Sự hình thành nhân cách - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm của các bậc tiền bối, Mác - Ăngghen đã kế thừavà khắc phục những mặt hạn chế, đồng thời phát triển những quan niệm về nhâncách con người đã có trong các học thuyết trước đây để đi tới quan niệm về conngười thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

3. Sự hình thành nhân cách theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ
Chí Minh
Trên sở nghiên cứu quan điểm của các bậc tiền bối, Mác - Ăngghen đã kế thừa
khắc phục những mặt hạn chế, đồng thời phát triển những quan niệm về nhân
cách con người đã trong các học thuyết trước đây để đi tới quan niệm về con
người thực tiễn cải tạo tự nhiên hội với cách con người hiện thực. Con
người vừa sản phẩm của tự nhiên hội đồng thời vừa chủ thể cải tạo tự
nhiên. Con người không thể sống thoát ly khỏi tự nhiên, nhưng con người cũng có
thể làm chủ giới tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của mình. Sự hình thành
phát triển nhân cách quá trình thống nhất giữa nhân hội, giữa mặt
sinh vật mặt hội. Đó sự thống nhất giữa điều kiện khách quan nhân tố
chủ quan.
Nếu con người bị tách ra khỏi môi trường các hoạt động hội thì nhân cách
con người không thể hình thành phát triển được. C. Mác Ph. Ăngghen, trên
sở kế thừa quan niệm của các nhà duy vật Pháp về sự tác động của môi trường
xã hội đến nhân, đã khẳng định: “Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật
tính xã hội thì do đó con người chỉ thể phát triển bản tính chân chính của mình
trong hội cần phải phán đoán lực lượng của bản tính của anh ta, không phải
căn cứ vào lực lượng của nhân riêng lẻ căn cứ vào lực lượng của toàn
hội”. Nói cách khác, đây chính quá trình hội hóa nhân nhân hóa
hội, nhưng suy cho cùng, xã hội hóa cá nhân là yếu tố quyết định đến sự hình thành
và phát triển nhân cách. Vì thế, có thể khái quát một số yếu tố cơ bản tác động đến
sự hình thành và phát triển nhân cách như sau:
Một là, sự hình thành phát triển nhân cách chịu sự quy định bởi điều kiện kinh
tế - xã hội
Con người trong hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị - hội... đều thể hiện
mục đích, lợi ích của mình trong quan hệ với những người xung quanh, với xã hội.
C. Mác khẳng định rằng, lịch sử không phải cái khác hơn hoạt động của
con người theo đuổi những mục đích của mình. Những mục đích của con người
bao giờ cũng xuất phát và gắn liền với tính chế định của điều kiện lịch sử - xã hội,
của các quan hệ kinh tế trong một thời đại nhất định. Tính quy định khách của điều
kiện kinh tế - xã hội đã tạo quan ra một giới hạn chung, một xu thế chung cho mọi
hoạt động của con người. Sự phát triển của nhân cách với tư cách sự phát triển các
phẩm chất hội của mỗi nhân trong cộng đồng hội cũng không nằm ngoài
những quy định khách quan của điều kiện kinh tế - hội hiện thời mỗi
nhân đó là thành viên. VILênin gọi đây là quyết định luận lịch sử.
Bị quy định khách quan bởi điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng cái trực tiếp quy định
bản chất đặc trưng của nhân cách lại không phải tất cả các quan hệ kinh tế,
nhân tố quy định nhân cách tầng sâu nhất quan hệ lợi ích. Bởi cái lõi vật
chất của đạo đức, nhân cách vấn đề lợi ích. Nói cụ thể hơn, tính chất của việc
giải quyết quan hệ lợi ích giữa nhân, lợi ích tập thể và lợi ích hội nhân tố
sau cùng quy định bộ mặt của nhân cách. Sự phát triển của con người nói chung,
nhân cách nói riêng chỉ thể phát triển đúng quy luật khi mỗi nhân tự giác
nhận thức đúng đắn, giải quyết hài hòa mối quan hệ nhân - hội xét trên
phương diện lợi ích. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “chừng nào con người còn
trong hội hình thành một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn sự chia cắt
giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. thì chừng đó hành động của bản thân con người
sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người,nô dịch con người, chứ
không phải bị con người thống trị”. Lợi ích nhân động lực trực tiếp cho mọi
hoạt động của con người. Con người bất kỳ thời đại nào cũng hành động trước
hết lợi ích của bản thân mình.vậy, lợi ích nhân đóng vai trò trực tiếp,
sở cho mọi hoạt động tự giác, hoạt động tích cực của con người. Lợi ích nhân
cũng là nhân tố quyết định, là cơ sở để thực hiện lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Lợi
ích hội với ý nghĩa lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của
nhiều thành viên hợp lại thành cộng đồng, xã hội. Vì vậy, lợi ích xã hội là điều kiện
và đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. Điều này đã được C.
Mác và Ph. Ăngghen căn dặn: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ
đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cả biệt phù hợp
với lợi ích của toàn thể loài người”.
thủ Việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân là động lực của sự
phát triển nhân cách được minh chứng rõ ràng qua quá trình xây dựng đất nước ta.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lợi ích tập thể được đề cao, lấn át lợi ích
cá nhân, dẫn tới có sự đối lập, tách rời giữa việc thực hiện hành vi đạo đức với việc
thực hiện lợi ích nhân. Con người đứng trước hai lựa chọn: Thực hiện hành vi
đạo đức phải từ bỏ lợi ích của nhân; ngược lại, hoạt động lợi ích nhân
thể không độngđể thực hiện hành vi đạo đức, điều này khiến cho hoạt động
đạo đức của nhân cách bị hạn chế. Vì vậy, nhân cách không có điều kiện phát triển
một cách hoàn thiện. Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, chế thị trường với tính đặc thù
của thừa nhận tính hợp thỏa mãn lợi ích nhân, đã tạo điều kiện tốt
cho sự phát triển nhân cách của con người. Trên mặt tích cực của mình, lợi ích
nhân “chất kích thích” thôi thúc con người năng động, sáng tạo, tích cực hoạt
động. Quá trình con người tham gia và chủ động tham gia vào các hoạt động kinh
tế - hội để tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nhân cách. Bởi, nhân
cách chỉ thể dic (hong vi được xác định đầy đủ khi đặt trong mối hệ với các
nhu cầu và lợi ích. quan
Hai là, nhân cách tổng hòa các yếu tố tạo thành giá trị mới của mỗi nhân
trong xã hội
Nhân cách là cốt cách làm người của mỗi con người, khi con người chết đi, giá trị
nhân cách vẫn còn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Đạo đức không tách rời tài
năng. Đạo đức (phẩm chất) tài năng (năng lực) của con người hai nhân tố
trung tâm tạo nên nhân cách con người, hai nhân tố này phải gắn chặt chẽ với
nhau, không tách rời nhau. Người cho rằng “Có tài không đức như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không
làm được ích lợi cho hội, còn hại cho hội nữa. Nếu đức
không tài như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi cho loài
người”. Vì vậy, Người cho rằng, tài mà khôngđứcngười vô dụng, đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Trong quan niệm về cấu trúc nhân cách, Người nhấn mạnh hai thành tố quan trọng
tài đức (hồng chuyên) trong đó đức gốc của con người, nhất người
cán bộ. Theo Người, cái cốt lõi, nền tảng của nhân cách người cán bộ cách mạng là
đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì nguồn mới nước,
không nguồn thì sông cạn. Cây phải gốc, không gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người
một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, khôngcăn bản, tự mình đã
hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng đạo đức tiến bộ, đạo đức cách mạng:
“Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó
không phải danh vọng của nhân, lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người”. Đạo đức mới khác hẳn về chất so với kiểu đạo đức cũ. “Đạo đức
như người đầu ngược xuống đất chân chống lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”* Đạo đức mới - đạo đức
cách mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng,
cho cách mạng, đó điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng
và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Hết lòng phục vụ
nhân dân. Đảng, nhân dân đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc. Người dạy: “Mỗi đồng chí phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng, củng cố
lập trường giai cấp công nhân... phải tuyệt đối chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng và Chính phủ... Dù ở cương vị nào, các đồng chí phải luôn luôn gương mẫu,
luôn luôn xứng đáng là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”. Mặt khác,
muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của người cán bộ cách mạng thì nhất thiết phải
năng lực công tác. Quan điểm của Người về vấn đề năng lực luôn có tác dụng định
hướng chỉ đạo việc bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ. Do đó, vấn đề
năng lực cũng là vấn đề luôn được người quan tâm đặc biệt. Người cán bộ có năng
lực gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải quán triệt sâu sắc thực
hiện nghiêm chỉnh quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, có trình độ và năng
lực cần thiết để đảm nhiệm trọng trách mà Đảng giao phó.
Hai là, sự hình thành phát triển nhân cách bị quy định bởi nhân tố văn hóa của
xã hội
Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc tác động mạnh mẽ đến sự hình thành
những kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá những tình cảm đạo đức trong sáng
của nhân cách Hiệu quả của giáo dục với tính cách một nhân tố phát triển nhân
cách phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng vận dụng những giá trị truyền thống vào
hoàn cảnh xã hội mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá nhân.
Văn hóa xã hội là tổng hòa của văn hóa cá nhân; tuy nhiên, đây không phải là phép
cộng đơn giản của tất cả văn hóa cá nhân, mà nó là sự kết tinh những tinh hoa của
nhiều thời đại, nhiều thế hệ đã qua. Mỗi nhân khi sinh ra đã được sống, được
tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa hội. Những giá trị,
chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức hội, trong
những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ... Chúng ta không thể nói đến
nhân cách của một đứa trẻ sinh. Nhân cách của con người được hình thành
phát triển trong môi trường văn hóa hội một cách gián tiếp thông qua quá trình
giáo dục và tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần hội thì thế giới quan,
những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức... có vị trí quan trọng trong việc hình
thành phát triển nhân cách. Trong đó, thế giới quan vị trí đặc biệt trong cấu
trúc nhân cách. được cấu thành từ những yếu tố bản tri thức, niềm tin,
tưởng. Một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng một nhân
cách phát triển toàn diện. Nói cách khác, thế giới quan giữ vai trò định hướng
chung cho con người trong mọi hoạt động hiện thực của họ. Trong xã hội phân
chia giai cấp, thế giới quan bao gi cũng mang tính giai cấp phản ánh lợi ích
của một giai cấp nhất định. Do vậy, khi được tiếp nhận trong ý thức đạo đức
nhân, nó khẳng định về mặt đạo đức lợi ích của giai cấp mà nó phản ánh. Hiện nay,
chủ nghĩa Mác - Lênin thế giới quan khoa học tiến bộ nhất. Bởi vì, ngoài sự
phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản, nó đồng thời phản ánh lợi ích trong xu thế vận
động tất yếu của hội loài người. Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng
Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ làm cho những nguyên tắc bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt cho mọi người,
còn phải làm cho những nguyên tắc ấy trở thành niềm tin, động lực thúc đây mọi
hoạt động của họ. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng, là động lực cho sự phát triển nhân cách.
Tuy nhiên, khi chúng ta nhấn mạnh tính quyết định hội của nhân cách thì phải
hiểu rằng đó điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Trong hiện thực cuộc sống, sự hình
thành và phát triển của nhân cách không diễn ra đơn giản như vậy. Ảnh hưởng của
điều kiện kinh tế, của môi trường hội, môi trường giáo dục đối với nhân cách
không phải quá trình thuận một chiều, giữa chúng mối quan hệ biện
chứng với nhau. Khi nhân cách được hình thành, con người trở thành chủ thể
hội với bản chất hoạt động sáng tạo, cải tạo thế giới hiện thực. Con người lại
ngừng tạo ra những điều kiện môi trường hội mới, tốt đẹp làm sở cho quá
trình hình thành và phát triển nhân cách. Đó chính là quá trình nhân hóahội
trong mỗi chủ thể hoạt động mang nhân cách Với sức sáng tạo của tư duy trí tuệ và
thông qua hàng loạt các hoạt động trong thực tiên, nhân cách của con người tự biểu
hiện, tự khẳng định chính mình. Là sản phẩm của tự nhiên, của lịch sử - xã hội, đến
lượt mình, con người lại tác động vào tự nhiên nhằm khai thác mọi tiềm năng tự
nhiên phục vụ mục đích nhu cầu của mình, tái tạo nên “tự nhiên thứ hai” cho
đời sống con người. chủ thể sáng tạo, tự ý thức, tự giác hành động, bằng năng
lực tuyệt đối và riêng có là hoạt động thực tiễn, con người ngày càng nắm bắt được
các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, ngày càng có khả năng sáng tạo to lớn để cải
tạo tự nhiên hội, làm nên lịch sử nhân loại. Đồng thời, thông qua quá trình
đó, con người cũng không ngừng cải tạo bản thân mình. Sự thành đạt của mỗi
người có tác động tích cực đến việc lành mạnh hóa môi trường xã hội. Sự thành đạt
ấy không chỉ tạo nên tâm tự tin, niềm kiêu hãnh trong mỗi chủ thể hoạt động,
mà còn mở rộng khả năng hiệntác động tích cực đến tinh thần phấn đấu của
những người xung quanh.
hội hóa nhân trong quá trình hình thành phát triển nhân cách không chỉ
biểu hiện sự tác động một chiều, mà còn bao hàm cả quá trình cá nhân hóa hội.
Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ này khẳng định vai trò to lớn
của sự tác động xã hội đến sự hình thành phát triển nhân cách, đồng thời khẳng
định vai trò chủ thể hoạt động cải tạo xã hội của con người.
4. Những giải pháp về chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong việc đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay
4.1. Nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức, chú trọng sức
khỏe, giáo dục thẩm mỹ và chất lượng cuộc sống
Nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới
phát triển đất nước. Một đất nước điểm xuất phát thấp, chịu nhiều tổn thất
trong chiến tranh như Việt Nam mà muốn trở thành nước công nghiệp và phát triển
đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa thì cần phải hết sức coi trọng chất
lượng nguồn nhân lực.
Đây giải pháp quan trọng ý nghĩa quyết định đến việc phát triển nguồn nhân
lực ở nước ta hiện nay. Ngay từ các bậc học, nhất bậc học phổ thông trung học,
giáo viên và phụ huynh học sinh phải định hướng tương lai cho con em mình trong
việc chọn lựa ngành nghề phù hợp với năng lực, thế mạnh của bản thân. Từ đó, tập
trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về một ngành, lĩnh vực mà mình yêu thích, có
đầy đủ kiến thức, kỹ năng sau khi hoàn thành khoa học.
Đặc biệt, các trường cao đẳng, đại học phải làm tốt công tác tuyển sinh, xây dựng
chương trình đào tạo phù hợp với trình độ nhận thức của người học, đáp ứng nhu
cầu, nhiệm vụ của hội, của quá trình hội nhập, mở cửa, phát triển kinh tế tri
thức. Các sở đào tạo, đặc biệt các sở đào tạo về khoa học kỹ thuật chú
trọng đến việc thực hành các thao tác, các bước của hoạt động sản xuất kinh doanh,
chuyển giao công nghệ; sử dụng thành thạo các trang thiết bị kỹ thuật, nhất máy
móc hiện đại, điều khiển từ xa, tự động hóa.
Thực tiễn phát triển nguồn nhân lực nước ta không nhiều, chủ yếu nguồn
lực trung bình, tức lao động bậc phổ thông, đơn giản, lao động trình độ
chuyên môn cao rất ít. Do đó, hầu hết việc sản xuất, sử dụng công nghệ máy móc,
thiết bị đều nhập khẩu từ nước ngoài, phải mời chuyên gia nước ngoài đến hỗ trợ.
Theo đó, tiến hành soát lại chương trình đào tạo các trường; tăng cường thời
gian học thực hành, giảm thời gian học thuyết; gắn quá trình đào tạo với hoạt
động thực tập, tham quan, bắt tay vào công việc từng chuyên ngành đào tạo; đẩy
mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các trường, các chuyên
ngành đào tạo với nhau, nhất với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đầu tư, công
ty; tuyển dụng học sinh vào đào tạo phải bảo đảm chất lượng, không chạy theo số
lượng. Các sở đào tạo cần đầu hơn nữa vào các ngành nghề chất lượng cao:
như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới, công nghệ
sinh học... để giúp người lao động thể làm chủ khi cuộc cách hóa bùng nổ như
hiện nay. mang
Thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà để phát
triển nguồn nhân lực của đất nước thì việc phát hiện, bồi dưỡng trọng dụng
nhân tài là việc làm vô cùng cần thiết. Song song với phát triển nguồn nhân lực cần
đi đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người trong thời đại hiện
nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; ý thức
năng lực làm chủ bản thân, làm chủ hội; sống nghĩa tình, văn hóa,
tưởng. Đây cũng những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất
cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất đối với thế hệ
trẻ.
Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh hội. Chất lượng con
người, trước hết, phải tính đến sức khỏe sinh sản. Đảng ta cũng đã đề cập tới việc
cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng hiệu
quả chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh
tranh gay gắt yêu cầu cường độ lao động cao: Ngành y tế phải những quy
định cụ thể về sức khỏe sinh sản như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền,...
vậy, phải tăng cường chất lượng hoạt động của các quan chức năng. Khi
chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, nghĩa phải nuôi
dưỡng về vật chất tinh thần của con người, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào,
trí tuệ minh mẫn, được phát triển toàn diện. Thực tế hiện nay, về vấn đề này
chúng ta còn kém xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực.
4.2. chế, chính sách hợp lý, đồng bộ để thu hút, sử dụng đối với việc phát
triển nguồn nhân lực
Trong mọi giai đoạn, thời kỳ cách mạng, vấn đề chế, chính hợp lý, đồng bộ để
thu hút phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp cách mạng rất quan
trọng. Nếu không thu hút, lôi cuốn được nguồn nhân lực, nhất nguồn nhân lực
chất lượng cao thì đất nước kém phát triển và ngược lại. thể thấy, cơ chế, chính
sách sử dụng hợp lý, phù hợp với việc phát triển nguồn nhân lực sự ghi nhận,
đánh giá của Đảng, Nhà nước và các tổ chức, lực lượng có liên quan đối với những
đóng góp của phát triển nguồn nhân lực cho quan, đơn vị địa phương. Tuy
nhiên, chế, chính sách đó sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng lĩnh vực,
ngành nghềcác vùng, miền sự đóng góp đó cho sự phát triển ở mỗi quan,
đơn vị và địa không phải là sự mặc định, có sẵn theo một khung nhất định. Trên cơ
sở nền tảng những phương. quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
về chính sách tiền lương, trọng dụng nhân tài, mỗi quan, đơn vị địa phương
căn cứ vào tình hình cụ thể để hỗ tr phần nào điều kiện vật chất, hoặc tạo điều
kiện thuận lợi về môi trường công tác cho phát triển nguồn nhân lực được phát huy
thế mạnh, sở trường. Vấn đề đặt ra là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức, lực lượng trong việc phối kết hợp để xây dựng, ban hành quy chế sử dụng,
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là các phòng, ban, sở nội vụ ở các cơ quan, đơn
vị địa phương; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh giữa người đứng đầu
với cấp dưới; duy trì thực hiện nghiêm túc các chế độ, quy định, nền nếp sinh
hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương; quan tâm đến đời sống của cán bộ, công
nhân thuộc quyền quản lý.
4.3. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với việc phát triển nguồn nhân lực
Cần chú trọng bảo đảm sự quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ đối với
các hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là chú trọng
tới nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhà nước cần ban hành chế, chính sách đãi
ngộ, sử dụng phát triển nguồn nhân lực, do đó, Nhà nước cần phân cấp, giao nhiệm
vụ cho các quan, ban, ngành tiến hành quản phát triển nguồn nhân lực một
cách hiệu quả, không để xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tức là đào tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng không phục vụ cho Nhà nước phục vụ
cho doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng, ban hành các quy định, yêu cầu cho các
cơ sở đào tạo về phát triển nguồn nhân lực; yêu cầu phát triển nguồn nhân lực khi
đào tạo xong phải làm việc ở trong nước, đặc biệt là trong bộ máy hành chính Nhà
nước, nếu vi phạm sẽ phải bồi thường, hoặc yêu cầu những nơi khác không tuyển
dụng; đặt ra yêu cầu cao cho phát triển nguồn nhân lực phải đặt lợi ích của quốc
gia, dân tộc lên trên hết, toàn tâm, toàn ý phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước
dân chủ, văn minh, giàu đẹp, vị thế ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế;
thường xuyên kiểm tra, nếu không đáp ứng được sẽ bị thải loại, hoặc sắp xếp, bố
trí ở những nơi khác.
Tạo ra những chế khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp với nhà trường để
đào tạo đúng phù hợp, gần sát nhất với nhu cầu của thị trường. Đồng thời, cần
nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục, gắn đào tạo kiến thức với thực
tập, thực hành nghề tại các sở doanh nghiệp: biện pháp để quan quản
nhà nước thường xuyên thu nhận thông tin phản hồi về mức độ hài lòng của các
doanh nghiệp đối với “sản phẩm” đầu ra của các cơ sở đào tạo.
CUA VIỆT NAM....
151
Đảng Nhà nước cần chính sách ràng, minh bạch, đúng đắn trong việc sử
dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa họcchuyên gia thật
sự có tài năng và đam mê cống hiến trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nước nhà.
Đảng Nhà nước cần tổng kết về luận thực tiễn về nguồn nhân lực Việt
Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm,
để trên cơ sở đó xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn
nhân lực Việt Nam, như chính sách hướng nghiệp, chính sách dạy nghề, học
nghề, chính sách quản nhà nước về dạy nghề, học nghề; chính sách dự báo nhu
cầu lao động và cân đối lao động theo ngành nghề, cấp trình độ; chính sách thu hút
các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn nhân lực cho đất
nước; chính sách chi ngân sách để đào tạo nguồn nhân lực; chính sách đối với các
tổ chức phi chính phủ liên quan đến vấn đề nhân tài, nhân lực; chính sách đối
với lao động đi làm việc nước ngoài thu hút các thành phần kinh tế tham gia
đưa lao động đi làm việc nước ngoài; chính sách bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nông dân, công nhân, trí thức, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho người lao động.
Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật tốt
giữa đào tạo sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng
hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
4.4. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tế
- xã hội của đất nước
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế - xã hội nước ta tăng trưởng khá cao, tương
đối ổn định, nhưng do tác động của bối cảnh thế giới, khu vực đặc biệt đại
dịch Covid-19 đã làm cho một số ngành, lĩnh vực, nhất người lao động bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Tình hình đó, ảnh hưởng phần nào đến phát triển nguồn nhân
lực, theo đó, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với điều kiện
tế của mỗi ngành, lĩnh vực mỗi quan, đơn vị, địa phương. Những người
trình độ cao thường biểu hiện tự cao, ít lắng nghe ý kiến đóng góp của người
khác, hoặc nghe chỉ mang tính chất chiếu lệ, tự mình quyết định mọi việc. Do
đó, trong quá trình làm việc, giải quyết các mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới,
giữa ngườitrình độ cao với mọi người xung quanh phải hài hoà, hợp lý, không
đặt cái tôi cá nhân lên quá cao, khiêm tốn, giản dị, cầu tiến bộ; đặt trong mối quan
hệ tổng thể của đơn vị, không vì có thành tích, tài năng hơn người khác mà có biểu
hiện lên mặt, xem thường người khác.
Đảng Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cần gắn với chiến lược phát triển kinh tế -hội, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, xác định thật xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao trách nhiệm của các nhà hoạch định tổ chức thực hiện
chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Chính phủ cần cải cách chính sách tiền tệ tài chính, phát triển kết cấu hạ tầng,
hiện đại hóa giáo dục là những vấn đề quan trọng trong thời điểm nâng cao cơ sở -
vật chất hạ tầng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Hơn nữa, Đảng Nhà nước cần biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề
vừa cấp bách, vừa lâu dài về nguồn nhân lực, trong đó có vấn đề khai thác, đào tạo,
sử dụng nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật sự mạnh mẽ trong việc khai
thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực trong công nhân, nông dân, trí thức,
doanh nhân, dịch vụ,...
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ
nông dân, công nhân, trí thức; kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
các nguồn nhân lực cho đúng. Không ngừng nâng cao trình độ học vấn.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải lựa chọn chính xác nguồn nhân
lực chất lượng cao vào làm việc trong quan, đơn vị, năng lực, trình độ đi liền
với phẩm chất đạo đức, lối sống, không được đổ kỵ với đồng nghiệp; không được
đặt ra yêu sách cho nơi làm việc; đông cam, cộng khổ với môi trường làm việc;
phát huy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc; tích cực, chủ động tự học,
bồi dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, đáp ứng yêu câu, nhiệm vụ của xu thế toàn cầu
hóa, mở cửa, hội nhập và phát triển nền kinh tế tri thức. Trọng dụng nhân tài đồng
bộ, tạo cơ hội cho người hiền tài phát huy năng lực và thu hút nhân lực trình độ cao
là người Việt đang làm việc ở nước ngoài, Việt kiềuchuyên gia nước ngoài vào
làm việc tại Việt Nam.
Tóm lại, nếu không làm tốt vấn đề tạo nguồn nhân lực cho đất nước, thì khó lòng
đạt được mục tiêu đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Trên thực tế, nhiều quốc gia đang phát triển, trở thành nước thu
nhập trung bình, nhưng rất ít nước tiếp tục đi lên được để trở thành nước phát triển
vì những nước này không có chính sách hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực.
| 1/10

Preview text:

3. Sự hình thành nhân cách theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm của các bậc tiền bối, Mác - Ăngghen đã kế thừa
và khắc phục những mặt hạn chế, đồng thời phát triển những quan niệm về nhân
cách con người đã có trong các học thuyết trước đây để đi tới quan niệm về con
người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con
người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự
nhiên. Con người không thể sống thoát ly khỏi tự nhiên, nhưng con người cũng có
thể làm chủ giới tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của mình. Sự hình thành
và phát triển nhân cách là quá trình thống nhất giữa cá nhân và xã hội, giữa mặt
sinh vật và mặt xã hội. Đó là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Nếu con người bị tách ra khỏi môi trường và các hoạt động xã hội thì nhân cách
con người không thể hình thành và phát triển được. C. Mác và Ph. Ăngghen, trên
cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà duy vật Pháp về sự tác động của môi trường
xã hội đến cá nhân, đã khẳng định: “Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có
tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình
trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng của bản tính của anh ta, không phải
căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã
hội”. Nói cách khác, đây chính là quá trình xã hội hóa cá nhân và cá nhân hóa xã
hội, nhưng suy cho cùng, xã hội hóa cá nhân là yếu tố quyết định đến sự hình thành
và phát triển nhân cách. Vì thế, có thể khái quát một số yếu tố cơ bản tác động đến
sự hình thành và phát triển nhân cách như sau:
Một là, sự hình thành và phát triển nhân cách chịu sự quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội
Con người trong hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội... đều thể hiện
mục đích, lợi ích của mình trong quan hệ với những người xung quanh, với xã hội.
C. Mác khẳng định rằng, lịch sử không phải là cái gì khác hơn là hoạt động của
con người theo đuổi những mục đích của mình. Những mục đích của con người
bao giờ cũng xuất phát và gắn liền với tính chế định của điều kiện lịch sử - xã hội,
của các quan hệ kinh tế trong một thời đại nhất định. Tính quy định khách của điều
kiện kinh tế - xã hội đã tạo quan ra một giới hạn chung, một xu thế chung cho mọi
hoạt động của con người. Sự phát triển của nhân cách với tư cách sự phát triển các
phẩm chất xã hội của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội cũng không nằm ngoài
những quy định khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội hiện thời mà mỗi cá
nhân đó là thành viên. VILênin gọi đây là quyết định luận lịch sử.
Bị quy định khách quan bởi điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng cái trực tiếp quy định
bản chất và đặc trưng của nhân cách lại không phải là tất cả các quan hệ kinh tế,
mà nhân tố quy định nhân cách ở tầng sâu nhất là quan hệ lợi ích. Bởi cái lõi vật
chất của đạo đức, nhân cách là vấn đề lợi ích. Nói cụ thể hơn, tính chất của việc
giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là nhân tố
sau cùng quy định bộ mặt của nhân cách. Sự phát triển của con người nói chung,
nhân cách nói riêng chỉ có thể phát triển đúng quy luật khi mỗi cá nhân tự giác
nhận thức đúng đắn, giải quyết hài hòa mối quan hệ cá nhân - xã hội xét trên
phương diện lợi ích. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “chừng nào con người còn
ở trong xã hội hình thành một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt
giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. thì chừng đó hành động của bản thân con người
sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người, và nô dịch con người, chứ
không phải bị con người thống trị”. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp cho mọi
hoạt động của con người. Con người ở bất kỳ thời đại nào cũng hành động trước
hết vì lợi ích của bản thân mình. Vì vậy, lợi ích cá nhân đóng vai trò trực tiếp, cơ
sở cho mọi hoạt động tự giác, hoạt động tích cực của con người. Lợi ích cá nhân
cũng là nhân tố quyết định, là cơ sở để thực hiện lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Lợi
ích xã hội với ý nghĩa là lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của
nhiều thành viên hợp lại thành cộng đồng, xã hội. Vì vậy, lợi ích xã hội là điều kiện
và đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. Điều này đã được C.
Mác và Ph. Ăngghen căn dặn: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ
đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cả biệt phù hợp
với lợi ích của toàn thể loài người”.
thủ Việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân là động lực của sự
phát triển nhân cách được minh chứng rõ ràng qua quá trình xây dựng đất nước ta.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lợi ích tập thể được đề cao, lấn át lợi ích
cá nhân, dẫn tới có sự đối lập, tách rời giữa việc thực hiện hành vi đạo đức với việc
thực hiện lợi ích cá nhân. Con người đứng trước hai lựa chọn: Thực hiện hành vi
đạo đức phải từ bỏ lợi ích của cá nhân; ngược lại, hoạt động vì lợi ích cá nhân có
thể không có động cơ để thực hiện hành vi đạo đức, điều này khiến cho hoạt động
đạo đức của nhân cách bị hạn chế. Vì vậy, nhân cách không có điều kiện phát triển
một cách hoàn thiện. Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường với tính đặc thù
của nó là thừa nhận tính hợp lý và thỏa mãn lợi ích cá nhân, đã tạo điều kiện tốt
cho sự phát triển nhân cách của con người. Trên mặt tích cực của mình, lợi ích cá
nhân là “chất kích thích” thôi thúc con người năng động, sáng tạo, tích cực hoạt
động. Quá trình con người tham gia và chủ động tham gia vào các hoạt động kinh
tế - xã hội để tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nhân cách. Bởi, nhân
cách chỉ có thể dic (hong vi được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối hệ với các nhu cầu và lợi ích. quan
Hai là, nhân cách là tổng hòa các yếu tố tạo thành giá trị mới của mỗi cá nhân trong xã hội
Nhân cách là cốt cách làm người của mỗi con người, khi con người chết đi, giá trị
nhân cách vẫn còn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Đạo đức không tách rời tài
năng. Đạo đức (phẩm chất) và tài năng (năng lực) của con người là hai nhân tố
trung tâm tạo nên nhân cách con người, hai nhân tố này phải gắn bó chặt chẽ với
nhau, không tách rời nhau. Người cho rằng “Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không
làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài
người”. Vì vậy, Người cho rằng, có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Trong quan niệm về cấu trúc nhân cách, Người nhấn mạnh hai thành tố quan trọng
là tài và đức (hồng và chuyên) trong đó đức là gốc của con người, nhất là người
cán bộ. Theo Người, cái cốt lõi, nền tảng của nhân cách người cán bộ cách mạng là
đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là
một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã
hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo đức tiến bộ, đạo đức cách mạng:
“Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó
không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người”. Đạo đức mới khác hẳn về chất so với kiểu đạo đức cũ. “Đạo đức
cũ như người đầu ngược xuống đất chân chống lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”* Đạo đức mới - đạo đức
cách mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng,
cho cách mạng, đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng
và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Hết lòng phục vụ
nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc. Người dạy: “Mỗi đồng chí phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng, củng cố
lập trường giai cấp công nhân... phải tuyệt đối chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng và Chính phủ... Dù ở cương vị nào, các đồng chí phải luôn luôn gương mẫu,
luôn luôn xứng đáng là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”. Mặt khác,
muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của người cán bộ cách mạng thì nhất thiết phải có
năng lực công tác. Quan điểm của Người về vấn đề năng lực luôn có tác dụng định
hướng và chỉ đạo việc bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ. Do đó, vấn đề
năng lực cũng là vấn đề luôn được người quan tâm đặc biệt. Người cán bộ có năng
lực là gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải quán triệt sâu sắc và thực
hiện nghiêm chỉnh quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, có trình độ và năng
lực cần thiết để đảm nhiệm trọng trách mà Đảng giao phó.
Hai là, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi nhân tố văn hóa của xã hội
Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành
những kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá và những tình cảm đạo đức trong sáng
của nhân cách Hiệu quả của giáo dục với tính cách một nhân tố phát triển nhân
cách phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng vận dụng những giá trị truyền thống vào
hoàn cảnh xã hội mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá nhân.
Văn hóa xã hội là tổng hòa của văn hóa cá nhân; tuy nhiên, đây không phải là phép
cộng đơn giản của tất cả văn hóa cá nhân, mà nó là sự kết tinh những tinh hoa của
nhiều thời đại, nhiều thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã được sống, được
tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa xã hội. Những giá trị,
chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức xã hội, trong
những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ... Chúng ta không thể nói đến
nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh. Nhân cách của con người được hình thành và
phát triển trong môi trường văn hóa xã hội một cách gián tiếp thông qua quá trình
giáo dục và tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế giới quan,
những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức... có vị trí quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách. Trong đó, thế giới quan có vị trí đặc biệt trong cấu
trúc nhân cách. Nó được cấu thành từ những yếu tố cơ bản là tri thức, niềm tin, lý
tưởng. Một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng một nhân
cách phát triển toàn diện. Nói cách khác, thế giới quan giữ vai trò định hướng
chung cho con người trong mọi hoạt động hiện thực của họ. Trong xã hội có phân
chia giai cấp, thế giới quan bao giờ cũng mang tính giai cấp và phản ánh lợi ích
của một giai cấp nhất định. Do vậy, khi được tiếp nhận trong ý thức đạo đức cá
nhân, nó khẳng định về mặt đạo đức lợi ích của giai cấp mà nó phản ánh. Hiện nay,
chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan khoa học và tiến bộ nhất. Bởi vì, ngoài sự
phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản, nó đồng thời phản ánh lợi ích trong xu thế vận
động tất yếu của xã hội loài người. Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ là làm cho những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt cho mọi người, mà
còn phải làm cho những nguyên tắc ấy trở thành niềm tin, động lực thúc đây mọi
hoạt động của họ. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng, là động lực cho sự phát triển nhân cách.
Tuy nhiên, khi chúng ta nhấn mạnh tính quyết định xã hội của nhân cách thì phải
hiểu rằng đó là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Trong hiện thực cuộc sống, sự hình
thành và phát triển của nhân cách không diễn ra đơn giản như vậy. Ảnh hưởng của
điều kiện kinh tế, của môi trường xã hội, môi trường giáo dục đối với nhân cách
không phải là quá trình thuận một chiều, mà giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Khi nhân cách được hình thành, con người trở thành chủ thể xã
hội với bản chất là hoạt động sáng tạo, cải tạo thế giới hiện thực. Con người lại
ngừng tạo ra những điều kiện môi trường xã hội mới, tốt đẹp làm cơ sở cho quá
trình hình thành và phát triển nhân cách. Đó chính là quá trình cá nhân hóa xã hội
trong mỗi chủ thể hoạt động mang nhân cách Với sức sáng tạo của tư duy trí tuệ và
thông qua hàng loạt các hoạt động trong thực tiên, nhân cách của con người tự biểu
hiện, tự khẳng định chính mình. Là sản phẩm của tự nhiên, của lịch sử - xã hội, đến
lượt mình, con người lại tác động vào tự nhiên nhằm khai thác mọi tiềm năng tự
nhiên phục vụ mục đích và nhu cầu của mình, tái tạo nên “tự nhiên thứ hai” cho
đời sống con người. Là chủ thể sáng tạo, tự ý thức, tự giác hành động, bằng năng
lực tuyệt đối và riêng có là hoạt động thực tiễn, con người ngày càng nắm bắt được
các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, ngày càng có khả năng sáng tạo to lớn để cải
tạo tự nhiên và xã hội, làm nên lịch sử nhân loại. Đồng thời, thông qua quá trình
đó, con người cũng không ngừng cải tạo bản thân mình. Sự thành đạt của mỗi
người có tác động tích cực đến việc lành mạnh hóa môi trường xã hội. Sự thành đạt
ấy không chỉ tạo nên tâm lý tự tin, niềm kiêu hãnh trong mỗi chủ thể hoạt động,
mà còn mở rộng khả năng hiện có và tác động tích cực đến tinh thần phấn đấu của những người xung quanh.
Xã hội hóa cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách không chỉ
biểu hiện sự tác động một chiều, mà còn bao hàm cả quá trình cá nhân hóa xã hội.
Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ này khẳng định vai trò to lớn
của sự tác động xã hội đến sự hình thành và phát triển nhân cách, đồng thời khẳng
định vai trò chủ thể hoạt động cải tạo xã hội của con người.
4. Những giải pháp về chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong việc đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay
4.1. Nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức, chú trọng sức
khỏe, giáo dục thẩm mỹ và chất lượng cuộc sống
Nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước. Một đất nước có điểm xuất phát thấp, chịu nhiều tổn thất
trong chiến tranh như Việt Nam mà muốn trở thành nước công nghiệp và phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì cần phải hết sức coi trọng chất lượng nguồn nhân lực.
Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc phát triển nguồn nhân
lực ở nước ta hiện nay. Ngay từ các bậc học, nhất là bậc học phổ thông trung học,
giáo viên và phụ huynh học sinh phải định hướng tương lai cho con em mình trong
việc chọn lựa ngành nghề phù hợp với năng lực, thế mạnh của bản thân. Từ đó, tập
trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về một ngành, lĩnh vực mà mình yêu thích, có
đầy đủ kiến thức, kỹ năng sau khi hoàn thành khoa học.
Đặc biệt, các trường cao đẳng, đại học phải làm tốt công tác tuyển sinh, xây dựng
chương trình đào tạo phù hợp với trình độ nhận thức của người học, đáp ứng nhu
cầu, nhiệm vụ của xã hội, của quá trình hội nhập, mở cửa, phát triển kinh tế tri
thức. Các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở đào tạo về khoa học kỹ thuật chú
trọng đến việc thực hành các thao tác, các bước của hoạt động sản xuất kinh doanh,
chuyển giao công nghệ; sử dụng thành thạo các trang thiết bị kỹ thuật, nhất là máy
móc hiện đại, điều khiển từ xa, tự động hóa.
Thực tiễn phát triển nguồn nhân lực ở nước ta không có nhiều, chủ yếu là nguồn
lực trung bình, tức là lao động ở bậc phổ thông, đơn giản, lao động có trình độ
chuyên môn cao rất ít. Do đó, hầu hết việc sản xuất, sử dụng công nghệ máy móc,
thiết bị đều nhập khẩu từ nước ngoài, phải mời chuyên gia nước ngoài đến hỗ trợ.
Theo đó, tiến hành rà soát lại chương trình đào tạo ở các trường; tăng cường thời
gian học thực hành, giảm thời gian học lý thuyết; gắn quá trình đào tạo với hoạt
động thực tập, tham quan, bắt tay vào công việc ở từng chuyên ngành đào tạo; đẩy
mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các trường, các chuyên
ngành đào tạo với nhau, nhất là với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đầu tư, công
ty; tuyển dụng học sinh vào đào tạo phải bảo đảm chất lượng, không chạy theo số
lượng. Các cơ sở đào tạo cần đầu tư hơn nữa vào các ngành nghề chất lượng cao:
như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới, công nghệ
sinh học... để giúp người lao động có thể làm chủ khi cuộc cách hóa bùng nổ như hiện nay. mang
Thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà để phát
triển nguồn nhân lực của đất nước thì việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng
nhân tài là việc làm vô cùng cần thiết. Song song với phát triển nguồn nhân lực cần
đi đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người trong thời đại hiện
nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và
năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý
tưởng. Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất
cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Chất lượng con
người, trước hết, phải tính đến sức khỏe sinh sản. Đảng ta cũng đã đề cập tới việc
cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh
tranh gay gắt và yêu cầu cường độ lao động cao: Ngành y tế phải có những quy
định cụ thể về sức khỏe sinh sản như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền,...
Vì vậy, phải tăng cường chất lượng hoạt động của các cơ quan chức năng. Khi có
chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa là phải nuôi
dưỡng về vật chất và tinh thần của con người, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào,
có trí tuệ minh mẫn, được phát triển toàn diện. Thực tế hiện nay, về vấn đề này
chúng ta còn kém xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực.
4.2. Có cơ chế, chính sách hợp lý, đồng bộ để thu hút, sử dụng đối với việc phát triển nguồn nhân lực
Trong mọi giai đoạn, thời kỳ cách mạng, vấn đề cơ chế, chính hợp lý, đồng bộ để
thu hút phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp cách mạng là rất quan
trọng. Nếu không thu hút, lôi cuốn được nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao thì đất nước kém phát triển và ngược lại. Có thể thấy, cơ chế, chính
sách sử dụng hợp lý, phù hợp với việc phát triển nguồn nhân lực là sự ghi nhận,
đánh giá của Đảng, Nhà nước và các tổ chức, lực lượng có liên quan đối với những
đóng góp của phát triển nguồn nhân lực cho cơ quan, đơn vị và địa phương. Tuy
nhiên, cơ chế, chính sách đó là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng lĩnh vực,
ngành nghề ở các vùng, miền và sự đóng góp đó cho sự phát triển ở mỗi cơ quan,
đơn vị và địa không phải là sự mặc định, có sẵn theo một khung nhất định. Trên cơ
sở nền tảng những phương. quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
về chính sách tiền lương, trọng dụng nhân tài, mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương
căn cứ vào tình hình cụ thể để hỗ trợ phần nào điều kiện vật chất, hoặc tạo điều
kiện thuận lợi về môi trường công tác cho phát triển nguồn nhân lực được phát huy
thế mạnh, sở trường. Vấn đề đặt ra là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức, lực lượng trong việc phối kết hợp để xây dựng, ban hành quy chế sử dụng,
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là các phòng, ban, sở nội vụ ở các cơ quan, đơn
vị và địa phương; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh giữa người đứng đầu
với cấp dưới; duy trì và thực hiện nghiêm túc các chế độ, quy định, nền nếp sinh
hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương; quan tâm đến đời sống của cán bộ, công
nhân thuộc quyền quản lý.
4.3. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với việc phát triển nguồn nhân lực
Cần chú trọng bảo đảm sự quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ đối với
các hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là chú trọng
tới nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách đãi
ngộ, sử dụng phát triển nguồn nhân lực, do đó, Nhà nước cần phân cấp, giao nhiệm
vụ cho các cơ quan, ban, ngành tiến hành quản lý phát triển nguồn nhân lực một
cách hiệu quả, không để xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tức là đào tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng không phục vụ cho Nhà nước mà phục vụ
cho doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng, ban hành các quy định, yêu cầu cho các
cơ sở đào tạo về phát triển nguồn nhân lực; yêu cầu phát triển nguồn nhân lực khi
đào tạo xong phải làm việc ở trong nước, đặc biệt là trong bộ máy hành chính Nhà
nước, nếu vi phạm sẽ phải bồi thường, hoặc yêu cầu những nơi khác không tuyển
dụng; đặt ra yêu cầu cao cho phát triển nguồn nhân lực phải đặt lợi ích của quốc
gia, dân tộc lên trên hết, toàn tâm, toàn ý phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước
dân chủ, văn minh, giàu đẹp, có vị thế ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế;
thường xuyên kiểm tra, nếu không đáp ứng được sẽ bị thải loại, hoặc sắp xếp, bố trí ở những nơi khác.
Tạo ra những cơ chế khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp với nhà trường để
đào tạo đúng và phù hợp, gần sát nhất với nhu cầu của thị trường. Đồng thời, cần
nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục, gắn đào tạo kiến thức với thực
tập, thực hành nghề tại các cơ sở doanh nghiệp: Có biện pháp để cơ quan quản lý
nhà nước thường xuyên thu nhận thông tin phản hồi về mức độ hài lòng của các
doanh nghiệp đối với “sản phẩm” đầu ra của các cơ sở đào tạo. CUA VIỆT NAM.... 151
Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn trong việc sử
dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật
sự có tài năng và đam mê cống hiến trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Đảng và Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt
Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm,
để trên cơ sở đó xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn
nhân lực ở Việt Nam, như chính sách hướng nghiệp, chính sách dạy nghề, học
nghề, chính sách quản lý nhà nước về dạy nghề, học nghề; chính sách dự báo nhu
cầu lao động và cân đối lao động theo ngành nghề, cấp trình độ; chính sách thu hút
các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn nhân lực cho đất
nước; chính sách chi ngân sách để đào tạo nguồn nhân lực; chính sách đối với các
tổ chức phi chính phủ có liên quan đến vấn đề nhân tài, nhân lực; chính sách đối
với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các thành phần kinh tế tham gia
đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; chính sách bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nông dân, công nhân, trí thức, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho người lao động.
Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật tốt
giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng có
hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
4.4. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tế
- xã hội của đất nước
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế - xã hội nước ta tăng trưởng khá cao, tương
đối ổn định, nhưng do tác động của bối cảnh thế giới, khu vực và đặc biệt là đại
dịch Covid-19 đã làm cho một số ngành, lĩnh vực, nhất là người lao động bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Tình hình đó, ảnh hưởng phần nào đến phát triển nguồn nhân
lực, theo đó, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với điều kiện
tế của mỗi ngành, lĩnh vực ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Những người có
trình độ cao thường có biểu hiện tự cao, ít lắng nghe ý kiến đóng góp của người
khác, hoặc có nghe chỉ mang tính chất chiếu lệ, tự mình quyết định mọi việc. Do
đó, trong quá trình làm việc, giải quyết các mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới,
giữa người có trình độ cao với mọi người xung quanh phải hài hoà, hợp lý, không
đặt cái tôi cá nhân lên quá cao, khiêm tốn, giản dị, cầu tiến bộ; đặt trong mối quan
hệ tổng thể của đơn vị, không vì có thành tích, tài năng hơn người khác mà có biểu
hiện lên mặt, xem thường người khác.
Đảng và Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao cần gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân
lực có chất lượng cao là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện
chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Chính phủ cần cải cách chính sách tiền tệ và tài chính, phát triển kết cấu hạ tầng,
hiện đại hóa giáo dục là những vấn đề quan trọng trong thời điểm nâng cao cơ sở -
vật chất hạ tầng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Hơn nữa, Đảng và Nhà nước cần có biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề
vừa cấp bách, vừa lâu dài về nguồn nhân lực, trong đó có vấn đề khai thác, đào tạo,
sử dụng nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật sự mạnh mẽ trong việc khai
thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực trong công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ,...
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ
nông dân, công nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
các nguồn nhân lực cho đúng. Không ngừng nâng cao trình độ học vấn.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải lựa chọn chính xác nguồn nhân
lực chất lượng cao vào làm việc trong cơ quan, đơn vị, năng lực, trình độ đi liền
với phẩm chất đạo đức, lối sống, không được đổ kỵ với đồng nghiệp; không được
đặt ra yêu sách cho nơi làm việc; đông cam, cộng khổ với môi trường làm việc;
phát huy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc; tích cực, chủ động tự học,
bồi dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, đáp ứng yêu câu, nhiệm vụ của xu thế toàn cầu
hóa, mở cửa, hội nhập và phát triển nền kinh tế tri thức. Trọng dụng nhân tài đồng
bộ, tạo cơ hội cho người hiền tài phát huy năng lực và thu hút nhân lực trình độ cao
là người Việt đang làm việc ở nước ngoài, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam.
Tóm lại, nếu không làm tốt vấn đề tạo nguồn nhân lực cho đất nước, thì khó lòng
đạt được mục tiêu đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Trên thực tế, có nhiều quốc gia đang phát triển, trở thành nước có thu
nhập trung bình, nhưng rất ít nước tiếp tục đi lên được để trở thành nước phát triển
vì những nước này không có chính sách hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực.