Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Nội Vụ Hà Nội

Điều kiện lịch sử:Vào những năm 40 thế kì XIX, chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu đạt được những bước phát triểnvề kinh tế. Cuộc CMKH-KT lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất TBCN phát triểnmạnh mẽ làm cho nó bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính xãhội ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu
sản xuất.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem

lOMoARcPSD| 45619127
Chương 1: Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học:
Điều kiện lịch sử:
Vào những năm 40 thế kì XIX, chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu đạt được những bước phát triển về
kinh tế. Cuộc CMKH-KT lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất TBCN phát triển mạnh
mẽ làm cho bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính hội
ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu nhân TBCN về liệu sản
xuất.
Cùng với sự phát triển của CNTB, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên đài
đấu tranh chống giai cấp sản với cách là một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu tổ chức trên quy rộng
khắp. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống
lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế-xã hội khách quan cho sự ra đời của CNXHKH thay thế các trào
lưu XHCN và CSCN đã tỏ ra lỗi thời, không còn khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp sản, đồng thời CNXHKH cần một hệ thống luận soi
đường và cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Những tiền đề khoa học tự nhiên – tư tưởng lý luận:
Đến đầu thế kỉ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tự to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa và
tư tưởng. Về khoa học tự nhiên: thuyết tế bào; thuyết tiến hóa; thuyết bảo toàn chuyển hóa
năng lượng.
Trong khoa học xã hội cũng có những thành tựu đáng ghi nhận, trong đó, phải kể đến sự ra đời
của triết học cổ điển Đức George Wilhelm Friedrich Hêghen và Lutvich Phoiơbắc; của kinh tế
chính trị học cổ điển Anh với Adam Smith David Ricardo; đặc biệt Cơlôđơ Hăngri Đơ
Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê, Rôbớt
Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng do các nhàhội chủ nghĩa không tưởng Pháp,
Anh đã có những giá trị nhất định:
Thể hiện tinh thần phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế chế độ
bản chủ nghĩa đầy bất công, xung đột, của cải khánh kiệt, đạo đức đảo lộn, tội ác
gia tăng
Đưa ra nhiều luận điểm giá trị về xã hội tương lai về tổ chức sản xuất và phân
phối sản phẩm xã hội; nêu ra vai trò của công nghiệp và khoa học - kỹ thuật; về xóa
bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc; về sự nghiệp giải phóng phụ
nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước…
lOMoARcPSD| 45619127
Chính những tưởng có tính phê phán sự dấn thân trong thực tiễn của các
nhà hội chủ nghĩa không tưởng, trong chừng mực, đã thức tỉnh phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và người lao động
Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư tưởng - văn hóa.
Vai trò của Mác, Ăngghen đối với sự ra đời của CNXHK
C.Mác đã nêu ra , ba phát kiến vĩ đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng
dư, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không phải do
tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sphát triển của CNTB, của tư duy lý luận có
cơ sở khoa học.
Tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản" do C.Mác Ph. Ăngghen soạn thảo theo sự ủy
nhiệm của "Đồng minh những người cộng sản" - một tổ chức công nhân quốc tế, đánh dấu sự
ra đời của CNXHKH.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" là tác phẩm bất hủ, là ca khúc tuyệt tác của chủ nghĩa Mác,
văn kiện tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào công nhân, phong trào cộng sản.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản
công nhân quốc tế.
Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khái niệm:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
phát triển nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất tính chất
hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ,
dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức
sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay. Họ người làm thuê do không nguyên liệu sản
xuất, buộc bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư vì vậy lợi ích
cơ bản của họ đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản . Đó giai cấp sứ mệnh phủ định chế
độ bản chủ nghĩa xây dựng thành công chủ nghãi cộng sản, chủ nghĩa hội trên toàn thế
giới.
Ở nước ta, giai cấp công nhân cùng nông dân làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh
đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Đặc điểm:
Về phương diện kinh tế - xã hội:
Lao động bằng phương thức công nghiệp, trực tiếp hay gián tiếp.
lOMoARcPSD| 45619127
Đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến.
Không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê.
Bị bóc lột giá trị thặng dư,
=> Đại diện cho LLSX tiên tiến, phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN.
=> lợi ích bản đối lập trực tiếp với GCTS, lợi ích bản để lật đổ sự thống trị của
GCTB.
Về phương diện chính trị - xã hội:
Có tinh thần CM triệt để.
Ý thức tổ chức, kỷ luật cao.
Bản chất quốc tế, bản sắc dân tộc.
Hệ tư tưởng tiến bộ, có chính Đảng lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản.
=> Là GC tiên phong, có khả năng đứng lên lãnh đạp cách mạng vô sản.
Nội dung sứ mệnh:
GCCN lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội & chủ
nghĩa cộng sản
+Lật độ giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước của nhân dân, công dân
+Xây dựng quan hệ sản xuất mới - hội chủ nghĩa
+Xây dựng nền văn hóa trên hệ tư tưởng của GCCN
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: giai cấp công nhân biến thành giai cấp thống
trị và giành lấy chính quyền nhà nước vào tay giai cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân
dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ bản trong tay giai cấp sản để
tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước từ đó tiến hành tổ chức xây
dựng hội mới - hội chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công
nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng
bước thứ hai quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được vai trò của mình,
xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và
tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia
giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng thế giới nói
chung. Các vấn đề đó tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương
thực,…
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, không
chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
lOMoARcPSD| 45619127
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng,
tệ nạn hội, lực lượng chính trị hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động toàn thể nhân loại khỏi
sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn
nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào
sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo
cách mạng trong thời kỳ mới.
Điều kiện khách quan:
Điều kiện khách quan 1: nguyên nhân ra đời:
Dưới CNTB, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân ra đời và từng bước
phát triển. Giai cấp công nhân bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản
xuất, là giai cấp tiên tiến nhất, lực lượng quyết định phá vỡ quan hsản xuất TBCN, người
duy nhất có khả năng lãnh đạo hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương
thức sản xuất TBCN, giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại
ngày nay.
Điều kiện 2: Do địa vị chính trị - xã hội:
Mặc dù là giai cấp tiên tiến nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc phải
bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư, áp bức
ngày càng bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Do đó mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối khảng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội
bản chủ nghĩa. Những điều kiện khách quan quy định rằng họ chỉ thể giải phóng mình
bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ TBCN.
Điều kiện 3: địa vị kinh tế - xã hội:
Địa vị kinh tế hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để
khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Điều kiện chủ quan:
Bản thân GCCN phát triển
lOMoARcPSD| 45619127
Đảng cộng sản ra đời: sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Marx với phong
trào công nhân (quan trọng nhất)
GCCN liên minh với nông dân và các tầng lớp lao động Chương 3:
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi
mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
MarxLenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái
riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam .
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ
thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội,
đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm
sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do,
dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện
thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân
Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt
chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ
nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư
tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm
chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức
của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo
đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên
lOMoARcPSD| 45619127
tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức
dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa hội nhân dân
ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã
hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một
trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu
những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của
các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự
kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện
tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa
trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá
trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. nh ưu việt của chủ
nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây
dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta. -
Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân
tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam - Đặc
trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện
lOMoARcPSD| 45619127
pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm,
lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các
nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…
Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không
phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
| 1/7

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45619127
Chương 1: Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học: Điều kiện lịch sử:
Vào những năm 40 thế kì XIX, chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu đạt được những bước phát triển về
kinh tế. Cuộc CMKH-KT lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất TBCN phát triển mạnh
mẽ làm cho nó bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội
ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất.
Cùng với sự phát triển của CNTB, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên vũ đài
đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng
khắp. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống
lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế-xã hội khách quan cho sự ra đời của CNXHKH thay thế các trào
lưu XHCN và CSCN đã tỏ ra lỗi thời, không còn khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời CNXHKH cần có một hệ thống lý luận soi
đường và cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Những tiền đề khoa học tự nhiên – tư tưởng lý luận:
Đến đầu thế kỉ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tự to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa và
tư tưởng. Về khoa học tự nhiên: thuyết tế bào; thuyết tiến hóa; thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
Trong khoa học xã hội cũng có những thành tựu đáng ghi nhận, trong đó, phải kể đến sự ra đời
của triết học cổ điển Đức George Wilhelm Friedrich Hêghen và Lutvich Phoiơbắc; của kinh tế
chính trị học cổ điển Anh với Adam Smith và David Ricardo; đặc biệt là Cơlôđơ Hăngri Đơ
Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê, Rôbớt
Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng do các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp,
Anh đã có những giá trị nhất định:
• Thể hiện tinh thần phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư
bản chủ nghĩa đầy bất công, xung đột, của cải khánh kiệt, đạo đức đảo lộn, tội ác gia tăng
• Đưa ra nhiều luận điểm có giá trị về xã hội tương lai về tổ chức sản xuất và phân
phối sản phẩm xã hội; nêu ra vai trò của công nghiệp và khoa học - kỹ thuật; về xóa
bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc; về sự nghiệp giải phóng phụ
nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước… lOMoAR cPSD| 45619127
• Chính những tư tưởng có tính phê phán và sự dấn thân trong thực tiễn của các
nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, trong chừng mực, đã thức tỉnh phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và người lao động
Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư tưởng - văn hóa.
Vai trò của Mác, Ăngghen đối với sự ra đời của CNXHK
C.Mác đã nêu ra , ba phát kiến vĩ đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng
dư, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không phải do
tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của CNTB, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản" do C.Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo theo sự ủy
nhiệm của "Đồng minh những người cộng sản" - một tổ chức công nhân quốc tế, đánh dấu sự ra đời của CNXHKH.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" là tác phẩm bất hủ, là ca khúc tuyệt tác của chủ nghĩa Mác,
là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào công nhân, phong trào cộng sản.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" là kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Khái niệm:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
phát triển nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất
xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ,
dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức
sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay. Họ là người làm thuê do không có nguyên liệu sản
xuất, buộc bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư vì vậy lợi ích
cơ bản của họ đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản . Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế
độ tư bản chủ nghĩa xây dựng thành công chủ nghãi cộng sản, chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Ở nước ta, giai cấp công nhân cùng nông dân làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh
đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc điểm:
Về phương diện kinh tế - xã hội:
• Lao động bằng phương thức công nghiệp, trực tiếp hay gián tiếp. lOMoAR cPSD| 45619127
• Đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến.
• Không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê.
• Bị bóc lột giá trị thặng dư,
=> Đại diện cho LLSX tiên tiến, phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN.
=> Có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với GCTS, là lợi ích cơ bản để lật đổ sự thống trị của GCTB.
Về phương diện chính trị - xã hội:
• Có tinh thần CM triệt để.
• Ý thức tổ chức, kỷ luật cao.
• Bản chất quốc tế, bản sắc dân tộc.
• Hệ tư tưởng tiến bộ, có chính Đảng lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản.
=> Là GC tiên phong, có khả năng đứng lên lãnh đạp cách mạng vô sản. Nội dung sứ mệnh:
GCCN lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội & chủ nghĩa cộng sản
+Lật độ giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước của nhân dân, công dân
+Xây dựng quan hệ sản xuất mới - xã hội chủ nghĩa
+Xây dựng nền văn hóa trên hệ tư tưởng của GCCN
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: giai cấp công nhân biến thành giai cấp thống
trị và giành lấy chính quyền nhà nước vào tay giai cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân
dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để
tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước từ đó tiến hành tổ chức xây
dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công
nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng
bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được vai trò của mình,
xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia
giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,…
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, không
chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị. lOMoAR cPSD| 45619127
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng,
tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Và
Phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn
và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào
sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo
cách mạng trong thời kỳ mới. Điều kiện khách quan:
Điều kiện khách quan 1: nguyên nhân ra đời:
Dưới CNTB, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân ra đời và từng bước
phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản
xuất, là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, là người
duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương
thức sản xuất TBCN, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.
Điều kiện 2: Do địa vị chính trị - xã hội:
Mặc dù là giai cấp tiên tiến nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc phải
bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư, áp bức
và ngày càng bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Do đó mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối khảng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội
tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện khách quan quy định rằng họ chỉ có thể giải phóng mình
bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ TBCN.
Điều kiện 3: địa vị kinh tế - xã hội:
Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để và có
khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc. Điều kiện chủ quan:
• Bản thân GCCN phát triển lOMoAR cPSD| 45619127
• Đảng cộng sản ra đời: sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Marx với phong
trào công nhân (quan trọng nhất)
• GCCN liên minh với nông dân và các tầng lớp lao động Chương 3:
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi
mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
MarxLenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái
riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam .
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ
thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội,
đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm
sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do,
dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện
thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân
Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt
chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ
nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư
tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức
của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo
đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên lOMoAR cPSD| 45619127
tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức
dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã
hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một
trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu
những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của
các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự
kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện
tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa
trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá
trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây
dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta. -
Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân
tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam - Đặc
trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện lOMoAR cPSD| 45619127
pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm,
lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các
nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…
Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không
phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.