cho cộng đồng còn trực tiếp đóng góp to lớn đối với sự
phát triển của xã hội, thể hiện rõ nhất qua các chỉ tiêu về kinh tế như GDP hay GNP.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý cá nhân, duy trì tình cảm gia đình.
Đây chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm,
văn hóa, tinh thần cho các thành viên, bảo vệ chăm sóc sức khỏe. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa đạo đức, lương tâm của
mỗi người. Mọi thành viên đều trách nhiệm đóng góp cho tổ ấm gia đình bằng cách tham gia
thực hiện các chức năng gia đình đã nêu trên với mức độ khác nhau, tuỳ vào cương vị khả
năng của mình để từ đó “góp gạch” xây nên tổ ấm tốt đẹp, “tế bào” lành mạnh, góp công lớn
cho xã hội tiến bộ, văn minh.
Ngoài 4 chức năng chính nêu trên, gia đình còn có:
Chức năng văn hóa: gia đình là nơi lưu giữ những truyền thống văn hóa của dân tộc hay
tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng hầu hết được thực hiện
trong gia đình. Gia đình còn là nơi sáng tạo và tiếp nhận các giá trị văn hóa của xã hội. Đặc biệt
trong thời kì hội nhập kinh tế thị trường, việc tận dụng gia đình để bảo tồn bản sắc văn hoá, hoà
nhập chứ không hoà tan là việc hết sức quan trọng.
Chức năng chính trị: gia đình một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của nhà nước và các phong tục của làng hưởng lợi từ các hệ thống đó.
Gia đình chính là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. Tận dụng chức năng này
của gia đình để đảm bảo công dân thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình là điều hết sức cần
thiết trong việc điều chỉnh các mối quan hệ hội quy nhỏ chưa cần đến sự cưỡng chế từ cơ
quan chức năng.
lOMoARcPSD| 45740413
6
II. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Thứ nhất, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết nên để xây dựng gia đình trong thời
kì quá độ lên CNXH, là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ lực lượng sản
xuất, đó quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất XHCN. Trong hội XHCN, nguồn gốc áp
bức và bất bình đẳng trong xã hội gia đình dần bị xóa bỏ tạo sở kinh tế cho việc xây dựng
quan hệ bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ.
Thứ hai, xóa bỏ chế độ tư hữu về liệu sản xuất xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng
thống trị của người đàn ông trong gia đình. Từ đó, sở làm cho hôn nhân dựa trên tình yêu
chứ không phải do kinh tế, địa vị hay một sự tính toán nào khác.
2.2. Cơ sở chính trị - xã hội
sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH là việc thiết lập chính
quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chính là nhà nước XHCN của dân,
do dân và vì dân. Nhà nước có khả năng và nhiệm vụ phải xóa bỏ những luật lệ lạc hậu về người
phụ nữ và thực hiện việc giải phóng phụ nữ, đề cao sự công bằng, lành mạnh trong gia đình, bảo
vệ hạnh phúc gia đình thông qua hệ thống quyền lực nhà nước: Pháp luật và Hiến pháp (ví dụ như
Luật Hôn nhân Gia đình, 2014), bởi theo chủ tịch Hồ Chí Minh: Nếu không giải phóng phụ
nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa
xã hội chỉ một nửa.”
2.3. Cơ sở văn hoá
Các giá trị n hóa được xây dựng trên nền tảng tư tưởng, chính trị của giai cấp công nhân
đã từng bước hình thành chi phối nền tảng văn hóa. Lối sống lạc hậu cũng dần bị loại bỏ. S
phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí.
Từ đó, hình thành nhận thức chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình
xây dựng CNXH. Bởi nếu thiếu đi hoặc cơ sở văn hoá không phù hợp với cơ sở kinh tế, chính trị
và xã hội thì gia đình sẽ phát triển kém hiệu quả, lệch lạc.
2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
Hôn nhân tự nguyện.
lOMoARcPSD| 45740413
7
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Vì hôn nhân xuất phát
từ tình yêu sẽ dẫn đến hôn nhân tự nguyện, tránh đi sự sắp đặt do tài sản, địa vị hay các mưu đ
khác. Đây bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ. Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền
tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không còn nữa.
Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Bản chất của tình yêu không chia sẻ được, n hôn nhân một vợ một chồng kết quả
tất yếu của hôn nhân xuất phát ttình yêu. Hôn nhân một vợ một chồng điều kiện đảm bảo
hạnh phúc gia đình, thực hiện sự giải phóng phụ nữ, sự tôn trọng lẫn nhau, quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng (theo Luật Hôn nhân và Gia đình, 2014).
Quan hệ vợ chồng bình đẳng còn là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ với
con cái, ông bà với cháu chắt và anh chị em trong gia đình.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý.
Thực hiện thủ tục pháp trong hôn nhân thể hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách
nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và toàn xã hội. Đồng thời, hôn nhân
được đảm bảo về pháp cũng một trong những biện pháp ngăn chặn những nhân dùng
quyền tự do kết hôn, ly hôn để thỏa mãn nhu cầu không chính đáng.
Chương 2. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Việt Nam, sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới, vấn đề gia đình đã sự chuyển biến
mạnh mẽ. Nhưng về căn bản, gia đình vẫn được xây dựng dựa trên các giá trị truyền thống
vẫn đáp ứng được điều kiện của thời đại mới.
Biến đổi trong quy mô, kết cấu của gia đình
Quy mô gia đnh ngy nay có xu hưng thu nh hơn, s thnh viên
trong gia đnh t đi so vi trưc đây. Nếu gia đnh truyn thng có th tn tại ba bn thế h cùng
chung sng th ngy nay, gia đnh Vit Nam hin đại chi hai thế h: cha mẹ - con cái, s con
trong gia đnh cũng không nhiu ntrưc, bit còn s t gia đnh đơn thân, nhưng ph
biến nhất vn l gia đnh hạt nhân. S bnh đẳng nam nữ được đ cao, cuc sng riêng tư đưc
tôn trọng hơn, tránh được những mâu thun trong đi sng ca gia đnh truyn thng. S biến
đi ca gia đnh cho thấy chc năng ch cc, thay đi chnh bản thân gia đnh vh thng xã hi,
lm cho xã hi trở nên thch nghi v phù hợp hơn vi thi đại mi.
lOMoARcPSD| 45740413
8
Tuy nhiên, qtrnh biến đi ny cũng gây ra những phản chc năng như tạo ra khoảng
cách giữa các thnh viên gia đnh, khó khăn trong vic gn ginh cảm cũng như các giá trvăn
hóa truyn thng. hi ngy cng phát trin, mỗi ngưi đu bị cun theo công vic ca riêng
mnh vi mc đch kiếm thêm thu nhp, thi gian dnh cho gia đnh cũng v vy m ngy cng t
đi, lm cho mi quan h gia đnh trở nên lng lẻo.
Biến đổi các chức năng của gia đình
Chc năng tái sản xuất ra con ngưi
Vi thnh tu ca y học hin đại, hin nay vic sinh đẻ được các gia đnh ến hnh mt
cách ch đng, xác định s lượng con cái v thi đim sinh con. Hơn nữa, vic sinh con còn chịu
điu chinh bởi các chnh sách xã hi ca Nh nưc, tùy theo nh hnh dân s v nhu cầu v sc
lao đng ca xã hi. nưc ta, từ những năm 70 ca thế kỷ XX, Nh nưc đã tuyên truyn v
các bin pháp tránh thai v ến hnh kim soát dân s thông qua Cuc vn đng sinh đ kế
hoạch, khuyến khch mỗi cặp vợ chng chi nên từ 1 đến 2 con. Sang đầu thế kỷ XXI, dân s
Vit Nam đang chuyn sang giai đoạn gi hóa. Đ đảm bảo lợi ch ca gia đnh v s phát trin
bn vững ca hi, thông đip mi trong kế hoch hóa gia đnh l mỗi cặp vợ chng nên sinh
đ hai con.
Trưc kia, do ảnh hưởng ca phong tc, tp quán v nhu cầu sản xuất nông nghip, trong
gia đnh Vit Nam truyn thng, nhu cầu v con cái th hin trên ba phương din: phải con,
cng đông con cng tt v nhất thiết phải con trai ni dõi th ngy nay, nhu cầu ấy đã có những
thay đi căn bản th hin ở vic giảm s con mong mun v giảm nhu cầu nhất thiết phải có con
trai. Ngoi ra, s bn vững ca hôn nhân ph thuc rất nhiu vo yếu t tâm l, nh cảm, kinh
tế.
Chc năng kinh tế và t chc êu dng
Xt mt cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đnh đã hai bưc chuyn mang nh
bưc ngoặt. Th nhất, từ kinh tế t cung t cấp thnh kinh tế hng hóa, từ đơn vị kinh tế khp
kn sản xuất đ đáp ng nhu cầu ca gia đnh thnh đơn vị sản xuất ch yếu đ đáp ng nhu cầu
ca ngưi khác hay ca xã hi. Th hai, từ đơn vị kinh tế đặc trưng l sản xuất hng hóa đáp ng
nhu cầu ca thtrưng quc gia thnh t chc kinh tế ca nn kinh tế đáp ng nhu cầu ca thị
trưng ton cầu. Kinh tế gia đnh đang trở thnh b phn quan trọng trong nn kinh tế quc dân.
Tuy nhiên, trong bi cảnh hi nhp kinh tế v cạnh tranh sản phẩm vi các nưc trong khu
vc vtrên thế gii, kinh tế gia đnh gặp rất nhiu khó khăn trong vic chuyn sang hưng sn
xuất kinh doanh hng hóa theo hưng chuyên sâu trong kinh tế thtrưng hin đại do kinh tế
gia đnh phần ln có quy mô nh, lao đng t v t sản xuất l chnh.
Chc năng giáo dc (x hội hóa).
Trong xã hi truyn thng, giáo dc gia đnh l cơ sở ca giáo dc xã hi th ngy nay, giáo
dc xã hi bao trùm lên giáo dc gia đnh v đưa ra những mc êu, yêu cầu ca giáo dc xã hi
cho giáo dc gia đnh. Đim tương đng giữa giáo dc gia đnh truyn thng v giáo dc ca
hi mi l ếp tc nhấn mạnh s hy sinh ca cá nhân cho cng đng. Giáo dc gia đnh hin nay
xu hưng đầu ti chnh cho giáo dc con cái tăng, không chi nặng vgiáo dc đạo đc, ng
lOMoARcPSD| 45740413
9
x trong gia đnh, dòng họ, lng xã, m hưng đến giáo dc kiến thc khoa học hin đại, trang
bị công c đ con cái hòa nhp vi thế gii.
Tuy nhiên, s phát trin ca h thng giáo dc hi cùng vi s phát trin kinh tế, vai
trò giáo dc ca các ch th trong gia đnh có xu hưng giảm. Nhưng s gia tăng các hin tượng
êu cc xã hi v nh trưng đã lm cho s kvọng v nim n ca các bc cha mvo h
thng giáo dc xã hi trong vic rn luyn đạo đc, nhân cách cho con em ca họ đã giảm đi rất
nhiu so vi trưc đây. Hin tượng trẻ em b học sm, nghin ht… cũng cho thấy phần no s
bất lc ca xã hi v s bế tc ca mt s gia đnh trong vic chăm sóc v giáo dc trẻ em.
Chc năng tha mn nhu cu tâm sinh lý, duy tr nh cảm
Trong xã hi hin đại, đ bn vững ca gia đnh không chi ph thuc vo s rng buc ca
các mi quan h v trách nhim, ngha v; s hy sinh lợi ch cá nhân cho lợi ch gia đnh, m còn
bị chi phi bởi các mi quan h hòa hợp, đảm bảo hạnh phc cá nhân. Nhu cầu tha mãn tâm l
- nh cảm đang tăng do gia đnh có xu hưng chuyn đi tch yếu l đơn vkinh tế sang đơn
vị nh cảm. Nhưng ngy nay, các gia đnh đang đi mặt vi rất nhiu khó khăn. Đặc bit, trong
tương lai, khi tỷ l gia đnh mt con tăng th đi sng tâm l - nh cảm cũng skm phong
ph. Tác đng ca công nghip hóa dn ti phân hóa giu ngho sâu sc, lm mt s h gia đnh
có cơ may ch lũy ti sản trở nên giu có, trong khi đại b phn các gia đnh thnh lao đng lm
thuê do không có cơ hi phát trin sản xuất.
Bên cạnh đó, vấn đ đặt ra l cần thay đi tâm l truyn thng v vai trò ca con trai, tạo
dng quan nim bnh đẳng giữa con trai v con gái trong trách nhim nuôi dưng, chăm sóc cha
mẹ vth cng t ên. Nh nưc cần những giải pháp nhm bảo đảm giáo dc gii nh v
sc khe sinh sản cho các trẻ em; cng c chc năng hi hóa ca gia đnh, xây dng những
chuẩn mc v mô hnh mi gip cho các bc cha mẹ có định hưng giáo dc v hnh thnh nhân
cách trem; giải quyết tha đáng mâu thun giữa nhu cầu t do, ến b ca ph nữ hin đại vi
trách nhim lm dâu theo quan nim truyn thng, mâu thun v lợi ch giữa các thế h. Nó đòi
hi phải hnh thnh những chuẩn mc mi, bảo đảm s hi hòa lợi ch giữa các thnh viên trong
gia đnh cũng như lợi ch giữa gia đnh v xã hi.
Sự biến đổi quan h gia đình
Quan h hôn nhân và quan h vợ chng
Dưi tác đng ca cơ chế thtrưng, khoa học công ngh hin đại, ton cầu hóa… khiến
các gia đnh phải gánh chịu nhiu mặt trái như: quan h vợ chng - gia đnh lng lẻo; gia tăng tỷ
l ly hôn, ly thân, ngoại nh, quan h nh dc trưc hôn nhân v ngoi hôn nhân, chung sng
không kết hôn. Xuất hin nhiu bi kịch, thảm án gia đnh, ngưi gi cô đơn, trẻ em sng ch kỷ,
bạo hnh trong gia đnh, xâm hại nh dc…
Từ đó, dn ti h ly l giá trị truyn thng trong gia đnh bị coi nhẹ, kiu gia đnh truyn
thng bị phá v, lung lay v hin tượng gia tăng s h gia đnh đơn thân, đc thân, kết hôn đng
nh, sinh con ngoi giá th… Ngoi ra, sc p tcuc sng hin đại (công vic căng thẳng, không
n định, di chuyn nhiu…) cũng khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn vi nhiu ngưi trong xã
hi. Xuất hin những hin tượng mi m trưc đây chưa có hoặc t có: bạo lc gia đnh, ly hôn,
ly thân, ngoại nh, sng th,… Chng đã lm rạn nt, phá hoại s bn vững ca gia đnh, lm
cho gia đnh trở nên mong manh, dễ tan v hơn.
lOMoARcPSD| 45740413
10
Ngoi ra, các t nạn như trẻ em lang thang, nghin ht, buôn bán ph n qua biên
gii…cũng đang lm đe doạ, gây nhiu nguy cơ lm tan rã gia đnh.
Trong gia đnh truyn thng, ngưi chng l tr ct ca gia đnh, mi quyn lc trong gia
đnh đu thuc v ngưi đn ông. Ngưi chng l ngưi ch shữu ti sản ca gia đnh, ngưi
quyết định các công vic quan trọng ca gia đnh, k cả quyn dạy vợ, đánh con. Trong gia đnh
Vit Nam hin nay, không còn mt mô hnh duy nhất l đn ông lm ch gia đnh. Ngoi mô hnh
ngưi đn ông - ngưi chng lm ch gia đnh ra th còn có t nhất hai mô hnh khác cùng tn ti.
Đó l mô hnh ngưi ph nữ - ngưi vợ lm ch gia đnh v mô hnh cả hai vợ chng cùng
lm ch gia đnh. Ngưi ch gia đnh được quan nim l ngưinhững phẩm chất, năng lc v
đóng góp vượt tri, được các thnh viên trong gia đnh coi trọng.
Quan h giữa các thế h, các giá trị, chuẩn mc văn hóa ca gia đnh
Trong bi cảnh hin nay, quan h giữa các thế hcũng như giá trị, chuẩn mc văn hóa ca
gia đnh cũng không ngừng biến đi. Trong gia đnh truyn thng, mt đa trẻ sinh ra v ln lên
dưi s dạy bảo thưng xuyên ca ông b, cha mẹ ngay từ khi còn nh. Trong gia đnh hin đại,
vic giáo dc trẻ em gần nphó mặc cho nh trưng, thiếu đi s dạy bảo thưng xuyên ca
ông b, cha mẹ. Ngược lại, ngưi ln tui trong gia đnh truyn thng thưng sng cùng vi con
cháu, cho nên nhu cầu v tâm l, nh cảm được đáp ng đầy đ. Khi quy mô gia đnh bị biến đi,
ngưi cao tui phải đi mặt vi s cô đơn thiếu thn v nh cảm.
II. Sự biến đổi của gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã đặt ra cho gia
đình Việt Nam những thách thức gì?
Những biến đi trong quan h gia đnh cho thy, rất nhiu những thách thc ln đt
ra cho gia đnh Vit Nam hin nay trong thi kỳ quá đ lên Ch ngha xã hi.
Th nhất, có th nói rng các thnh viên rất thương yêu nhau nhưng t dnh thi gian cho
nhau. Cuc sng quá bn rn v thách thc đến mc mỗi nhân đu đm mnh trong công vic.
Tht hiếm hoi có mt bui sinh hoạt chung đầy đ tất cả các thnh viên. Con cái th c học thêm
hoặc học tăng cưng liên tc, cha mẹ th phải lm ăn, xoay xở, anh chị cũng t có thi gian quan
tâm đến nhau. Nhiu trẻ vị thnh niên cho rng đòi hi cha mẹ mỗi ngy dnh mt gi nói chuyn
vi mnh sao m khó quá. Dưng như điu ny cũng thc s đang tn tại khi chnh cha mẹ cũng
thừa nhn rng bn rn quá nên khó có th thc hin điu đó mt cách thưng xuyên.
Th hai, s gn kết giữa các thnh viên phần lng lẻo khi mỗi thnh viên bt đầu
cuc sng đc lp riêng ca mnh. Khi m không gian sng được chia ct khá rạch ròi, khi m
những bui cơm gia đnh thưa dần hay bếp la gia đnh không thưng xuyên ấm thlẽ mọi
vấn đ liên kết trong gia đnh trở nên bị chùng” xung mt cách khá rõ. Nhiu trẻ ở đ tui u
học ngy nay vn th hin ưc được ăn cơm gia đnh cùng vi cha mnhư mt nim vui,
được chia sẻ vi mẹ cha những nim vui nỗi bun l mt hạnh phc. Vsao nên nỗi? Chc chn
rng chnh những ngh suy rất con ngưi, chnh những khát khao rất nh cảm v gn kết nhưng
vn chưa được thc hin đã thôi thc trẻ em ưc mơ giản dị như thế. Xem ra thc s l s gn
kết ny vẻ blung lay. Thc tế còn hơn thế nữa khi con cái cũng không đ thi gian vđiu
kin đ v thăm cha- thăm mẹ vo cui tuần thm ch l có nhiu con cháu vn không còn “điu
kin” đ v thăm dòng họ vo những ngy lễ lc. Vấn đ ny phải chăng cũng l mt thách thc
lOMoARcPSD| 45740413
11
trong hnh trnh đi m hạnh phc gia đnh khi m s liên kết v chăm sóc dnh cho nhau thc
s t i v mng manh.
Th ba, đó l những mâu thun v những xung đt trong gia đnh vn còn tn tại khá
nhiu. Điu ny không mâu thun hon ton vi chuyn biết chấp nhn nhau như đã đ cp
nhưng rng l nhiu gia đnh ngy nay có xu hưng ddng bị xung đt cùng nhau v những
vấn đ khá nh. Cũng từ đây nạn bạo lc bạo hnh trong gia đnh tn tại nhiu v diễn biến
hết sc phc tạp. Không còn đơn giản l vấn đ bạo hnh th xác m đã chuyn dần sang bạo
hnh nh thần... Gần đây chuyn bạo hnh ti chnh v cả bạo hnh nh dc cũng l mt vấn đ
hết sc nhc nhi. Khi con ngưi hiu biết trong cuc sng nhiu hơn v sâu hơn, khi con ngưi
bt đầu quan tâm nhiu hơn đến hi lut pháp... th chưa chc g ngưi ta đã dại dt bạo
hnh th xác ngưi chung sng m biết đâu lại chuyn hưng sang nhiu biu hin khác. Định
dạng bạo hnh trong đi sng gia đnh cũng l mt thách thc!
Điu th cũng khá ni tri v ng l mt trong những vấn đ cần quan tâm đến các
gia đnh hin nay, đó l hin tượng gia đnh trẻ chiu hưng ly hôn khá tăng. Những s liu
gần đây cho thấy, hơn 30% các cặp vợ chng trly hôn sau chưa đầy 3 năm chung sng. Điu ny
cho thấy các cặp vợ chng trẻ có phần khá vi vã khi kết hôn ri cũng rất mạnh mẽ đưa nhau ra
tòa đ phá nát gia đnh m chnh mnh đã gầy dng sau mt thi gian ngn ngi đ chung sng.
Xt trên phương din gia đnh th chnh vic chưa m hiu knhau sẽ ddng dn đến những
thiếu hiu biết v nhau ng như thiếu s tương đng. Xt góc đ khác m nh chịu trách
nhim trong gia đnh cũng như s c ng đ dung hòa, đ hưng ti s đng cảm còn khá thấp
nên những kết cc bun trong gia đnh dễ diễn ra...
Có th nói rng tht khó khái quát hết v những đim sáng hay những khoảng lặng trong
gia đnh Vit Nam thi hin đại nhưng chc chn rng vi s phát trin ca cuc sng th những
thách thc ngy cng trở nên quá ln vi các gia đnh. Lo lái con thuyn gia đnh cp bến hạnh
phc thc s l mt vấn đ quá khó khăn hin nay nếu như mỗi thnh viên thiếu hẳn squan
tâm đch thc, s rung cảm đch thc cũng như s hy sinh cái tôi nhân đ hưng đến cái chung
mang nh bn bi.
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA
ĐÌNH MỚI TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Nội dung chính sách của Đảng trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam
Gia đình mới phải được xây dựng dựa trên sở kế thừa, gìn giữ phát huy những giá trị tốt
đẹp của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tiên tiến, giá trị mới của thời
đại về gia đình.
Tiếp tục kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp như: đoàn kết trong gia đình,
tình nghĩa thủy chung, đề cao đạo đức bổn phận, tình làng nghĩa xóm... Song đồng thời phải
khắc phục, loại bỏ những giá trị, hủ tục không còn phù hợp, như: gia trưởng, trọng nam khinh nữ,
bất bình đẳng, tảo hôn, nghi lễ rườm rà, tốn kém trong ma chay, cưới hỏi...
lOMoARcPSD| 45740413
12
Tiếp thu chọn lọc những giá trị văn hoá của nhân loại, những giá trị mới tiến bộ như: dân
chủ, bình đẳng, hôn nhân một vợ một chồng, tự do trong hôn nhân, hợp pháp hoá hôn nhân đồng
giới…
Kết hợp tốt hai biện pháp trên để góp phần xây dựng gia đình XHCN lành mạnh, công
bằng, văn minh, là tập hợp các giá trị tinh hoa của toàn nhân loại.
Xây dựng gia đình mới phải trên sở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, đảm bảo quyền tự do kết
hôn và tự do ly hôn.
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính,
thương yêu, chia sẻ những khó khăn, những công việc trong gia đình và cùng nhau xây dựng cuộc
sống hạnh phúc. Hôn nhân tiến bộ tự nguyện luôn bao gồm hai mặt: tự do kết hôn và ly n.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng ly hôn hai mặt. Ly hôn khó tránh khỏi khi tình yêu đôi bên không
còn. Song ly hôn sẽ cũng để lại những hậu quả rất to lớn, như làm ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách của con trẻ và là yếu tố dẫn đến tệ nạn xã hội gia tăng....
Gia đình mới được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giới, yêu thương, trách nhiệm cùng chia
sẻ, gánh vác công việc của các thành viên trong gia đình để thực hiện tốt các chức năng
bản của gia đình và hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội.
Gia đình phải thực hiện bình đẳng giới, đảm bảo sự bình đẳng của cả hai giới trong gia
đình, nhất là bình đẳng giữa chồng và vợ, giữa con trai và con gái. Các thành viên trong gia đình
phải yêu thương, có trách nhiệm với nhau, cùng chia sẻ các công việc của gia đình.
Xây dựng gia đình mới phải gắn liền với việc hình thành, thiết lập củng cố từng bước các
quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các thiết chế, tổ chức ngoài gia đình.
Xây dựng gia đình mới tiến bộ phải gắn liền với việc giữ gìn phát huy tình làng nghĩa
xóm, tình đoàn kết gắn cộng đồng; thực hiện tốt những chủ trương, chính sách mới, những quy
dịnh của cộng đồng dân cư...
II. Thành tựu và hạn chế của quá trình xây dựng chính sách gia đình mới ở Việt Nam
Dựa trên các nội dung về chính sách của Đảng Nhà nước trong việc xây dựng chính
sách gia đình mới, có thể chia sự phát triển của quá trình theo 5 tiêu chí như sau:
lOMoARcPSD| 45740413
13
Thứ nhất, tiêu chí no ấm
Thời gian qua, mức sống của gia đình Việt Nam trên các khía cạnh nhà ở, thu nhập, chi
tiêu ngày càng được nâng cao. Theo số liệu từ “The Wealth Report” 2020 của Knight Frank (tổ
chức về bất động sản, nhà ở và thương mại uy tín thế giới), Việt Nam đã có 458 người với giá trị
tài sản ròng từ 30 triệu USD trở lên (tương đương khoảng 700 tỉ đồng), tăng 7% so với một năm
trước, dự báo sẽ tăng đến 64% trong giai đoạn tới.
Từ khi tiến hành đổi mới, kích hoạt kinh tế thị trường đa thành phần, tỷ trọng đóng góp
của khu vực kinh tế nhân vượt trội; theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, kinh tế nhân
đóng góp 39,21% GDP, cao hơn so với 28,7% của khu vực kinh tế Nhà nước, 18,07% từ khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài và 4,04% từ khu vực kinh tế tập thể.
Về mặt hạn chế: tỷ lệ giàu nghèo giữa các khu vực kinh tế, giữa vùng thành thị- nông
thôn còn cao, nhiều khu vực chưa đạt chuẩn Nông thôn mới hoặc chuẩn theo “hình thức” chứ
chưa đi vào thực tiễn…
Thứ hai, tiêu chí bình đằng
Thực hiện tốt chính sách bình đằng việc làm đối với nữ giới. Việt Nam là một trong những
quốc gia tỷ lệ nữ giới tham gia lực lượng lao động cao nhất (nghĩa tỷ lệ phụ nữ đang làm
việc được trả lương hoặc tìm kiếm nó) trên thế giới. Khoảng 79% phụ nữ từ 15 đến 64 tuổi trong
lực lượng lao động, so với 86% nam giới.
Vai trò của phụ nữ trong gia đình ngày càng được nâng cao, quan niệm đàn bà xây tổ ấm
lại càng đúng hơn bao giờ hết, đặc biệt trong việc giáo dục, dạy dỗ con cái. Phụ nữ ngày càng
có tiếng nói, không chỉ trong gia đình mà còn trong bộ máy chính quyền. Trong những nhiệm kỳ
Đại hội Đảng vừa qua luôn có sự góp mặt của cán bộ nữ là Thứ trưởng, Bộ trưởng, Bí thư Trung
ương Đảng và Ủy viên Bộ Chính trị với tỷ lệ nữ trong Quốc hội là gần 27%.
Về mặt hạn chế: vẫn còn tình trạng trọng nam khinh nữ một số gia đình truyền thống.
Theo GS - TS Nguyễn Đình Cử, tình trạng biết giới tính thai nhi ngày càng phổ biến. Một điều tra
cho thấy, 86,7% phụ nữ thành thị biết giới tính thai nhi; nông thôn tỷ lệ này 78,9%; với các
gia đình giàu có, tâm mong muốn can thiệp để con trai cũng rất cao. Nguyễn Thị Ngọc
Lan, Phó tổng cục trưởng, Tổng cục n số - Kế hoạch hóa gia đình, cảnh báo nếu không quyết
lOMoARcPSD| 45740413
14
liệt sẽ gây hậu qulâu dài với dự báo đến năm 2050 Việt Nam sẽ thừa 2,3 - 4,3 triệu nam giới,
kéo theo hệ lụy về nguy cơ kết hôn nhiều lần, tệ nạn mại dâm…
Thứ ba, tiêu chí tiến bộ
Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình, quy mô gia đình hiện nay xu hướng thu hẹp so với
trước đây, số thành viên trong gia đình cũng giảm đi. Chỉ trong vòng 40 năm quy mô gia đình đã
giảm từ 5.22 người/hộ năm 1979 xuống 4 người/hộ năm 2018. Ngày nay, xu hướng hạt nhân hóa
gia đình ngày càng trở nên phổ biến vì những lợi thế và ưu điểm của nó, đặc biệt là tính thích hợp
với thời đại mới.
Ngoài ra, tiêu chí này còn được thể hiện trong việc thực hiện giáo dục gia đình bình
đẳng giới. Hiện nay, việc giáo dục con cái trong gia đình vẫn chủ yếu hướng đến những giá trị
truyền thống cốt lõi như trung thực, hiếu thảo, nghĩa tình, tiết kiệm, ... Cần phát huy vai trò của
giáo dục gia đình, tạo nền tảng để ươm mầm cho các em thành những nhân tố hòa nhập vào xã
hội hiện đại những công dân ích. Hơn nữa, các dịch vụ hỗ trợ giáo dục, vấn tiền hôn nhân,
giữa hôn nhân sau hôn nhân, hỗ trợ gia đình về các phương pháp nội dung giáo dục mới
ngày càng được phổ biến rộng rãi để thích ứng với các giá trị và lối sống đang thay đổi trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Về mặt hạn chế: Quá trình biến đổi này cũng dẫn đến phản chức năng như tạo ra sự ngăn
cách giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, vướng mắc trong việc gìn giữ tình cảm gia
đình cũng như các giá trị văn hóa truyền thống. Xã hội ngày càng phát triển khiến mỗi người đều
bị cuốn theo guồng quay công việc để kiếm thêm thu nhập, vì vậy mà thời gian dành cho gia đình
cũng ngày càng giảm. Con người ta dường như rơi vào vòng xoáy của tiền bạc địa vị hội
tình đánh mất tình cảm gia đình. Các thành viên ít giao tiếp quan tâm đến nhau hơn, làm
cho mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo, rời rạc... Đó hạn chế còn tồn tại của gia đình hiện
đại so với gia đình truyền thống xưa. Chính sự coi trọng, đặt kinh tế lên hàng đầu đã làm cho các
giá trị tốt đẹp lâu đời của gia đình bị phai nhòa, thậm chí còn dễ dẫn tới các hệ lụy xấu.
Thứ tư, tiêu chí hạnh phúc
Chính sách của Nhà nước xu hướng thả lòng, không can thiệp vào đời sống riêng của
đôi lứa, tôn trọng quyền riêng tư con người.
lOMoARcPSD| 45740413
15
Tuy nhiên điều đó lại dẫn đến hạn chế rằng: số lượng gia đình hạnh phúc xu hướng
giảm, đặc biệt xuất hiện ở thế hệ trẻ với tình trạng nhiều người trẻ không muốn lập gia đình, lập
gia đình được vài năm thì ly hôn. Theo nghiên cứu của TS Nguyễn Minh Hòa (ĐH Khoa học Xã
hội & Nhân văn TP HCM), tỷ lệ ly hôn/kết hôn ở Việt Nam là 31,4%, tức là cứ ba cặp vợ chồng
thì có một cặp ly hôn.
Thứ năm, tiêu chí bền vững
Trong những năm qua, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
đã nhấn mạnh việc xây dựng và phát triển các mô hình gia đình điển hình tiên tiến; kịp thời biểu
dương, ghi người vượt khó, vươn lên tiến bộ gia đình, dòng họ có điều kiện kinh tế khá, cần cù,
hiếu học, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ kiểu mẫu, tấm gương về chăm sóc người
cao tuổi, bảo vệ, kế hoạch hoá gia đình tốt, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Ngoài ra, với việc kéo dài tuổi thọ, nâng cao chất lượng cuộc sống, ngày càng nhiều
người cao tuổi khỏe mạnh vẫn nhu cầu cống hiến, đóng góp, làm việc không chỉ mục đích
kinh tế mà còn để sống khỏe mạnh, tỉnh táo và khỏe mạnh. Với tư cách là người chăm sóc giáo
dục thế hệ trẻ, người bảo vệ truyền thống, người lãnh đạo cộng đồng người dân hình mẫu,
người cao tuổi đã đang nhiều đóng góp về mặt hội, văn hóa, kinh tế chính trị cho
hội theo nhiều cách khác nhau. Điều này cũng cho phép người cao tuổi phát huy tốt hơn vai trò
của mình đối với kinh tế, giáo dục và văn hóa, trở thành nguồn lực kinh tế và tinh thần quan trọng
cho xã hội.
Chương 4. GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CHO QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về vấn đề gia đình.
Đảng và Nhà nước cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện và xây dựng những phương hướng mới
phù hợp với đặc điểm của hộ gia đình Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội bền vững hiện
nay. Chiến lược phát triển gia đình giai đoạn 2021-2030 nên được sớm xây dựng để có thể bắt kịp
tiến độ phát triển kinh tế, xã hội không ngừng của đất nước cũng như toàn thế giới.
lOMoARcPSD| 45740413
16
Thứ hai, đảm bảo thực hiện tốt chức năng và vị trí của gia đình trong xã hội Việt Nam
ngày nay, đặc biệt là vai trò giáo dục thế hệ trẻ.
Gia đình cần phối hợp chặt chẽ hơn với nhà trường trong việc quản lý, giáo dục đạo đức,
lối sống cho trem. Trong môi trường hội, cần xác định nội dung giáo dục đạo đức một
trong những chủ thể của kế hoạch giáo dục ngay từ khi học mẫu giáo. Đồng thời, hoàn thiện kế
hoạch giáo dục đạo đức, lối sống của nhà trường, làm phong phú nội dung, phong phú phương
pháp dạy học, giúp thay đổi cách hiểu và hành vi một cách hiệu quả.
Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia
đình.
Công nghiệp hóa cần tạo cơ hội bình đẳng để mọi vùng, mọi dân tộc, thành thị, nông thôn,
nhóm gia đình giàu nhóm hộ nghèo đều có ththam gia o quá trình này. Quan điểm này cũng
phù hợp với mục tiêu tăng trưởng chung mà Việt Nam phấn đấu đạt được, đó “không ai bị bỏ
lại phía sau” trong quá trình phát triển.
Cần nắm bắt đúng xu hướng thay đổi của các chức năng kinh tế gia đình, xây dựng các
chính sách tương ứng, phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế tối đa các nhân tố ảnh hưởng đến
chức năng kinh tế gia đình. Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế - hội lấy gia đình làm
trung tâm để thúc đẩy kinh tế gia đình phát triển. Khuyến khích các thành viên trong gia đình hỗ
trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh và đời sống nhằm duy trì các giá trị truyền thống gắn kết các
thành viên trong gia đình ở Việt Nam.
Thứ tư, tiếp tục kế thừa các giá trị của gia đình truyền thống và tiếp thu những tiến bộ của
nhân loại trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Xây dựng phát triển gia đình Việt Nam hiện nay vừa phải kế thừa, phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, vừa kết hợp với những giá trị tiến bcủa gia đình hiện đại để phù
hợp với sự vận động và phát triển tất yếu của hội. Tất cả đều mục tiêu làm cho gia đình
trở thành tế bào thực sự, lành mạnh trong xã hội và là tổ ấm của mỗi người.
Thứ năm, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn
hóa.
| 1/24

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội. Sự biến đổi đó đã đặt ra cho các gia đình Việt Nam
những thách thức gì? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc
góp phần xây dựng gia đình văn hóa hiện nay. Họ và tên SV: Lớp học phần: Mã SV:
GVHD: TS. LÊ NGỌC THÔNG
.................................................................................... HÀ NỘI, NĂM 2021 lOMoAR cPSD| 45740413 MỤC LỤC
Chương 1. LÍ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH ............................. 1
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình ............................................................................ 1
1.1. Khái niệm về gia đình ...................................................................................................... 1
1.2. Vai trò của gia đình trong xã hội ...................................................................................... 1
II. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội .................................... 6
2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội ....................................................................................................... 6
2.2. Cơ sở chính trị - xã hội ..................................................................................................... 6
2.3. Cơ sở văn hoá ................................................................................................................... 6
2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ ................................................................................................... 6
Chương 2. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊNCHỦ NGHĨA XÃ HỘI ......................................................................................................... 7
I. Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ................ 7
II. Sự biến đổi của gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã đặt ra cho gia đình
Việt Nam những thách thức gì? ................................................................................................ 10
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH
...................................................................................................................................................... 11
MỚI TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................ 11
I. Nội dung chính sách của Đảng trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam ................... 11
II. Thành tựu và hạn chế của quá trình xây dựng chính sách gia đình mới ở Việt Nam .......... 12
Chương 4. GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CHO QUÁ
TRÌNH ......................................................................................................................................... 15
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM ............................................... 15
Chương 5. LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN TRONG VIỆC GÓP PHẦN ... 17
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA HIỆN NAY .................................................................... 17
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 18
MỞ ĐẦU
Vào thế kỉ XXI, cùng với sự phát triển của xã hội, có nhiều vấn đề mới nảy sinh,
trong đó vấn đề gia đình cũng có nhiều biến đổi phức tạp. Trong năm quốc tế gia đình
1994, với chủ đề “Gia đình các nguồn lực và thế giới đang đổi thay”, Liên Hợp Quốc
đã lan tỏa thông điệp tốt đẹp đến thế giới nhằm động viên các quốc gia cần chú trọng
hơn trong việc xây dựng và củng cố gia đình. Qua đó cho thấy gia đình là một trong
những vấn đề thời sự được nhân loại quan tâm. Ở Việt Nam cũng không ngoại lệ, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm 2001 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng lOMoAR cPSD| 45740413
định: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành
viên của mình có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của con người và
là tế bào lành mạnh của xã hội
”.
Có thể nói gia đình là “tế bào của xã hội”, vì vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, khi ta bước theo nhịp độ phát triển mới ngày nay, lại càng phải chú ý tới
việc phát huy những giá trị truyền thống trong gia đình, đồng thời chọn lọc để phát triển
mô hình hiện đại và phù hợp. Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa ứng dụng vô cùng lớn đối
với con người, đặc biệt với những người trẻ để tạo ra một xã hội mới ngày càng tốt đẹp hơn.
Từ bối cảnh trên, ta đặt ra câu hỏi: Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như thế nào và trách nhiệm của bản thân trong việc góp
phần xây dựng gia đình văn hóa ra sao ? Nhằm tìm câu trả lời cho câu hỏi trên, em đã
chọn đề tài nghiên cứu: “Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội. Sự biến đổi đó đã đặt ra cho các gia đình Việt Nam những thách
thức gì? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần xây dựng gia đình
văn hóa hiện nay.
”.
Rất mong thầy cô giáo bộ môn góp ý bổ sung để em có thể hoàn thiện thêm kiến
thức, hiểu biết để rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn! lOMoAR cPSD| 45740413 1 NỘI DUNG
Chương 1. LÍ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình
1.1. Khái niệm về gia đình

Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, chủ yếu hình thành từ các mối quan hệ hôn nhân
và huyết thống, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. K.Marx và F.Engels
đã đưa ra những nhận định về các quan hệ xã hội tham gia vào quá trình lịch sử: “Quan hệ thứ ba
tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và
vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình.”
Các cơ sở để hình thành nên quan hệ gia đình: •
Quan hệ hôn nhân: (vợ - chồng): Là cơ sở, nền tảng của các mối quan hệ khác trong gia
đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. •
Quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái): Là quan hệ giữa những người cùng dòng tộc, xuất
phát từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau một
cách bền chặt và tự nhiên nhất . •
Các quan hệ khác: ông bà cháu – cháu chắt, anh – chị - em ruột/họ, cha/mẹ nuôi (người đỡ đầu) – con nuôi…
Các quan hệ này đều tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, hạn chế và phụ thuộc lẫn nhau. Vì
vậy có thể nói, yếu tố huyết thống và tình cảm chính là nét cơ bản nhất của gia đình. Tuy nhiên,
trước những yêu cầu của sản xuất, sinh hoạt và đời sống kinh tế, mối quan hệ giữa gia đình – xã
hội, giữa các thành viên trong cộng đồng dần trở nên chặt chẽ hơn, thích ứng với từng điều kiện
sản xuất cụ thể. Từ đó, làm cho gia đình trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh “xã hội thu
nhỏ”, có vai trò mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của xã hội.
1.2. Vai trò của gia đình trong xã hội
Gia đình không chỉ là đơn vị tình cảm – tâm lí hình thành từ mối quan hệ huyết thống và
hôn nhân mà xét một cách rộng và đầy đủ hơn, gia đình còn là một tổ chức kinh tế - tiêu dùng (sở lOMoAR cPSD| 45740413 2
hữu, sản xuất, thu nhập,…), một môi trường giáo dục – văn hoá (văn hoá gia đình và cộng đồng),
một cơ cấu – thiết chế xã hội (có cơ chế và cách thức vận động riêng)…
1.2.1. Vị trí của gia đình
Thứ nhất, gia đình là “tế bào của xã hội”.
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội vô cùng mật thiết với nhau, tương tự như tương tác
hữu cơ trong tự nhiên của quá trình trao đổi chất . Xã hội (tổ hợp của các tế bào tạo thành cơ thể)
tạo điều kiện lành mạnh cho các gia đình phát triển, ngược lại các gia đình (tế bào) hạnh phúc
đóng góp cho sự đi lên của xã hội.
Trong mối quan hệ mật thiết ấy, trình độ phát triển của xã hội luôn được phản ánh trên hình
thức, tích chất kết cấu và quy mô gia đình. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều này khi các đặc
điểm của gia đình đều lần lượt biến đổi tương ứng với những giai đoạn phát triển của xã hội khác nhau: •
Xã hội nguyên thuỷ: gia đình tập thể, quần hôn, phù hợp với kinh tế cộng đồng nguyên
thuỷ, chế độ mẫu hệ, không có áp bức và bất bình đẳng. •
Chế độ chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến: gia đình cá thể nhưng còn tồn tại hình
thức đa thê, phù hợp với tư tưởng trọng nam khinh nữ, sự bất bình đẳng, bóc lột trong xã hội. •
Nhà nước TBCN và XHCN: gia đình cá thể tiên tiến, một vợ một chồng, quan hệ bình
đẳng, được bảo vệ bởi pháp luật, đề cao quyền con người.
Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh, vững chắc thì con người phải quan tâm
xây dựng tế bào gia đình tốt. Chỉ khi con người được yên ấm, thuận hòa trong gia đình, thì mới
có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức mình cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy,
quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan
trọng trong con đường quá độ lên XHCN của bất kì quốc gia nào.
Thứ hai, gia đình là tổ ấm thân yêu, mang lại những giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên.
Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng, trưởng thành,
phát triển: trẻ thơ có điều kiện được an toàn khôn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao động lOMoAR cPSD| 45740413 3
được phục hồi sức khoẻ và chăm sóc về tinh thần… Sự yên bình, hạnh phúc của mỗi gia đình là
tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực; từ đó trở
thành công dân tốt, đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
Vì vậy, việc xây dựng gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của con đường
quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói rằng: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành
xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia
đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý hạt nhân cho tốt.”. Tuy nhiên,
mức độ tác động của gia đình đối với xã hội phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ xã hội, đường
lối, chính sách của giai cấp cầm quyền, từ đó đặt ra thách thức phải có chính sách gia đình phù
hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Thứ ba, gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.
Gia đình có tác động vô cùng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con
người. Tuy nhiên, bên cạnh việc sống trong mối quan hệ gia đình, mỗi người còn cần thiết lập
những mối quan hệ với người khác ngoài những người thân trong gia đình. Mỗi người không chỉ
là thành viên trong gia đình, mà còn là thành viên của xã hội.
Trong thực tế, nhiều thông tin về xã hội được tác động đến cá nhân thông qua gia đình; ví
dụ như xã hội (cơ quan chính trị, bạn bè, trường lớp…) có cái nhìn toàn diện hơn về một cá nhân
khi biết thông tin về gia đình cá nhân dó. Nhiều nội dung quản lí xã hội không chỉ được thực hiện
qua các thiết chế xã hội mà còn qua hoạt động của gia đình; ví dụ như khi thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ bầu cử của công dân, dưới sự tác động chung của gia đình, các cá nhân trong gia đình sẽ
đưa ra quyết định sáng suốt nhất.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để có thể nâng cao ý thức công dân của
cá nhân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ, cùng góp công phát triển đất nước thì gia đình
chính là một cầu nối đáng tin cậy và hiệu quả cần được tận dụng tối đa.
1.2.2. Chức năng cơ bản của gia đình Chức
năng tái sản xuất con người.
Đây chính là chức năng đặc trưng của gia đình mà trong xã hội không có một cộng đồng
nào có thể thay thế được. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con lOMoAR cPSD| 45740413 4
người, nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu chung là cung
cấp một lớp người mới, một lực lượng lao động mới, đảm bảo sự phát triển và trường tồn của xã hội.
Tùy từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo xu
hướng hạn chế hay khuyến khích bởi mặc dù diễn ra trong gia đình, quá trình sinh đẻ ảnh hưởng
trực tiếp đến mật độ và sự cân bằng dân số - một yếu tố liên quan chặt chẽ đến quá trình phát triển
mọi mặt của đời sống xã hội.
Vì vậy, để đất nước có một nguồn nhân lực hợp lí cho quá trình xây dựng đời sống kinh tế
- xã hội của xã hội XHCN, các quốc gia cần chú ý áp dụng chính sách kế hoạch hoá sinh sản theo
từng thời kì sao cho hợp lí nhất.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục.
Gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình và
cộng đồng. Điều này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, đồng
thời cho thấy trách nhiệm của gia đình đối với xã hội. Khi thực hiện chức năng này, gia đình có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Mỗi
thành viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong
việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm
mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, quan trọng nhất là văn hóa, học vấn,
đặc biệt là phương pháp giáo dục để áp dụng phù hợp trong từng giai đoạn giáo dục khác nhau,
xuyên suốt quá trình phát triển của con trẻ: lúc lọt lòng đến lúc trưởng thành.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.
Gia đình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng. Bên cạnh quá trình truyền nòi giống, đây chính là vai trò quan trọng đóng góp cho xã hội.
Gia đình còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức
tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt
trong gia đình. Đó là sử dụng hợp lý khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình để đảm bảo lOMoAR cPSD| 45740413 5
đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên. Hiệu quả kinh tế của gia đình quyết định hiệu
quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình.
Vì vậy, thực hiện tốt chức năng này không những tạo cho gia đình cơ sở để tổ chức tốt đời
sống, trở thành “tế bào” lành mạnh cho cộng đồng mà còn trực tiếp đóng góp to lớn đối với sự
phát triển của xã hội, thể hiện rõ nhất qua các chỉ tiêu về kinh tế như GDP hay GNP.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý cá nhân, duy trì tình cảm gia đình.
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm,
văn hóa, tinh thần cho các thành viên, bảo vệ chăm sóc sức khỏe. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là đạo đức, lương tâm của
mỗi người. Mọi thành viên đều có trách nhiệm đóng góp cho tổ ấm gia đình bằng cách tham gia
thực hiện các chức năng gia đình đã nêu ở trên với mức độ khác nhau, tuỳ vào cương vị và khả
năng của mình để từ đó “góp gạch” xây nên tổ ấm tốt đẹp, là “tế bào” lành mạnh, góp công lớn
cho xã hội tiến bộ, văn minh.
Ngoài 4 chức năng chính nêu trên, gia đình còn có:
Chức năng văn hóa: gia đình là nơi lưu giữ những truyền thống văn hóa của dân tộc hay
tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng hầu hết được thực hiện
trong gia đình. Gia đình còn là nơi sáng tạo và tiếp nhận các giá trị văn hóa của xã hội. Đặc biệt
trong thời kì hội nhập kinh tế thị trường, việc tận dụng gia đình để bảo tồn bản sắc văn hoá, hoà
nhập chứ không hoà tan là việc hết sức quan trọng.
Chức năng chính trị: gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của nhà nước và các phong tục của làng xã và hưởng lợi từ các hệ thống đó.
Gia đình chính là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. Tận dụng chức năng này
của gia đình để đảm bảo công dân thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình là điều hết sức cần
thiết trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội quy mô nhỏ chưa cần đến sự cưỡng chế từ cơ quan chức năng. lOMoAR cPSD| 45740413 6
II. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội

Thứ nhất, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết nên để xây dựng gia đình trong thời
kì quá độ lên CNXH, là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ lực lượng sản
xuất, đó là quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất XHCN. Trong xã hội XHCN, nguồn gốc áp
bức và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần bị xóa bỏ và tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng
quan hệ bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ.
Thứ hai, xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng
thống trị của người đàn ông trong gia đình. Từ đó, là cơ sở làm cho hôn nhân dựa trên tình yêu
chứ không phải do kinh tế, địa vị hay một sự tính toán nào khác.
2.2. Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH là việc thiết lập chính
quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chính là nhà nước XHCN của dân,
do dân và vì dân. Nhà nước có khả năng và nhiệm vụ phải xóa bỏ những luật lệ lạc hậu về người
phụ nữ và thực hiện việc giải phóng phụ nữ, đề cao sự công bằng, lành mạnh trong gia đình, bảo
vệ hạnh phúc gia đình thông qua hệ thống quyền lực nhà nước: Pháp luật và Hiến pháp (ví dụ như
Luật Hôn nhân và Gia đình, 2014), bởi theo chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu không giải phóng phụ
nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa
xã hội chỉ một nửa.”
2.3. Cơ sở văn hoá
Các giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng tư tưởng, chính trị của giai cấp công nhân
đã từng bước hình thành và chi phối nền tảng văn hóa. Lối sống lạc hậu cũng dần bị loại bỏ. Sự
phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí.
Từ đó, hình thành nhận thức chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình
xây dựng CNXH. Bởi nếu thiếu đi hoặc cơ sở văn hoá không phù hợp với cơ sở kinh tế, chính trị
và xã hội thì gia đình sẽ phát triển kém hiệu quả, lệch lạc.
2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
Hôn nhân tự nguyện. lOMoAR cPSD| 45740413 7
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Vì hôn nhân xuất phát
từ tình yêu sẽ dẫn đến hôn nhân tự nguyện, tránh đi sự sắp đặt do tài sản, địa vị hay các mưu đồ
khác. Đây là bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ. Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền
tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không còn nữa.
Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Bản chất của tình yêu là không chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng là kết quả
tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Hôn nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo
hạnh phúc gia đình, thực hiện sự giải phóng phụ nữ, sự tôn trọng lẫn nhau, quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng (theo Luật Hôn nhân và Gia đình, 2014).
Quan hệ vợ chồng bình đẳng còn là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ với
con cái, ông bà với cháu chắt và anh chị em trong gia đình.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân là thể hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách
nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và toàn xã hội. Đồng thời, hôn nhân
được đảm bảo về pháp lý cũng là một trong những biện pháp ngăn chặn những cá nhân dùng
quyền tự do kết hôn, ly hôn để thỏa mãn nhu cầu không chính đáng.
Chương 2. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Ở Việt Nam, sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới, vấn đề gia đình đã có sự chuyển biến
mạnh mẽ. Nhưng về căn bản, gia đình vẫn được xây dựng dựa trên các giá trị truyền thống mà
vẫn đáp ứng được điều kiện của thời đại mới.
Biến đổi trong quy mô, kết cấu của gia đình
Quy mô gia đình ngày nay có xu hướng thu nhỏ hơn, số thành viên
trong gia đình ít đi so với trước đây. Nếu gia đình truyền thống có thể tồn tại ba bốn thế hệ cùng
chung sống thì ngày nay, gia đình Việt Nam hiện đại chi có hai thế hệ: cha mẹ - con cái, số con
trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biệt còn có số ít gia đình đơn thân, nhưng phổ
biến nhất vẫn là gia đình hạt nhân. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao, cuộc sống riêng tư được
tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia đình truyền thống. Sự biến
đổi của gia đình cho thấy chức năng tích cực, thay đổi chính bản thân gia đình và hệ thống xã hội,
làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với thời đại mới. lOMoAR cPSD| 45740413 8
Tuy nhiên, quá trình biến đổi này cũng gây ra những phản chức năng như tạo ra khoảng
cách giữa các thành viên gia đình, khó khăn trong việc gìn giữ tình cảm cũng như các giá trị văn
hóa truyền thống. Xã hội ngày càng phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của riêng
mình với mục đích kiếm thêm thu nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vì vậy mà ngày càng ít
đi, làm cho mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo.
Biến đổi các chức năng của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người
Với thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được các gia đình tiến hành một
cách chủ động, xác định số lượng con cái và thời điểm sinh con. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu
điều chinh bởi các chính sách xã hội của Nhà nước, tùy theo tình hình dân số và nhu cầu về sức
lao động của xã hội. Ở nước ta, từ những năm 70 của thế kỷ XX, Nhà nước đã tuyên truyền về
các biện pháp tránh thai và tiến hành kiểm soát dân số thông qua Cuộc vận động sinh đẻ có kế
hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chi nên có từ 1 đến 2 con. Sang đầu thế kỷ XXI, dân số
Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn già hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển
bền vững của xã hội, thông điệp mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.
Trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất nông nghiệp, trong
gia đình Việt Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiện trên ba phương diện: phải có con,
càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối dõi thì ngày nay, nhu cầu ấy đã có những
thay đổi căn bản thể hiện ở việc giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con
trai. Ngoài ra, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển mang tính
bước ngoặt. Thứ nhất, từ kinh tế tự cung tự cấp thành kinh tế hàng hóa, từ đơn vị kinh tế khép
kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu
của người khác hay của xã hội. Thứ hai, từ đơn vị kinh tế đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng
nhu cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế đáp ứng nhu cầu của thị
trường toàn cầu. Kinh tế gia đình đang trở thành bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm với các nước trong khu
vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó khăn trong việc chuyển sang hướng sản
xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong kinh tế thị trường hiện đại do kinh tế
gia đình phần lớn có quy mô nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính.
Chức năng giáo dục (xã hội hóa).
Trong xã hội truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội thì ngày nay, giáo
dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu, yêu cầu của giáo dục xã hội
cho giáo dục gia đình. Điểm tương đồng giữa giáo dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã
hội mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy sinh của cá nhân cho cộng đồng. Giáo dục gia đình hiện nay
có xu hướng đầu tư tài chính cho giáo dục con cái tăng, không chi nặng về giáo dục đạo đức, ứng lOMoAR cPSD| 45740413 9
xử trong gia đình, dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo dục kiến thức khoa học hiện đại, trang
bị công cụ để con cái hòa nhập với thế giới.
Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội cùng với sự phát triển kinh tế, vai
trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng sự gia tăng các hiện tượng
tiêu cực ở xã hội và nhà trường đã làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ
thống giáo dục xã hội trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất
nhiều so với trước đây. Hiện tượng trẻ em bỏ học sớm, nghiện hút… cũng cho thấy phần nào sự
bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình không chi phụ thuộc vào sự ràng buộc của
các mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ; sự hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mà còn
bị chi phối bởi các mối quan hệ hòa hợp, đảm bảo hạnh phúc cá nhân. Nhu cầu thỏa mãn tâm lý
- tình cảm đang tăng do gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang đơn
vị tình cảm. Nhưng ngày nay, các gia đình đang đối mặt với rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, trong
tương lai, khi tỷ lệ gia đình có một con tăng thì đời sống tâm lý - tình cảm cũng sẽ kém phong
phú. Tác động của công nghiệp hóa dẫn tới phân hóa giàu nghèo sâu sắc, làm một số hộ gia đình
có cơ may tích lũy tài sản trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia đình thành lao động làm
thuê do không có cơ hội phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó, vấn đề đặt ra là cần thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của con trai, tạo
dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc cha
mẹ và thờ cúng tổ tiên. Nhà nước cần có những giải pháp nhằm bảo đảm giáo dục giới tính và
sức khỏe sinh sản cho các trẻ em; củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình, xây dựng những
chuẩn mực và mô hình mới giúp cho các bậc cha mẹ có định hướng giáo dục và hình thành nhân
cách trẻ em; giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa nhu cầu tự do, tiến bộ của phụ nữ hiện đại với
trách nhiệm làm dâu theo quan niệm truyền thống, mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hệ. Nó đòi
hỏi phải hình thành những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các thành viên trong
gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội.
Sự biến đổi quan hệ gia đình
Quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa… khiến
các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ
lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống
không kết hôn. Xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cô đơn, trẻ em sống ích kỷ,
bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục…
Từ đó, dẫn tới hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền
thống bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ gia đình đơn thân, độc thân, kết hôn đồng
tính, sinh con ngoài giá thú… Ngoài ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng, không
ổn định, di chuyển nhiều…) cũng khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn với nhiều người trong xã
hội. Xuất hiện những hiện tượng mới mà trước đây chưa có hoặc ít có: bạo lực gia đình, ly hôn,
ly thân, ngoại tình, sống thử,… Chúng đã làm rạn nứt, phá hoại sự bền vững của gia đình, làm
cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. lOMoAR cPSD| 45740413 10
Ngoài ra, các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên
giới…cũng đang làm đe doạ, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực trong gia
đình đều thuộc về người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu tài sản của gia đình, người
quyết định các công việc quan trọng của gia đình, kể cả quyền dạy vợ, đánh con. Trong gia đình
Việt Nam hiện nay, không còn một mô hình duy nhất là đàn ông làm chủ gia đình. Ngoài mô hình
người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì còn có ít nhất hai mô hình khác cùng tồn tại.
Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ chồng cùng
làm chủ gia đình. Người chủ gia đình được quan niệm là người có những phẩm chất, năng lực và
đóng góp vượt trội, được các thành viên trong gia đình coi trọng.
Quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình
Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng như giá trị, chuẩn mực văn hóa của
gia đình cũng không ngừng biến đổi. Trong gia đình truyền thống, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên
dưới sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ. Trong gia đình hiện đại,
việc giáo dục trẻ em gần như phó mặc cho nhà trường, thiếu đi sự dạy bảo thường xuyên của
ông bà, cha mẹ. Ngược lại, người lớn tuổi trong gia đình truyền thống thường sống cùng với con
cháu, cho nên nhu cầu về tâm lý, tình cảm được đáp ứng đầy đủ. Khi quy mô gia đình bị biến đổi,
người cao tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm.
II. Sự biến đổi của gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã đặt ra cho gia
đình Việt Nam những thách thức gì?
Những biến đổi trong quan hệ gia đình cho thấy, có rất nhiều những thách thức lớn đặt
ra cho gia đình Việt Nam hiện nay trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, có thể nói rằng các thành viên rất thương yêu nhau nhưng ít dành thời gian cho
nhau. Cuộc sống quá bận rộn và thách thức đến mức mỗi cá nhân đều đắm mình trong công việc.
Thật hiếm hoi có một buổi sinh hoạt chung đầy đủ tất cả các thành viên. Con cái thì cứ học thêm
hoặc học tăng cường liên tục, cha mẹ thì phải làm ăn, xoay xở, anh chị cũng ít có thời gian quan
tâm đến nhau. Nhiều trẻ vị thành niên cho rằng đòi hỏi cha mẹ mỗi ngày dành một giờ nói chuyện
với mình sao mà khó quá. Dường như điều này cũng thực sự đang tồn tại khi chính cha mẹ cũng
thừa nhận rằng bận rộn quá nên khó có thể thực hiện điều đó một cách thường xuyên.
Thứ hai, sự gắn kết giữa các thành viên có phần lỏng lẻo khi mỗi thành viên bắt đầu có
cuộc sống độc lập riêng của mình. Khi mà không gian sống được chia cắt khá rạch ròi, khi mà
những buổi cơm gia đình thưa dần hay bếp lửa gia đình không thường xuyên ấm thì có lẽ mọi
vấn đề liên kết trong gia đình trở nên bị “chùng” xuống một cách khá rõ. Nhiều trẻ ở độ tuổi tiểu
học ngày nay vẫn thể hiện ước mơ được ăn cơm gia đình cùng với cha mẹ như một niềm vui,
được chia sẻ với mẹ cha những niềm vui nỗi buồn là một hạnh phúc. Vì sao nên nỗi? Chắc chắn
rằng chính những nghĩ suy rất con người, chính những khát khao rất tình cảm và gắn kết nhưng
vẫn chưa được thực hiện đã thôi thúc trẻ em ước mơ giản dị như thế. Xem ra thực sự là sự gắn
kết này có vẻ bị lung lay. Thực tế còn hơn thế nữa khi con cái cũng không đủ thời gian và điều
kiện để về thăm cha- thăm mẹ vào cuối tuần thậm chí là có nhiều con cháu vẫn không còn “điều
kiện” để về thăm dòng họ vào những ngày lễ lộc. Vấn đề này phải chăng cũng là một thách thức lOMoAR cPSD| 45740413 11
trong hành trình đi tìm hạnh phúc gia đình khi mà sự liên kết và chăm sóc dành cho nhau thực
sự ít ỏi và mỏng manh.
Thứ ba, đó là những mâu thuẫn và những xung đột trong gia đình vẫn còn tồn tại khá
nhiều. Điều này không mâu thuẫn hoàn toàn với chuyện biết chấp nhận nhau như đã đề cập
nhưng rõ ràng là nhiều gia đình ngày nay có xu hướng dễ dàng bị xung đột cùng nhau vì những
vấn đề khá nhỏ. Cũng từ đây nạn bạo lực – bạo hành trong gia đình tồn tại nhiều và diễn biến
hết sức phức tạp. Không còn đơn giản là vấn đề bạo hành thể xác mà đã chuyển dần sang bạo
hành tinh thần... Gần đây chuyện bạo hành tài chính và cả bạo hành tình dục cũng là một vấn đề
hết sức nhức nhối. Khi con người hiểu biết trong cuộc sống nhiều hơn và sâu hơn, khi con người
bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến xã hội – luật pháp... thì chưa chắc gì người ta đã dại dột bạo
hành thể xác người chung sống mà biết đâu lại chuyển hướng sang nhiều biểu hiện khác. Định
dạng bạo hành trong đời sống gia đình cũng là một thách thức!
Điều thứ tư cũng khá nổi trội và cũng là một trong những vấn đề cần quan tâm đến các
gia đình hiện nay, đó là hiện tượng gia đình trẻ có chiều hướng ly hôn khá tăng. Những số liệu
gần đây cho thấy, hơn 30% các cặp vợ chồng trẻ ly hôn sau chưa đầy 3 năm chung sống. Điều này
cho thấy các cặp vợ chồng trẻ có phần khá vội vã khi kết hôn rồi cũng rất mạnh mẽ đưa nhau ra
tòa để phá nát gia đình mà chính mình đã gầy dựng sau một thời gian ngắn ngủi để chung sống.
Xét trên phương diện gia đình thì chính việc chưa tìm hiểu kỹ nhau sẽ dễ dàng dẫn đến những
thiếu hiểu biết về nhau cũng như thiếu sự tương đồng. Xét ở góc độ khác mà tính chịu trách
nhiệm trong gia đình cũng như sự cố công để dung hòa, để hướng tới sự đồng cảm còn khá thấp
nên những kết cục buồn trong gia đình dễ diễn ra...
Có thể nói rằng thật khó khái quát hết về những điểm sáng hay những khoảng lặng trong
gia đình Việt Nam thời hiện đại nhưng chắc chắn rằng với sự phát triển của cuộc sống thì những
thách thức ngày càng trở nên quá lớn với các gia đình. Lèo lái con thuyền gia đình cập bến hạnh
phúc thực sự là một vấn đề quá khó khăn hiện nay nếu như mỗi thành viên thiếu hẳn sự quan
tâm đích thực, sự rung cảm đích thực cũng như sự hy sinh cái tôi cá nhân để hướng đến cái chung mang tính bền bi.
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA
ĐÌNH MỚI TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

I. Nội dung chính sách của Đảng trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam
Gia đình mới phải được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa, gìn giữ và phát huy những giá trị tốt
đẹp của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tiên tiến, giá trị mới của thời
đại về gia đình.
Tiếp tục kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp như: đoàn kết trong gia đình,
tình nghĩa thủy chung, đề cao đạo đức và bổn phận, tình làng nghĩa xóm... Song đồng thời phải
khắc phục, loại bỏ những giá trị, hủ tục không còn phù hợp, như: gia trưởng, trọng nam khinh nữ,
bất bình đẳng, tảo hôn, nghi lễ rườm rà, tốn kém trong ma chay, cưới hỏi... lOMoAR cPSD| 45740413 12
Tiếp thu chọn lọc những giá trị văn hoá của nhân loại, những giá trị mới tiến bộ như: dân
chủ, bình đẳng, hôn nhân một vợ một chồng, tự do trong hôn nhân, hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới…
Kết hợp tốt hai biện pháp trên để góp phần xây dựng gia đình XHCN lành mạnh, công
bằng, văn minh, là tập hợp các giá trị tinh hoa của toàn nhân loại.
Xây dựng gia đình mới phải trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, đảm bảo quyền tự do kết
hôn và tự do ly hôn.
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính,
thương yêu, chia sẻ những khó khăn, những công việc trong gia đình và cùng nhau xây dựng cuộc
sống hạnh phúc. Hôn nhân tiến bộ và tự nguyện luôn bao gồm hai mặt: tự do kết hôn và ly hôn.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng ly hôn có hai mặt. Ly hôn là khó tránh khỏi khi tình yêu đôi bên không
còn. Song ly hôn sẽ cũng để lại những hậu quả rất to lớn, như làm ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách của con trẻ và là yếu tố dẫn đến tệ nạn xã hội gia tăng....
Gia đình mới được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giới, yêu thương, có trách nhiệm cùng chia
sẻ, gánh vác công việc của các thành viên trong gia đình để thực hiện tốt các chức năng cơ
bản của gia đình và hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội.
Gia đình phải thực hiện bình đẳng giới, đảm bảo sự bình đẳng của cả hai giới trong gia
đình, nhất là bình đẳng giữa chồng và vợ, giữa con trai và con gái. Các thành viên trong gia đình
phải yêu thương, có trách nhiệm với nhau, cùng chia sẻ các công việc của gia đình.
Xây dựng gia đình mới phải gắn liền với việc hình thành, thiết lập và củng cố từng bước các
quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các thiết chế, tổ chức ngoài gia đình.
Xây dựng gia đình mới tiến bộ phải gắn liền với việc giữ gìn và phát huy tình làng nghĩa
xóm, tình đoàn kết gắn bó cộng đồng; thực hiện tốt những chủ trương, chính sách mới, những quy
dịnh của cộng đồng dân cư...
II. Thành tựu và hạn chế của quá trình xây dựng chính sách gia đình mới ở Việt Nam
Dựa trên các nội dung về chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng chính
sách gia đình mới, có thể chia sự phát triển của quá trình theo 5 tiêu chí như sau: lOMoAR cPSD| 45740413 13
Thứ nhất, tiêu chí no ấm
Thời gian qua, mức sống của gia đình Việt Nam trên các khía cạnh nhà ở, thu nhập, chi
tiêu ngày càng được nâng cao. Theo số liệu từ “The Wealth Report” 2020 của Knight Frank (tổ
chức về bất động sản, nhà ở và thương mại uy tín thế giới), Việt Nam đã có 458 người với giá trị
tài sản ròng từ 30 triệu USD trở lên (tương đương khoảng 700 tỉ đồng), tăng 7% so với một năm
trước, dự báo sẽ tăng đến 64% trong giai đoạn tới.
Từ khi tiến hành đổi mới, kích hoạt kinh tế thị trường đa thành phần, tỷ trọng đóng góp
của khu vực kinh tế tư nhân vượt trội; theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, kinh tế tư nhân
đóng góp 39,21% GDP, cao hơn so với 28,7% của khu vực kinh tế Nhà nước, 18,07% từ khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài và 4,04% từ khu vực kinh tế tập thể.
Về mặt hạn chế: tỷ lệ giàu – nghèo giữa các khu vực kinh tế, giữa vùng thành thị- nông
thôn còn cao, nhiều khu vực chưa đạt chuẩn Nông thôn mới hoặc chuẩn theo “hình thức” chứ
chưa đi vào thực tiễn…
Thứ hai, tiêu chí bình đằng
Thực hiện tốt chính sách bình đằng việc làm đối với nữ giới. Việt Nam là một trong những
quốc gia có tỷ lệ nữ giới tham gia lực lượng lao động cao nhất (nghĩa là tỷ lệ phụ nữ đang làm
việc được trả lương hoặc tìm kiếm nó) trên thế giới. Khoảng 79% phụ nữ từ 15 đến 64 tuổi trong
lực lượng lao động, so với 86% nam giới.
Vai trò của phụ nữ trong gia đình ngày càng được nâng cao, quan niệm “đàn bà xây tổ ấm
lại càng đúng hơn bao giờ hết, đặc biệt là trong việc giáo dục, dạy dỗ con cái. Phụ nữ ngày càng
có tiếng nói, không chỉ trong gia đình mà còn trong bộ máy chính quyền. Trong những nhiệm kỳ
Đại hội Đảng vừa qua luôn có sự góp mặt của cán bộ nữ là Thứ trưởng, Bộ trưởng, Bí thư Trung
ương Đảng và Ủy viên Bộ Chính trị với tỷ lệ nữ trong Quốc hội là gần 27%.
Về mặt hạn chế: vẫn còn tình trạng trọng nam khinh nữ ở một số gia đình truyền thống.
Theo GS - TS Nguyễn Đình Cử, tình trạng biết giới tính thai nhi ngày càng phổ biến. Một điều tra
cho thấy, 86,7% phụ nữ thành thị biết giới tính thai nhi; ở nông thôn tỷ lệ này là 78,9%; với các
gia đình giàu có, tâm lý mong muốn và can thiệp để có con trai cũng rất cao. Bà Nguyễn Thị Ngọc
Lan, Phó tổng cục trưởng, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, cảnh báo nếu không quyết lOMoAR cPSD| 45740413 14
liệt sẽ gây hậu quả lâu dài với dự báo đến năm 2050 Việt Nam sẽ thừa 2,3 - 4,3 triệu nam giới,
kéo theo hệ lụy về nguy cơ kết hôn nhiều lần, tệ nạn mại dâm…
Thứ ba, tiêu chí tiến bộ
Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình, quy mô gia đình hiện nay có xu hướng thu hẹp so với
trước đây, số thành viên trong gia đình cũng giảm đi. Chỉ trong vòng 40 năm quy mô gia đình đã
giảm từ 5.22 người/hộ năm 1979 xuống 4 người/hộ năm 2018. Ngày nay, xu hướng hạt nhân hóa
gia đình ngày càng trở nên phổ biến vì những lợi thế và ưu điểm của nó, đặc biệt là tính thích hợp với thời đại mới.
Ngoài ra, tiêu chí này còn được thể hiện trong việc thực hiện giáo dục gia đình và bình
đẳng giới. Hiện nay, việc giáo dục con cái trong gia đình vẫn chủ yếu hướng đến những giá trị
truyền thống cốt lõi như trung thực, hiếu thảo, nghĩa tình, tiết kiệm, ... Cần phát huy vai trò của
giáo dục gia đình, tạo nền tảng để ươm mầm cho các em thành những nhân tố hòa nhập vào xã
hội hiện đại và những công dân có ích. Hơn nữa, các dịch vụ hỗ trợ giáo dục, tư vấn tiền hôn nhân,
giữa hôn nhân và sau hôn nhân, hỗ trợ gia đình về các phương pháp và nội dung giáo dục mới
ngày càng được phổ biến rộng rãi để thích ứng với các giá trị và lối sống đang thay đổi trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Về mặt hạn chế: Quá trình biến đổi này cũng dẫn đến phản chức năng như tạo ra sự ngăn
cách giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, vướng mắc trong việc gìn giữ tình cảm gia
đình cũng như các giá trị văn hóa truyền thống. Xã hội ngày càng phát triển khiến mỗi người đều
bị cuốn theo guồng quay công việc để kiếm thêm thu nhập, vì vậy mà thời gian dành cho gia đình
cũng ngày càng giảm. Con người ta dường như rơi vào vòng xoáy của tiền bạc và địa vị xã hội
mà vô tình đánh mất tình cảm gia đình. Các thành viên ít giao tiếp và quan tâm đến nhau hơn, làm
cho mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo, rời rạc... Đó là hạn chế còn tồn tại của gia đình hiện
đại so với gia đình truyền thống xưa. Chính sự coi trọng, đặt kinh tế lên hàng đầu đã làm cho các
giá trị tốt đẹp lâu đời của gia đình bị phai nhòa, thậm chí còn dễ dẫn tới các hệ lụy xấu.
Thứ tư, tiêu chí hạnh phúc
Chính sách của Nhà nước có xu hướng thả lòng, không can thiệp vào đời sống riêng của
đôi lứa, tôn trọng quyền riêng tư con người. lOMoAR cPSD| 45740413 15
Tuy nhiên điều đó lại dẫn đến hạn chế rằng: số lượng gia đình hạnh phúc có xu hướng
giảm, đặc biệt xuất hiện ở thế hệ trẻ với tình trạng nhiều người trẻ không muốn lập gia đình, lập
gia đình được vài năm thì ly hôn. Theo nghiên cứu của TS Nguyễn Minh Hòa (ĐH Khoa học Xã
hội & Nhân văn TP HCM), tỷ lệ ly hôn/kết hôn ở Việt Nam là 31,4%, tức là cứ ba cặp vợ chồng thì có một cặp ly hôn.
Thứ năm, tiêu chí bền vững
Trong những năm qua, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
đã nhấn mạnh việc xây dựng và phát triển các mô hình gia đình điển hình tiên tiến; kịp thời biểu
dương, ghi người vượt khó, vươn lên tiến bộ gia đình, dòng họ có điều kiện kinh tế khá, cần cù,
hiếu học, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ kiểu mẫu, tấm gương về chăm sóc người
cao tuổi, bảo vệ, kế hoạch hoá gia đình tốt, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Ngoài ra, với việc kéo dài tuổi thọ, nâng cao chất lượng cuộc sống, ngày càng có nhiều
người cao tuổi khỏe mạnh vẫn có nhu cầu cống hiến, đóng góp, làm việc không chỉ vì mục đích
kinh tế mà còn để sống khỏe mạnh, tỉnh táo và khỏe mạnh. Với tư cách là người chăm sóc và giáo
dục thế hệ trẻ, người bảo vệ truyền thống, người lãnh đạo cộng đồng người dân và là hình mẫu,
người cao tuổi đã và đang có nhiều đóng góp về mặt xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị cho xã
hội theo nhiều cách khác nhau. Điều này cũng cho phép người cao tuổi phát huy tốt hơn vai trò
của mình đối với kinh tế, giáo dục và văn hóa, trở thành nguồn lực kinh tế và tinh thần quan trọng cho xã hội.
Chương 4. GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CHO QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về vấn đề gia đình.

Đảng và Nhà nước cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện và xây dựng những phương hướng mới
phù hợp với đặc điểm của hộ gia đình Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội bền vững hiện
nay. Chiến lược phát triển gia đình giai đoạn 2021-2030 nên được sớm xây dựng để có thể bắt kịp
tiến độ phát triển kinh tế, xã hội không ngừng của đất nước cũng như toàn thế giới. lOMoAR cPSD| 45740413 16
Thứ hai, đảm bảo thực hiện tốt chức năng và vị trí của gia đình trong xã hội Việt Nam
ngày nay, đặc biệt là vai trò giáo dục thế hệ trẻ.
Gia đình cần phối hợp chặt chẽ hơn với nhà trường trong việc quản lý, giáo dục đạo đức,
lối sống cho trẻ em. Trong môi trường xã hội, cần xác định nội dung giáo dục đạo đức là một
trong những chủ thể của kế hoạch giáo dục ngay từ khi học mẫu giáo. Đồng thời, hoàn thiện kế
hoạch giáo dục đạo đức, lối sống của nhà trường, làm phong phú nội dung, phong phú phương
pháp dạy học, giúp thay đổi cách hiểu và hành vi một cách hiệu quả.
Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia đình.
Công nghiệp hóa cần tạo cơ hội bình đẳng để mọi vùng, mọi dân tộc, thành thị, nông thôn,
nhóm gia đình giàu và nhóm hộ nghèo đều có thể tham gia vào quá trình này. Quan điểm này cũng
phù hợp với mục tiêu tăng trưởng chung mà Việt Nam phấn đấu đạt được, đó là “không ai bị bỏ
lại phía sau” trong quá trình phát triển.
Cần nắm bắt đúng xu hướng thay đổi của các chức năng kinh tế gia đình, xây dựng các
chính sách tương ứng, phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế tối đa các nhân tố ảnh hưởng đến
chức năng kinh tế gia đình. Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội lấy gia đình làm
trung tâm để thúc đẩy kinh tế gia đình phát triển. Khuyến khích các thành viên trong gia đình hỗ
trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh và đời sống nhằm duy trì các giá trị truyền thống gắn kết các
thành viên trong gia đình ở Việt Nam.
Thứ tư, tiếp tục kế thừa các giá trị của gia đình truyền thống và tiếp thu những tiến bộ của
nhân loại trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam hiện nay vừa phải kế thừa, phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, vừa kết hợp với những giá trị tiến bộ của gia đình hiện đại để phù
hợp với sự vận động và phát triển tất yếu của xã hội. Tất cả đều có mục tiêu là làm cho gia đình
trở thành tế bào thực sự, lành mạnh trong xã hội và là tổ ấm của mỗi người.
Thứ năm, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa.