Sự vận dụng QHXS và LLSX | Triết học Mác-Lênin

Vân dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Liên hệ hoặc vận dụng đối với sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam trước và sau 1986 (Giải thích thêm trước hoặc sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI). Bài tập giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao

Đề bài: Vân dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
trình độ của lực lượng sản xuất. Liên hệ hoặc vận dụng đối với sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam trước và sau 1986 (Giải thích thêm trước hoặc sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI)
Thực tiễn sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX Việt Nam
hiện nay:
1, Thời kì trước đổi mới (trước 1986)
Trước thờiđổi mới nước ta nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp và sự thể hiện quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX biểu hiện cụ thể:
+Nước ta đã thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách ào ạt, trong khi đó
đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX (vi phạm tính lịch sử cụ thể).
+ Đồng thời, trong quá trình cải tạo nền sản xuất chỉ tập trung cải tạo QHSX, chủ trương
xây dựng QHSX tiến bộ mở đường cho LLSX phát triển (đi ngược lại với quy luật QHSX phù
hợp với phát triển của LLSX).
Thực tế vận dụng quy luật này cho thấy chúng ta đã quá coi trọng vai trò của QHSX và cho
rằng có thể đưa QHSX đi trước để mở đường, thúc đẩy LLSX cùng phát triển. Việc áp dụng quan
niệm ấy hoàn toàn sai lầm, minh chứng cho điều đó LLSX trong thời gian qua thấp kém,
QHSX được duy trì trình độ quá cao. Từ đó làm mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển LLSX với
hình thức kinh tế - hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mâu thuẫn đó đã để
lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nước nhà: kinh tế chậm phát triển, sản xuất trì trệ, tăng
trưởng chỉ đạt 0,4% (trong khi chỉ tiêu đặt ra là 13-14%), tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay
gắt, năm 1980 phải nhập khẩu 1,576 triệu tấn lương thực, ngân sách thiếu hụt, giá cả hàng năm
tăng 20%, nhập khẩu chiếm 4-5 phần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu cho nền kinh tế,
hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng…Qua đó, ta có thể thấy một thực tế của việc làm trái quy luật đã
gây ra hậu quả nặng nề cho nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.
Như vậy, QHSX không phù hợp với trình độ LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
2, Sự vận dụng quy luật này Việt Nam từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986)
đến nay
a,Trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay:
-Thứ nhất,trình độ của người lao động: đã được nâng cao rõ rệtkhông ngừng tăng
cao, cụ thể: tỉ lệ người lao động đã qua đào tạo có xu hướng tăng nhanh từ 9.357.532 người năm
2003 ( chiếm 22,5% tổng số lao động của cả nước) lên 10.770.688 người năm 2005 ( chiếm 25%
tổng slao động của cả nước) trong đó, số lao động trình độ cao đẳng, đại học 5.708.465
người ( chiếm 5,3 %) . Người lao động năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó,…kinh nghiệm
kĩ năng lao động của con người Việt Nam cũng khác nhau: có kinh nghiệm và kĩ năng của người
lao độngkhí, máy móc, có kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động đối với máy móc hiện
đại, tự động hóa,… Từ đó, trình độ tổ chức phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất Việt nam hiện nay đã nhiều tiến bộ. Qua đó, cho thấy trình độ
chuyên môn tay nghề của lao động nước ta đang những chuyển biến tích cực đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu cũng như đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đất nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
-Thứ hai, là trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn so với thời kì trước đổi mới cụ thể:
+ Công cụ lao động hiện đại hơn với sự đầu tư, mua mới nhiều máy móc, công cụ hiện
đại vào trong quá trình sản xuất góp phần làm cho năng suất lao động tăng cao, giảm bớt được
chi phí sức lao động. Điển hình, trước thời kì đổi mới chúng ta sử dụng trâu, bò để cày, máy móc
đưa vào sản xuất còn hạn chế thô sơ. Nhưng đến giai đoạn hiện nay, đã được thay bằng máy
cày,…việc sản xuất đã được trang bị bởi một hệ thống máy móc hiện đại nhập khẩu từ nước
ngoài góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh. Như Các – Mác nói: “Các cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lạihộinhà
bản công nghiệp”. cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay, không phải chạy bằng
hơi nước mà là tự động hóa.
+ Đối tượng lao động hiện nay cũng hiện đại hơn rất nhiều: nếu trước đây với nền văn
minh nông nghiệp thì đối tượng lao động chủ yếu ruộng đất còn trong giai đoạn hiện nay, với
nền văn minh cơ khí thì đối tượng lao động được mở rộng với các nguyên liệu như: than đá, chất
đốt, dầu khí,…Tất cả tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng hiện đại của lực lượng sản xuất.
b,Những QHSX đang được xây dựng hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX
QHSX đang thiết lập và xây dựng hiện nay là QHSX trong nền kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là QHSX xã hội chủ nghĩa tiến bộ vì nó hơn hẳn QHSX phong kiến
và QHSX tư bản chủ nghĩa:
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu: Do trình độ của LLSX nước ta hiện nay đa dạng,
không đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây dựng một QHSX phù hợp. Cùng với tiến
trình xã hội hóa lực lượng sản xuất do công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản
của sự phát triển .Các hình thức kinh tế quá độ để chuyển hữu thành công hữu rất đa dạng.
Thực tiễn cuộc sống sự phát triển duy luận sẽ ngày càng bổ sung thêm những hình thức
mới. Cho đến nay chúng tathể khẳng định, để chuyểnhữu thành công hữu không chỉ bằng
con đường tịch thu, quốc hữu hóa hay bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước,còn có thể bằng phát
triển rộng rãi các hình thức của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần các tổ chức kinh tế của
những người lao động làm chủ, liên doanh, liên kết. Đa dạng nghĩa là chúng ta xây dựng một
nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể sở hữu
nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ vị trí chủ đạo then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Điều
này hoàn toàn phù hợp với LLSX ở nước ta hiện nay.
- Xây dựng cấu kinh tế nhiều thành phần: trải qua thời chiến tranh nước ta đã
đang từng bước vượt qua khó khăn, hoàn thiện tiến dần tới sự tiến bộ phù hợp. Nếu trước kia
chúng ta chỉ công nhận s tồn tại của hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sở hữu toàn dân thành phần kinh tế hợp tác thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao
động.
Một dụ minh chứng cụ thể cho sự tồn tại của thành phần kinh tế này là: nước ta tồn tại
mô hình hợp tác xã, mô hình này trước thời kì đổi mới là các hợp tác xã mang tính chất ép buộc (
buộc mọi người vào làm trong hợp tác xã), tính công theo ngày không quan tâm tới năng suất,
hiệu quả, tinh thần trách nhiệm của mọi thành viên trong hợp tác, cũng như lợi ích của người lao
động, công cụ lao động thủ công nên người này chăm chỉ, người khác vẫn có thể lười biếng.
Từ thực trạng tiêu cực đó nước ta không thể duy trì hai thành phần kinh tế đó nữa cần sự
đa dạng, mở rộng với việc công nhận thêm các thành phần kinh tế khác: thành phần kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhân một trong những động lực của
nền kinh tế. Kinh tế vốn đầu nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các thành phần
kinh tế đều bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của
nhà nước nhằm tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế giữ được sự ổn định về chính trị,
gắn với công bằng xã hội.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
hiện có: QHSX xã hội chủ nghĩa là QHSX ở trình độ cao có tác động mở đường cho sự phát triển
của LLSX. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
ý nghĩa quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng liên tục, chế độ bao cấp bị xóa bỏ. “Cùng với
việc thực hiện kế hoạch 5 năm ( 1991-1995) nước ta đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thờiđẩy mạnh công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện rệt:
lao động việc làm tăng nhanh, mỗi năm tạo ra hàng trăm việc m mới, GDP đầu người đạt
1.300USD/ năm ( năm 2011)”.
+ Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt chăn nuôi, sản lượng lương thực tăng,
Việt nam từ một nước thiếu lương thực đến nay đã trở thành đứng thứ hai trên thế giới về xuất
khẩu gạo.
+ Công nghiệp tăng liên tục do sự đầu lớn cả trong ngoài nước, nhưng quan
trọng là có sự đổi mới về cơ chế, chính sách quản lí của Nhà nước, xóa bỏ bao cấp, nhận vốn đầu
tư nước ngoài,…
Những thành tựu đạt được kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi xướng lãnh
đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX
để phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
| 1/3

Preview text:

Đề bài: Vân dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Liên hệ hoặc vận dụng đối với sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam trước và sau 1986 (Giải thích thêm trước hoặc sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI)
Thực tiễn sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay:
1, Thời kì trước đổi mới (trước 1986)
Trước thời kì đổi mới nước ta nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp và sự thể hiện quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX biểu hiện cụ thể:
+Nước ta đã thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách ào ạt, trong khi đó
đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX (vi phạm tính lịch sử cụ thể).
+ Đồng thời, trong quá trình cải tạo nền sản xuất chỉ tập trung cải tạo QHSX, chủ trương
xây dựng QHSX tiến bộ mở đường cho LLSX phát triển (đi ngược lại với quy luật QHSX phù
hợp với phát triển của LLSX).
Thực tế vận dụng quy luật này cho thấy chúng ta đã quá coi trọng vai trò của QHSX và cho
rằng có thể đưa QHSX đi trước để mở đường, thúc đẩy LLSX cùng phát triển. Việc áp dụng quan
niệm ấy là hoàn toàn sai lầm, minh chứng cho điều đó là LLSX trong thời gian qua thấp kém,
QHSX được duy trì ở trình độ quá cao. Từ đó làm mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển LLSX với
hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mâu thuẫn đó đã để
lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nước nhà: kinh tế chậm phát triển, sản xuất trì trệ, tăng
trưởng chỉ đạt 0,4% (trong khi chỉ tiêu đặt ra là 13-14%), tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay
gắt, năm 1980 phải nhập khẩu 1,576 triệu tấn lương thực, ngân sách thiếu hụt, giá cả hàng năm
tăng 20%, nhập khẩu chiếm 4-5 phần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế,
hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng…Qua đó, ta có thể thấy một thực tế của việc làm trái quy luật đã
gây ra hậu quả nặng nề cho nền kinh tế đất nước là rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.
Như vậy, QHSX không phù hợp với trình độ LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
2, Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đến nay
a,Trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay:
-Thứ nhất, là trình độ của người lao động: đã được nâng cao rõ rệt và không ngừng tăng
cao, cụ thể: tỉ lệ người lao động đã qua đào tạo có xu hướng tăng nhanh từ 9.357.532 người năm
2003 ( chiếm 22,5% tổng số lao động của cả nước) lên 10.770.688 người năm 2005 ( chiếm 25%
tổng số lao động của cả nước) trong đó, số lao động có trình độ cao đẳng, đại học là 5.708.465
người ( chiếm 5,3 %) . Người lao động năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó,…kinh nghiệm và
kĩ năng lao động của con người Việt Nam cũng khác nhau: có kinh nghiệm và kĩ năng của người
lao động cơ khí, máy móc, có kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động đối với máy móc hiện
đại, tự động hóa,… Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất ở Việt nam hiện nay đã có nhiều tiến bộ. Qua đó, cho thấy trình độ
chuyên môn tay nghề của lao động nước ta đang có những chuyển biến tích cực đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu cũng như đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
-Thứ hai, là trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn so với thời kì trước đổi mới cụ thể:
+ Công cụ lao động hiện đại hơn với sự đầu tư, mua mới nhiều máy móc, công cụ hiện
đại vào trong quá trình sản xuất góp phần làm cho năng suất lao động tăng cao, giảm bớt được
chi phí sức lao động. Điển hình, trước thời kì đổi mới chúng ta sử dụng trâu, bò để cày, máy móc
đưa vào sản xuất còn hạn chế và thô sơ. Nhưng đến giai đoạn hiện nay, đã được thay bằng máy
cày,…việc sản xuất đã được trang bị bởi một hệ thống máy móc hiện đại nhập khẩu từ nước
ngoài góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh. Như Các – Mác nói: “Các cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà
tư bản công nghiệp”. Và cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay, không phải chạy bằng
hơi nước mà là tự động hóa.
+ Đối tượng lao động hiện nay cũng hiện đại hơn rất nhiều: nếu trước đây với nền văn
minh nông nghiệp thì đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất còn trong giai đoạn hiện nay, với
nền văn minh cơ khí thì đối tượng lao động được mở rộng với các nguyên liệu như: than đá, chất
đốt, dầu khí,…Tất cả tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng hiện đại của lực lượng sản xuất.
b,Những QHSX đang được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
QHSX đang thiết lập và xây dựng hiện nay là QHSX trong nền kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là QHSX xã hội chủ nghĩa tiến bộ vì nó hơn hẳn QHSX phong kiến
và QHSX tư bản chủ nghĩa:
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu: Do trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay đa dạng,
không đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây dựng một QHSX phù hợp. Cùng với tiến
trình xã hội hóa lực lượng sản xuất do công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản
của sự phát triển .Các hình thức kinh tế quá độ để chuyển tư hữu thành công hữu là rất đa dạng.
Thực tiễn cuộc sống và sự phát triển tư duy lý luận sẽ ngày càng bổ sung thêm những hình thức
mới. Cho đến nay chúng ta có thể khẳng định, để chuyển tư hữu thành công hữu không chỉ bằng
con đường tịch thu, quốc hữu hóa hay bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà còn có thể bằng phát
triển rộng rãi các hình thức của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế của
những người lao động làm chủ, liên doanh, liên kết. Đa dạng có nghĩa là chúng ta xây dựng một
nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ vị trí chủ đạo và then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Điều
này hoàn toàn phù hợp với LLSX ở nước ta hiện nay.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: trải qua thời kì chiến tranh nước ta đã và
đang từng bước vượt qua khó khăn, hoàn thiện tiến dần tới sự tiến bộ và phù hợp. Nếu trước kia
chúng ta chỉ công nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Một ví dụ minh chứng cụ thể cho sự tồn tại của thành phần kinh tế cũ này là: ở nước ta tồn tại
mô hình hợp tác xã, mô hình này trước thời kì đổi mới là các hợp tác xã mang tính chất ép buộc (
buộc mọi người vào làm trong hợp tác xã), tính công theo ngày không quan tâm tới năng suất,
hiệu quả, tinh thần trách nhiệm của mọi thành viên trong hợp tác, cũng như lợi ích của người lao
động, công cụ lao động thủ công nên người này chăm chỉ, người khác vẫn có thể lười biếng.
Từ thực trạng tiêu cực đó nước ta không thể duy trì hai thành phần kinh tế đó nữa mà cần có sự
đa dạng, mở rộng với việc công nhận thêm các thành phần kinh tế khác: thành phần kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của
nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các thành phần
kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của
nhà nước nhằm tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị,
gắn với công bằng xã hội.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
hiện có: QHSX xã hội chủ nghĩa là QHSX ở trình độ cao có tác động mở đường cho sự phát triển
của LLSX. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
và có ý nghĩa quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng liên tục, chế độ bao cấp bị xóa bỏ. “Cùng với
việc thực hiện kế hoạch 5 năm ( 1991-1995) nước ta đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt:
lao động có việc làm tăng nhanh, mỗi năm tạo ra hàng trăm việc làm mới, GDP đầu người đạt
1.300USD/ năm ( năm 2011)”.
+ Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, sản lượng lương thực tăng,
Việt nam từ một nước thiếu lương thực đến nay đã trở thành đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
+ Công nghiệp tăng liên tục do có sự đầu tư lớn ở cả trong và ngoài nước, nhưng quan
trọng là có sự đổi mới về cơ chế, chính sách quản lí của Nhà nước, xóa bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài,…
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX
để phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.