Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương | Văn mẫu lớp 9

Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương gồm 17 mẫu hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc về bi kịch, cùng nỗi oan khuất mà nhân vật Vũ Nương phải gánh chịu.

Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
1
Dàn ý suy nghĩ về thân phận người phụ nữ
Dàn ý chi tiết số 1
1. M bài
Gii thiu tác gi Nguyn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” v đp,
s phn bi kch của Vũ Nương.
2. Thân bài
a. V đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy m, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới v làm v.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chng bình an tr v.
Khi chng ra trn: nhà mt lòng mt d chăm sóc con trai chăm sóc mẹ
chng nhng ngày cuối đời.
Là người v hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng
ngưng m.
biểu tượng của người ph n Vit Nam trong xã hội vi nhng phm
hnh tốt đẹp.
b. S phn bi kch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nh đã tiết l b đêm
nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
2
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van
xin và thanh minh.
Người ph n không được t quyết định s phn ca mình phi ph
thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Tuy mình b oan nhưng không đưc
thanh minh.
Để chng minh tm lòng chung thy của mình Vũ Nương đã nhảy sông t t.
→ Đau khổ, xót thương trước s phn bt hnh ca nàng sau những điều tốt đẹp
nàng đã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khut của nàng đã cùng đau xót nhưng
nàng không th tr v nhân gian đưc na mãi lại nơi thủy cung. Đây
đưc coi là cái kết va có hu vừa đoản hu của Vũ Nương: có hu vì cui cùng
nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ Trương Sinh
nhn ra li lm, ân hn v li lầm đó; đoản hậu nàng không đưc quay li
nhân gian để sng tiếp kiếp người, để nhn lại phúc đức sau những nghĩa cử cao
đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định li v đẹp, s phn của Vũ Nương và giá trị ca tác phm.
Dàn ý chi tiết số 2
I. Mở bài
Đề tài người phụ nữ trong văn học nói chung, trong văn học trung đại nói
riêng.
Giới thiệu nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái
Nam Xương” và tính chất tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ dưới chế
độ cũ.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
3
II. Thân bài
1. Vũ Nương - người phụ nữ có tâm hồn cao đẹp nhưng số phận đau khổ
- Vũ Nương là người phụ nữ đẹp:
Tư dung tốt đẹp - người con gái bình dân.
Là người con hiếu thảo, người mẹ thương con, người vợ chung thuỷ.
Là người có lòng tự trọng.
- Vũ Nương lại là người phải gánh chịu nhiều khổ đau:
Một mình nuôi con, lo lắng thuốc thang, chôn cất mẹ chồng.
Bị Trương Sinh đối xử phũ phàng: nghi ngờ, không cho nàng biết nguyên
do, mắng nhiếc thậm tệ khiến nàng phải tìm đến cái chết.
Muốn quay trở lại cuộc sống trần gian nhưng không thể được.
2. Suy nghĩ về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến
Con người không làm chủ được vận mệnh của mình.
Xã hội phong kiến với những luật lệ khắt khe, vô nhân đạo gây ra bao bất
công cho người phụ nữ; chế độ đa thê gây bao cảnh oan trái đau lòng.
Người phụ nữ buộc phải cam chịu, nhẫn nhục nên những bất công đó có
điều kiện phát triển.
Cảm thông và hiểu rõ điều tốt đẹp trong phẩm chất của họ.
III. Kết bài
Cảm nhận về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương nói riêng, cũng như thân
phận của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Hiểu về thời đã qua để thêm yêu hiện tại.
Dàn ý chi tiết số 3
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
4
1. Mở bài:
Từ xa xưa, người phụ nữ đã trở thành một đề tài quen thuộc trong các tác
phẩm văn chương, trong ca dao, trong những truyện dân gian.
Đến văn học trung đại: hình ảnh người phụ nữ đã được thể hiện cụ thể,
sâu sắc hơn. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái
Nam Xương" của Nguyễn Dữ là nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn
số phận đầy đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
2. Thân bài:
a. Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời lại đầy
đau khổ, bất hạnh:
Là một người phụ nữ đẹp: vẻ đẹp hình thức (tư dung tốt đẹp); vẻ đẹp
nhân cách (yêu thương và thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng,
thương con, hết lòng chăm lo hạnh phúc gia đình).
Phải chịu những đau khổ, bất công, ngang trái: bị chồng nghi oan mà
không nghe nàng thanh minh, giãi bày; bị mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi đi,
đau khổ tột cùng, nàng phải tìm đến cái chết.
Không tự bảo vệ được hạnh phúc của mình.
b. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Sống cam chịu, nhẫn nhục...(sự cam chịu, nhẫn nhục càng làm cho những
bất công, ngang trái đè nặng lên cuộc đời, số phận của họ).
Không thể quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình (Vũ Nương,
người phụ nữ trong "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương, Thúy Kiều
trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du...)
Hiểu nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho họ (chế độ đa thê, tư tưởng
trọng nam khinh nữ, chiến tranh...đã gây ra những bất hạnh, oan trái...cho
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
5
người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, trong "Chinh phụ ngâm" của
Đoàn Thị Điểm...).
Cảm thương cho số phận đau khổ, bất hạnh của những người phụ nữ
trong xã hội phong kiến.
3. Kết bài
Qua cuộc đời, số phận đầy đau khổ của Vũ Nương, người đọc càng hiểu
hơn những bất hạnh, oan trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xã
hội phong kiến.
Liên hệ với hiện tại: người phụ nữ ngày càng được bình đẳng, được tôn
trọng...từ đó, thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống hiện tại.
Mơ ước về tương lai: Người phụ nữ không còn phải chịu những bất công,
đau khổ…
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật
Vũ Nương
Trong văn chương từ c chí kim, có biết bao sáng tác đã viết v thân phận người
ph n trong hi phong kiến. Bng ngòi bút tài hoa tấm lòng nhân đo,
Nguyn D đã tạc vào kho tàng văn hc Vit Nam hình ảnh nàng Nương -
đại din cho s phn hng nhan bc mnh của người ph n Vit Nam lúc by
gi.
Nguyn D đưc biết đến người hc trò tài gii ca Tuyết Giang Phu T
Nguyn Bnh Khiêm. Tác phm ca ông không ch th hiện tài năng, kiến thc
uyên bác mà còn cht cha nhng hoài bão nguyn vng thm kín v khát vng
hnh phúc, s công bng trong cuc sống. Chuyện người con gái Nam Xương
trích trong “Truyn kì mn lc” là tác phẩm tiêu biu ca ông.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
6
M đầu tác phm, tác gi đặt nhân vật Nương vào nhng hoàn cnh khác
nhau để bc l v đẹp đi sng tính cách nhân vt. Nguyn D đã gii thiu
Thị Thiết người con gái quê Nam Xương, tính đã thùy m nết na li thêm
tư dung tốt đẹp”. Chỉ bng một câu văn ngắn, Nguyn D đã khái quát một cách
đầy đủ và trn vn v đẹp của Vũ Nương. Ở nàng hi t đầy đủ c công - dung -
ngôn - hnh.
Không ch là một người ph n xinh đp, nết na, Nương còn một người
v yêu chng, thy chung vi chng. Nàng luôn khao khát hạnh phúc gia đình.
chồng nàng đa nghi, phòng nga quá mức nhưng gia đình chưa tng xy ra
bt hoà bởi Vũ Nương sống rất đức hạnh. Cưới nhau chưa được bao lâu, Trương
Sinh phi ra trận. Nương rót chén rượu đầy, dn chng nhng li tình
nghĩa: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo n hu, mc áo
gm tr v quê cũ, chỉ xin ngày v mang theo đưc hai ch bình yên, thế là đủ
ri…”. Nàng cùng cảm thông xót xa cho nhng ni gian lao, vt v
chng s phi chịu đng chốn xa trưng. Ri khi chồng đi xa, mi khi thy
ớm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng không nguôi thương nhớ.
Không lâu sau đó thì nàng h sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Nàng đã chỉ
cái bóng trên tường bo rằng đó cha Đản, đ con th cm nhn hnh
phúc ca mt mái m gia đình.
Vi m chồng, Nương đã làm tròn bn phn của người con dâu hiếu tho.
Nàng đã tận tình chăm sóc mẹ chng già yếu, ốm đau. Nàng hết sức chăm sóc,
l bái thn pht. Lời trăng trối ca người m chồng đã cho thy tình cảm đầm
m gia m chng nàng dâu: Ngn dài số, tươi héo bởi tri. M không
phi không muốn đi chng con v, không gng ăn miếng cơm miếng cháo
đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đc, ging
dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chng ph con, cũng như con
đã chẳng ph m”.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
7
Vi những người ph n nvậy, ta ng như họ s cuc sng m êm hnh
phúc. Nhưng “Tri xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Bi kịch của Vũ Nương
bắt đầu t khi Trương Sinh tr v. Chàng hay tin m đã qua đời, con va hc
nói. Đản ngây thơ k v một người đàn ông, đêm nào cũng đến, m Đản đi
cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao gi bế Đn cả”. Li nói y
khiến Trương Sinh ny sinh ghen tuông nghi ngờ. Nương c gng tìm
mọi cách để chng hiu cho tm lòng thy chung trong sch ca mình.
Nhưng thật đáng tiếc, Trương Sinh như đẩy nàng đến bước đường cùng khiến
Nương mượn dòng nước Hoàng Giang đ ra ni oan nhục. Nàng đã phải
chết oan ức nhưng nàng không h oán trách, hn thù. Nghe chàng Phan k v
gia đình, về nhà ca, nàng vn nặng lòng thương nhớ chng con, nh nhung quê
hương. Nương vẫn khao khát được phc hi danh dự. Khi Trương Sinh lp
dàn gii oan bến Hoàng Giang, Vũ Nương đã tr v để nói li t t. Cuộc đời
Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã cho thấy vô vàn phm cht tốt đẹp.
Ông ta cũng từng nói: "Gái công thì chng chng ph". y vậy
Nương lại phi hng chu mt s phn bt hạnh. Trước hết, nàng nn nhân
ca hi phong kiến với tưởng trng nam khinh n, phân bit giàu nghèo.
Không ch vy, nàng còn nn nhân ca chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
hi vi nhng h tc phong kiến lc hu, khc ấy cũng đã khiến nàng mang
tiếng “tht tiết” và đẩy nàng đến đường cùng, điều đó chính nguyên nhân
cho cái chết của Vũ Nương. Chính s đa nghi và hồ đồ của Trương Sinh đã dồn
nàng đến bi kịch đau đớn nht cuộc đời, hng chu cái chết oan nghit.
S phn của Vũ Nương không phi s phn ca một con người bit
tiêu biu cho cuộc đời ca rt nhiều người ph n trong hội xưa. Họ đầy
đủ công dung ngôn hạnh nhưng li chu nhiu bt công, ngang trái. Qua
nhân vt này, Nguyn D đã bày tỏ s xót thương trưc s kiếp kh đau của
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
8
ngưi ph n, trân trng ngi ca v đẹp ca họ. Đồng thi, tác gi còn lên
tiếng to xã hi phong kiến hà khc cùng chiến tranh phi nghĩa.
Làm nên thành công ca tác phm phi k đến ngh thut xây dng ct truyn
tình hung truyn hp dn, chi tiết tht nút m nút cùng ngh thut khc
ha tâm lí nhân vt, kết hp nhng yếu t hoang đường o.
“Phũ phàng chi bấy Hóa công
Tri xanh quen thói má hồng đánh ghen"
Câu thơ ấy như văng vng trong từng trang văn của Nguyn D khi viết v tt
c nhng tn bi kch của Nương. Số phn ca nàng li cnh tnh v cung
cách sng và chế độ xã hi trong thi phong kiến.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ qua Vũ Nương
S phn của người ph n thi phong kiến không phải đề tài mới nhưng vn
luôn khiến cho người đọc cm thy day dứt, thương xót cho ni bt công mà h
phi chịu đựng. "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyn D cũng
mt tác phm viết v ch đề này. Thông qua nhân vật Nương, tác giả đã
mang đến cho độc gi thêm nhiều suy nghĩ về thân phn của người ph n trong
xã hội cũ.
Ngay t những dòng đầu tiên, Nương đã được gii thiệu người con gái
vừa xinh đp li va hin thục, ngoan ngoãn: "tính đã thùy m, nết na, li
thêm dung tốt đẹp". Khi được g vào nhà giàu, nàng luôn tuân th khuôn
phép, không để gia đình phải xy ra tranh cãi, lục đục bao gi. Chiến tranh n ra,
chàng Trương phải đi lính. Vũ Nương ở nhà nht mc chung thy ch chng tr
v. Nàng chng mong chồng mình "đeo được n phong hu, mc áo gm tr v",
ch cn chồng được bình an. Vũ Nương còn một nàng dâu hiếu tho. Nàng lo
lng, ra sức chăm sóc m chng b m. Khi m mt, nàng lo vic ma chay chu
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
9
đáo như bố m đẻ mình. Không nhng thế, trong thi gian xa chồng, nàng đã hạ
sinh Đản. Lo s con thiếu vắng tình cha, Nương thưng tr tay lên cái
bóng nói đó cha Đản. Hành đng này ca nàng xut phát t tình cm nh
thương người chng lo lng cho con. Thế nhưng, đó cũng chính khởi
ngun cho bi kch của Vũ Nương.
Khi Trương Sinh quay về, nghe bé Đản nói đêm nào cũng có người đàn ông đến
nên đã nghi ngờ v tht tiết. Trương Sinh bèn ni gin, mng nhiếc, đuổi đánh
Nương ra khỏi nhà. Mc nhng li thanh minh của Vũ Nương và s khuyên
can ca hàng xóm, hn vn mt mc tin rng v mình hỏng. Chng th làm
gì, Nương đành gieo mình xuống sông Hoàng Giang để chng minh cho s
trong sch ca bản thân. Đọc đến đây, ta không khi thy xót xa cho nhân vt
chính. Nương đã phi chu cảnh đơn, gồng gánh, chăm c c gia đình
khi không chng bên. Nàng mong chng bình an tr v để lại được hưởng
nhng tháng ngày m êm, hnh phúc. y vy th nàng nhn lại được ch
s tuyt tình của người chồng đu p tay gối. Điều này cũng khiến ta nh đến
câu thơ của Nguyn Du khi viết v s kiếp ca những người ph n xưa kia:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Li rng bc mnh cũng là lời chung"
Có th không phi là tt cả, nhưng đa số người ph n trong xã hội cũ phải chu
cnh "bc mnh" giống như Nương. Cái chết ca nàng chính li t cáo
chiến tranh phi nghĩa đã khiến cho biết bao nhiêu gia đình phi lìa xa. Nhng
ngưi vợ, người m phi chu cảnh "chăn đơn gối chiếc". H không nhng b
chiến tranh nát hnh phúc còn không th t quyết định cuộc đời mình.
Tt c mi quyn hành nm hết trong tay người đàn ông. Họ sng mt cuộc đời
mông lung, định, không biết tương lai bản thân ra sao. Điều này được th
hin rt nhiu qua những câu ca dao than thân như:
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
10
"Thân em như trái bần trôi
Gió dp sóng di biết tấp vào đâu"
Hay n sĩ Hồ Xuân Hương cũng từng bc bch:
"Rn nát mc du tay k nn
Mà em vn gi tm lòng son"
Tht vy, cho phi chu nhiu ni bi kịch nhưng những người ph n vn c
vun vén, gi gìn hạnh phúc gia đình. Đến khi b dồn vào đường cùng, không th
chịu đựng được na, h đành phải la chn cái chết như một s gii thoát cho
bn thân. Cái chết của Vũ Nương như mt li t cáo đanh thép hướng đến
hi "nam quyền" đầy bất công. Chính tưởng "trng nam khinh nữ" đã đẩy
những người ph n nh bé vào nhiu ni bi kch, buc h phi chn cái chết để
chng minh s trong sch ca bn thân.
Qua "Chuyện người con gái Nam Xương" Nguyễn D đã thành công xây dng
hình tượng nhân vật Nương. Nàng đin hình cho những người ph n
trong hội cũ. Tuy mang nhiều nét đẹp c v ngoi hình ln phm cht, tính
cách nhưng họ li phi chịu đng cuộc đời đầy đau thương, mt mát. Tuy thi
đại đó đã qua đi nhưng mi lần đọc nhng tác phm viết v s mnh bi kch ca
ngưi ph n, ta vn không khi day dt, xót xa cho nhng kiếp "hng nhan
bc mnh".
Suy nghĩ về số phận người phụ n
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện
Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm
của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là
"Truyền kỳ Mạn Lục" gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu
chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn
Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng Trương". Qua việc xây dựng hình tượng
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
11
Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất,
Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số
phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất
thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh.
thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ
với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường
nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải
phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc
hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình
luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót
chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: "Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở
về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Lời
tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng
bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ
nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn
biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra
chiến trường: "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn
lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,
khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng". Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc
khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: "Nhìn trăng soi
thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ
có cánh hồng bay bổng". Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp
nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể
hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
12
chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: "Ngày
qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín
núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã
dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy
của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi
vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ
mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng "cha Đản lại
đến" không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt
của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình
với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng
đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính
trong thời loạn lạc:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
( Trích "Chinh phụ ngâm" - Đoàn Thị Điểm)
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu
thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc
trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu rất khó
dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với
cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng "hết sức thuốc thang và lễ bái thần
phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn". Những lời nói dịu dàng, những
cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ
chồng trước khi mất: "Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không
muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời
khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
13
sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào,
không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc
trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng ph
con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ" là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công
lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời
đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong
phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót,
phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó
không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ
lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là
một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người
con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy,
yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng.
Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng
đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn,
nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về,
nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn,
nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận,
tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: "Thiếp vốn
con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn
từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư
thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một
mực nghi oan cho thiếp". Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh
phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng
Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh
phúc gia đình - nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: "Nay
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
14
đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc
tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm sa, đâu
còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa". Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn
gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải
được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: "Kẻ bạc
mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm
cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi
cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ". Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất
của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động
cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng
nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết
cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về
động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên
nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương
và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về
trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện
nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng
của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước
mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu
oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt
nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết,
thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
15
bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố
kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội
phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể
hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất
hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ
Trong kho tàng văn học trung đại có rất nhiều những tác giả đã dùng ngòi bút
của mình để viết về những mảnh đời bất hạnh. Mà tiêu biểu nhất đó là số phận
của người phụ nữ trong xã hội cũ. Được sinh ra làm người nhưng không sống
đúng giá trị của một con người. Trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến nhân vật Vũ
Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng chính
là một đại diện tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nói riêng và phụ nữ trong xã hội
cũ nói chung.
Vũ Nương là một người con gái với xuất thân bình dân và vẻ đẹp dung dị mặn
mà. Chính vì thế nàng đã được con trai hào phú trong làng để ý tới. Trương
Sinh không tiếc trăm ngàn lạng vàng đến hỏi cưới nàng về làm vợ. Thế nhưng
Trương Sinh là công tử ít học, từ bé sống trong nhung lụa nên có tính đa nghi,
gia trưởng. Từ sau khi làm dâu ý thức được thân phận nhỏ bé, gia cảnh bần hàn
của mình Vũ Nương chưa một lần dám phản kháng hay làm trái ý chồng. Cuộc
sống những tưởng êm ả thế nhưng binh biến loạn lạc, Trương Sinh phải lên
đường ra chiến trận. Ngày chia tay nàng rót chén rượu đầy cho chồng mà thưa
rằng: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về q
cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Mong muốn
của nàng chẳng phải chức tước công lao chỉ đơn giản là hai tiếng hạnh phúc
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
16
bình dị. Đó chính là niềm khát khao cháy bỏng của người vợ trong những ngày
binh chiến loạn lạc.
Vũ Nương ở lại một tay tần tảo lo lắng việc nhà, chăm sóc mẹ già lại phải cáng
đáng thêm đứa con mới lọt lòng. Thế nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ người phụ
nữ ấy oán trách nửa lời. Sau khi tiễn con trai lên đường mẹ già vì quá đau buồn
mà sinh bệnh nặng. Vũ Nương ngày đêm túc trực thăm nom, đi khắp nơi kiếm
thầy tìm thuốc chữa cho mẹ chồng, đồng thời hết lời khuyên lơi nhưng bà không
qua khỏi. Mẹ chồng vô cùng cảm động trước tình cảm của con dâu nên trước
khi nhắm mắt xuôi tay bà cầm tay nàng mà dặn dò : “Sau này, trời xét lòng lành,
ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Sau khi mẹ chồng qua đời nàng hết
lòng ma chay, tang chú lễ nghĩa cho trọn đạo dâu hiền.
Về phần con nhỏ, do quấy khóc nên hàng đêm Vũ Nương ẵm con trên tay chỉ
vào chiếc bóng mình trên tường và nói “Cha con đến kìa”. Mỗi lần như thế đứa
bé lại cười reo thích thú. Lâu dần thành quen nàng cũng chẳng còn nhớ giải
thích về “chiếc bóng” trên tường với con nữa.
Giặc tan, Trương Sinh trở về tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với nàng từ
đây thế nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chỉ vì hiểu lầm nhỏ nhặt mà đã
đẩy cuộc đời Vũ Nương vào bế tắc.
Chính chiếc bóng mình trên tường đã khiến Trương Sinh nảy sinh lòng đa nghi
đố kỵ. Không nghe vợ giải thích chỉ biết đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Vũ Nương
vì quá tủi nhục đã trẫm mình xuống sông tự vẫn kết thúc nỗi oan nghiệt thấu
trời. Nguyên nhân đẩy nàng đến cái chết không phải do sự vô tâm của chồng mà
chính là sự cay nghiệt của miệng đời.
Số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội
cũ. Luôn bị áp bức và dồn đến đường cùng. Dù họ có xinh đẹp tài hoa hay sang
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
17
hèn thì đều chung một tiếng đó là “bạc mệnh”. Như nhà thơ Nguyễn Du từng
viết:
“Đau đớn thay thân phận đàn
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Họ là những nạn nhân của chế độ cũ, của những hủ tục lạc hậu và định kiến
khắc. Sống ở đó họ chỉ tồn tại như những món đồ vô tri vô giác, mang đi đổi
chác, bán mua và hoàn toàn không có quyền lên tiếng hay thanh minh gì cho
mình. Vũ Nương chết mang theo nỗi oan thấu trời xanh thế nhưng kẻ khiến
nàng rơi vào đường cùng là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án hay dè bỉu.
Thậm chí khi nàng đã được minh oan, Trương Sinh cũng không bị cắn rứt lương
tâm, không muốn nhắc lại chuyện cũ mà coi như “nó đã qua”. Phải chăng sự
sống và cái chết của người phụ nữ trong xã hội bị coi thường đến mức rẻ rúm?
Họ không có quyền thanh minh và lại càng không được bảo vệ đến tính mạng?
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng ngậm ngùi khi nói về thân phận của người phụ
nữ trong xã hội cũ bằng những vần thơ đầy đau thương:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Thế nhưng mặc dù đã đạp lên số phận, đã khẳng định tiếng nói vị thế của mình
song hành động đó của bà chỉ như một điểm sáng vụt qua giữa bầu trời đầy đen
tối. Nó không đủ để làm nên một đại cách mạng về quyền sống và quyền làm
người của phụ nữ trong xã hội đương thời đầy rối ren và bế tắc.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
18
Vũ Nương chính là một hình ảnh đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã
hội cũ. Những con người sinh ra làm con người nhưng không được sống trọn
vẹn một kiếp người. Đó cũng là tiếng nói chống lại sự bất công, phân biệt đối
xử trong xã hội, và là tiếng lòng nhân ái đầy sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Dữ
muốn gửi gắm.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật
Nương
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kỳ mạn
lục” - một tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân
gian Việt Nam. Truyện phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội, đó là thân
phận của người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội
phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khắt khe đã chà đạp lên nhân
phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia
đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người, con gái nết
na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính
đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương
không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan
hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Mầm mống bi kịch của cuộc đời
Nương bắt đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỷ nhưng Vũ Nương luôn đảm
đang, tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm
ấm thuận hòa nên luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi
lính, Vũ Nương đã tiễn chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: “Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
19
việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn
gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp
băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Thật xúc động với tình cảm của người vợ hiền
trước lúc chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng
chăm sóc chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của
nàng vậy. Chồng đi lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một
mình gánh chịu. Rồi nàng sinh con, một mình nuôi dạy con và chăm sóc mẹ
chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vô cùng thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết
sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi vợ hư hỏng nên
chửi mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện
bạch của họ hàng làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau
đớn, tủi nhục, Vũ Nương phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.
Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã
vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội
phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ
nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết
tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong
kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống
thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi
thương đầy oan trái cho Vũ Nương. Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương
và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm phục. Khi còn sống nàng là người
vợ hiền dâu thảo, sống có nghĩa tình.
Khi chết, tuy được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy,
nhưng lúc nào nàng cũng nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người
nặng tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
20
quê hương, nhắc đến chồng con của mình. Thế nhưng, Vũ Nương vẫn còn đó
nỗi đau oan khúc, nàng muốn phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian
mặc dù Trương Sinh đã lập đàn giải oan và đã ân hận với việc làm nông nổi của
mình. Nàng không trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi - người đã
cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng còn gì để về. Đàn giải oan chỉ là
việc an ủi cho người bạc mệnh chứ không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ.
Nỗi oan khuất được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi
của nàng là thái độ phủ định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây
cũng là thái độ đấu tranh đòi công lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của người phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được
tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn cái chết mà không trở lại
trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm
của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ t
cáo xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ,
tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ.
Nỗi đau của Vũ Nương cũng là nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ
phong kiến như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ
trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội
phong kiến Việt Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao đẹp.
Bởi thế Nguyễn Dữ đã viết:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh vẫn là lời chung”
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể
xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
21
Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm
đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì
ảo, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người
phụ nữ ngày xưa. Họ thật đẹp, thật lý tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh
phúc. Tác phẩm của ông vừa đề cao giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị
của xã hội phong kiến đương thời.
Hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương
Hình tượng người phụ nữ là một hình tượng xuyên suốt trong suốt chiều dài văn
học. Từ văn học dân gian:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. (ca dao)
Cho đến văn học viết. Người đọc thường để ý đến nhưng tác phẩm thơ ca mà
quên đi bên cạnh thơ ca còn có các sáng tác bằng văn xuôi. Không chỉ có
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Chinh
phụ ngâm của Đặng Trần Côn, mà còn có Chuyện người con gái Nam Xương
của Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam
Xương nói lên một cách sâu sắc những bi kịch cùng vẻ đẹp và những khát vọng
chân chính về hạnh phúc gia đình của người phụ nữ. Vẻ đẹp con người và số
phận bi kịch của Vũ Nương có sức khái quát lớn. Đây không chỉ là câu chuyện
về số phận thương tâm của một người phụ nữ mà còn là tấm lòng yêu thương
trân trọng của tác giả dành cho những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp trong
xã hội phong kiến bấy giờ.
"Chuyện người con gái Nam Xương" có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ
chàng Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của "Truyền kì mạn lục".
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
22
Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết
hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có cơ
hội để minh oan, giãi bày, Vũ Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng
minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về
thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất. Đó là bi
kịch của rất nhiều những người phụ nữ bất hạnh khi mà hạnh phúc gia đình
chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói, mất đi chỗ
dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịch và cái chết là con đường giải thoát duy nhất
để họ kết thúc bi kịch của chính mình. Vì thế, truyện không đơn thuần dừng lại
ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, gióng lên niềm khao khát
hạnh phúc của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
Những thông tin về tên tuổi, quê quán được nêu ra ngay từ đầu tác phẩm đã tạo
cho người đọc cảm giác tin cậy, tăng độ tin cậy cho câu chuyện. Đây cũng là
một thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại. Không chỉ giới thiệu về tên
tuổi, quê quán của Vũ Nương, Nguyễn Dữ ngay từ đầu đã khẳng định nàng
một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ
thời kì phong kiến: "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Chính
đức hạnh của nàng mà Trương Sinh đã nhờ người làm mối và lấy Vũ Nương
làm vợ. Chi tiết ấy vừa làm nổi bật được đức hạnh của Vũ Nương, vừa nâng cao
phẩm hạnh sáng ngời của nàng. Bởi nàng được cưới hỏi một cách đàng hoàng tử
tế, được trân trọng không vì gia cảnh vẻ ngoài mà chính bởi phẩm chất của
nàng.
Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt
Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh
như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
Nguyễn Dữ đã dành những lời lẽ đẹp đẽ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và tấm lòng
trung trinh của người phụ nữ. Trước hết, ở nhân vật Vũ Nương ta nhận thấy,
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
23
nàng là một người vợ hết mực thương chồng, sống trọn đạo vợ chồng. Lúc còn
ở bên nhau, nàng toan lo mọi bề, tất cả đều chu toàn, cặn kẽ. Biết tính chồng
hay ghen, thế nên, trong cuộc sống vợ chồng, nàng hết mực “giữ gìn khuôn
phép, không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. Vũ Nương đã cư xử khéo léo,
đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi
bất hòa trong gia đình. Vì thế, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu
chồng, biết mình và rất đức hạnh. Nhưng với tính tình đa nghi, độc đoán, đổi
với vợ phòng ngừa quá sức của Trương Sinh tiềm ẩn những nguy cơ gây đổ vỡ
hạnh phúc gia đình, dự báo bi kịch về sau mà nhân vật sẽ gây ra cho Vũ Nương.
Cuộc sống hạnh phúc êm ấm lại không kéo dài được bao lâu. Chiến tranh xảy
ra, triều đình chiêu mộ binh lính. Trương Sinh tuy giàu có nhưng lại là kẻ thất
học nên chàng bắt buộc phải tòng quân đánh giặc. Đây có thể xem là cơ hội để
Trương Sinh lập công danh. Nhưng với Vũ Nương, công danh ấy không quan
trọng bằng sự bình yên của chồng. Lời nàng dặn chồng trước lúc chàng ra đi
khiến ta không khỏi xúc động: “Chàng đi chuyến này, thiếp cũng chẳng dám
mong được đeo ấn phong hầu, hay mặc áo gấm trở về quê, chỉ xin ngày chàng
về mang theo được hai chữ bình yên, như thế là đủ rồi”. Tấm lòng của nàng vẫn
luôn hướng về an nguy của chồng. Tấm lòng ấy không thay đổi dù là khi gia
đình ấm êm hạnh phúc hay là khi chàng Trương phải đi lính. Bởi lẽ, nhắc đến
chốn chiến trận nơi biên ải xa xôi ai cũng nghĩ đến “một chắc sa trường rằng
chữ hạnh” cũng như “cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”. Vì thế mà với Vũ Nương,
nguyện vọng duy nhất của nàng là chàng Trương được bình an. Đó là mong ước
hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống
gia đình bình yên.Tình thương chồng của nàng còn thể hiện qua sự chia sẻ trước
những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng cũng như niềm cảm
thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
Trong những năm tháng xa chồng, nàng luôn nhớ Trương Sinh tha thiết, thậm
chí nàng còn trỏ bóng mình trên tường vừa để dỗ con vừa để vơi bớt nỗi nhớ
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
24
chồng. Nỗi buồn nhớ của nàng khắc khoải triền miên, dài theo năm tháng:
“Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”.Nỗi nhớ
chồng khôn nguôi nhưng cũng chính vì thế mà nàng hết lòng giữ trọn đạo nghĩa
vợ chồng.
Ngay cả khi bị Trương Sinh nghi oan thất tiết thì tình yêu, sự thủy chung của
vẫn được thể hiện qua những lời phân trần hết sức tha thiết, mong tìm cách hàn
gắn lại hạnh phúc gia đình. Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu.
Nàng khẳng định nàng bị oan: "cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm
phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót...". Nàng nói lên
thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định một lòng nhất
mực thủy chung, son sắt với chồng.Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng "đừng
nghi oan cho thiếp". Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình
đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc
gia đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới
hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Nhưng mọi cố gắng của nàng đều đã không được đền đáp, dù phải tìm đến cái
chết để chứng minh tấm lòng của mình. Bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng
đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Tuyệt
vọng không cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông Hoàng Giang sâu
thẳm để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. Lời thề trước khi chết của nàng khiến ta
không khỏi cảm thông “thiếp nếu đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng vào
nước xin làm ngọc Mị Nương, hay xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng
lòng chim dạ cá lừa chồng dối con, thì dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin
làm cơm cho diều quạ và xin khắp mọi người đều phỉ nhổ”. Đến phút cuối cuộc
đời nàng vẫn khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt ấy… Vũ Nương thật là
người vợ giàu lòng tự trọng.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
25
Ở thủy cung nàng vẫn không hề oán hận, vẫn mong ngóng ngày về để đoàn tụ
với gia đình. Thẳm sâu trong tâm khảm của nàng vẫn là ước muốn được đoàn
viên, được quay trở về dù chỉ một lần với chồng con, với cuộc sống gia đình
hạnh phúc ngày xưa. . Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương chỉ trở về
nói lời đa tạ rồi từ biệt. Nàng không hề trách móc, oán hận Trương Sinh, điều đó
đã giúp chồng vơi bớt nỗi lòng, nỗi ân hận. Người phụ nữ nào cũng mong muốn
được hưởng cuộc sống hạnh phúc từ hơi ấm gia đình, Vũ Nương cũng không
phải trường hợp ngoại lệ, nhưng nàng không thể trở về.
Vũ Nương còn là một con dâu hiếu thuận, lễ nghĩa hết sức chu toàn và người
mẹ hiền, nàng một mình chu đáo nuôi con nhỏ. Chồng đi ra chiến trận, nàng đã
thay chồng gánh vác việc nhà, trọn đạo dâu con, tận tình chăm sóc mẹ già. Sau
đó ít lâu, nàng đã hạ sinh bé Đản.Nàng vừa một mình làm cha một mình làm
mẹ. Sợ con buồn khi thiếu vắng cha, nàng đã chỉ bóng mình trên vách để nói với
con đó là cha. Thế nhưng mọi việc đều được nàng chu tất lo lắng. Tác giả không
miêu tả trực tiếp nhưng ta có thể hiểu được Vũ Nương đã vất vả thế nào khi một
mình quán xuyến mọi việc trong gia đình. Tuy vất vả cực nhọc là thế nhưng
nàng vẫn chưa bao giờ oán than một lần. Đặc biệt, đối với mẹ chồng, nàng
không hề ghét bỏ như người ta thường nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu.
Nàng hết lòng chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng. Khi mẹ ốm, nàng cũng hết sức
lo lắng khôn khéo lựa lời khuyên lơn. Chính tấm lòng của Vũ Nương đã cảm
động mẹ chồng. Ta có thể thấy câu nói của mẹ chồng Vũ Nương dành cho nàng
“Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, rồi con cháu
đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”. Câu nói ấy
là minh chứng rõ nét và thuyết phục nhất về phẩm chất của Vũ Nương. Mẹ
chồng đã dành cho nàng những lời có cánh. Trước khi mất bà không lo lắng cho
con trai cũng không oán trách số phận mà nói lời cảm ơn đến nàng dâu của
mình. Việc đặt lời khen vào mẹ chồng đã tăng thêm tính chân thực và khách
quan cho câu chuyện. Vũ Nương không chỉ quan tâm chăm sóc mẹ chồng khi
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
26
mẹ chồng đau ốm mà khi mẹ chồng mất đi “nàng hết lời thương xót, phàm việc
ma chay tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Tấm lòng ấy của nàng
thật khiến ta cảm động. Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt
Nam, mang trong mình vẻ đẹp phẩm chất rất đáng trân trọng, ngợi ca.
Một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy
chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra
phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.Nhưng thật éo le và nghịch lí thay nàng lại
phải chịu một cuộc sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót xa,
đầy nước mắt.
Bi kịch bắt đầu từ câu nói ngây thơ của trẻ con. Thật ra để dỗ con, Vũ Nương
hay chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo rằng đó là cha của Đản. Bé
Đản ngây thơ nói với Trương Sinh. Đản cũng như chính Vũ Nương không ngờ
rằng chỉ một cái bóng ấy lại gây ra bi kịch cho gia đình nàng. Trương Sinh vốn
tính đã đa nghi nghe lời con đã vội khẳng định chắc nịch là vợ đã thất tiết. Vừa
gia trưởng đa nghi lại vừa cố chấp, Trương Sinh khước từ mọi cơ hội giải thích
của Vũ Nương. Nàng hết lòng kêu oan nhưng trương Sinh không nghe không
nói cho nàng rõ sự tình mà cứ nhất mực đánh đuổi nàng đi. Đến những người
hàng xóm bênh vực nàng cũng chẳng thể làm Trương Sinh động lòng. Nhân
phẩm trong trắng và tấm lòng trinh bạch của nàng dành cho chồng. Cũng bởi
vậy mà cuối cùng nàng đành lựa chọn cái chết để khẳng định sự trinh bạch. Bởi
lẽ với nàng khi trinh tiết đã bị nghi ngờ thì mạng sống này còn đáng giá gì. Nếu
sống nàng chỉ có thể sống trong nhục nhã ê chề. Nên chỉ đành dùng cái chết để
chứng minh. Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái
của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia
đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi
trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi đau khổ
chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
27
Tấm lòng trinh bạch của nàng đã được người đời hiểu thấu, mối oan ức nhục
nhã ấy đã được hóa giải. Những tưởng một kết thúc có hậu cho câu chuyện
nhưng Vũ Nương lại lựa chọn cách xa lánh cuộc đời không hội ngộ sống chung
cùng chàng Trương. Vũ Nương không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ
vì cái nghĩa với Linh Phi và trần thế không còn chỗ nào cho người như nàng
nương tựa. Đàn giải oan chỉ có thể khôi phục danh dự cho nàng chứ không thể
làm sống lại tình xưa. Giữa Vũ Nương và Trương Sinh, dòng sông là nơi giải
oan, nơi tái ngộ, nhưng không thể vượt qua.
Cái kết của Vũ Nương càng khiến cho người đọc day dứt và qua đó lên án tố
cáo xã hội phong kiến. Những người phụ nữ chung thủy son sắt nhưng lại
không được tôn trọng trong xã hội phụ quyền trọng nam khinh nữ. Họ là nạn
nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi.
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể
xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ.
Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm
đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.Vũ Nương chết đi mang theo nỗi
oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại
không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi
oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi
đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã
dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những
đau khổ không gì sánh được.
Người đọc cũng nhận ra không chỉ dừng lại ở đó tác phẩm còn gián tiếp lên
tiếng tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Chính chiến tranh phi nghĩa đã làm tan nát
biết bao gia đình đang hạnh phúc êm ấm. Nếu Trương Sinh không đi lính, nếu
chàng không rời xa gia đình khi Vũ Nương sinh bé Đản thì có lẽ họ vẫn là một
gia đình hạnh phúc ấm êm trọn vẹn bên nhau. Nhưng cái hạnh phúc ấy lại quá
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
28
đỗi mong manh bị định kiến xã hội bóp nát. Trương Sinh mất vợ, Bé Đản mất
mẹ còn Vũ Nương mất cả một đời. Bi kịch lại chồng chất nối tiếp bi kịch.
Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ngay trong cái lung linh kỳ ảo, sắc thái bi
đát vẫn nằm sau hình ảnh rực rỡ của truyền kì. Điều đó một lần nữa khẳng định
niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong
chế độ phong kiến. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức
hấp dẫn và những giá trị mới. Phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể
hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà
truyện cổ tích chưa có.
Với sự sáng tạo cao về khắc họa nhân vật, cách kể chuyện, xây dựng kết thúc,
kết hợp cùng việc khai thác vốn văn học dân gian và sử dụng tinh tế những yếu
tố kì ảo, Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự cảm
thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới
chế độ phong kiến. Hơn hết, truyện truyền kì trung đại này cũng đã khẳng định
nét đẹp tâm hồn của họ, cất lên tiếng nói cho bao mơ ước về một cuộc sống tốt
đẹp, công bằng mà họ hằng hi vọng.
Ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và bênh vực người phụ nữ không chỉ có Chuyện
người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ mà nhiều nhà văn, nhà thơ khác
cũng đã đồng thời lên tiếng. Với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ngợi ca,
trân trọng nhan sắc, tài năng, phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều như là những
chuẩn mực, hình mẫu lí tưởng cho vẻ đẹp của con người mọi thời đại (Chị em
Thúy Kiều). Nơi lầu xanh, tác giả đã khắc họa nỗi nhớ của Thúy Kiều đi liền
với tình thương – một biểu hiện rất đáng trân trọng của đức hi sinh, lòng vị tha,
chung thủy (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Thiên tài Nguyễn Du cũng không quên
gây ấn tượng cho người đọc với hình ảnh Thúy Kiều sống sâu nặng ân tình, sắc
sảo, kiên quyết nhưng vẫn đầy khoan dung, độ lượng (Kiền hảo ân báo oán).
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
29
Bếp lửa của Bằng Việt lại xây dựng đầy cảm động hình ảnh người bà với tấm
lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút, thái độ bình tĩnh, vững lòng.
Người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu vượt qua mọi thử
thách khốc liệt của chiến tranh.
Người phụ nữ đi qua chiến tranh được khắc họa trong Những ngôi sao xa xôi lại
càng đẹp hơn trong hình ảnh các cô thanh niên xung phong sống có tinh thần
trách nhiệm cao, quyết tâm hoàn thành tốt mọi công việc được giao; anh dũng
không sợ gian khổ, hi sinh; luôn trẻ trung, yêu đời; sống chan hòa, yêu thương
nhau và luôn tin tưởng, lạc quan về thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Có lẽ vì
vậy là không thể bỏ qua Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê trong những
tác phẩm ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Những tác phẩm trên đã
giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm,
cũng như thấm thía hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong từng nhân vật.
Với nội dung sâu sắc ấy, Chuyện người con gái Nam Xương đã đi vào quỹ đạo
nhân văn chung của văn học dân tộc, tạo được sự cộng hưởng với nhiều tác
phẩm viết về người phụ nữ cũng như kết nối bền chặt cùng tâm hồn người đọc
bao thế hệ. Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn để lại cho người đọc nhiều suy
nghĩ. Có lẽ tất cả chúng ta đều tiếc nuối đau xót cho Vũ Nương người con gái
với tấm lòng trinh bạch nhưng lại bất lực trước xã hội đầy định kiến. Chuyện
người con gái Nam Xương đã để lại nhiều nghĩ suy, day dứt, đầy thương cảm
cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Suy nghĩ về thân phận người ph n hay nht
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 1
Tác phm "Truyn k mn lc" ca Nguyn D mang đến cho chúng ta mt cái
nhìn cảm thông thương cảm cho s phn ca nhng kiếp người nh nhoi,
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
30
kém may mn t cáo nhng bt công ca hi lúc by gi. "Chuyện người
con gái Năm Xương" trích trong tác phm ấy đã khiến lòng ta không khi bun
thương và nghẹn ngào v s kiếp, thân phn ni trôi ca những người ph n
xưa qua nhân vật Vũ Nương.
Nương là một người con gái xinh đẹp, tuy gia đình khốn khó nhưng lại
phm hạnh, nàng được người đời ca ngi với "tư dung tốt đp" li thêm tính
cách nết na, thùy m hơn người. Nương được Trương Sinh - con mt nhà
giàu có, quyn quý trng hỏi cưới, hn mến m nàng ly nàng làm v.
Hai người thành v thành chồng không trên s tình yêu, mc vy thì trên
danh phn một ngưi v, nàng vn luôn c gi cho gia đình được hnh phúc êm
m. Biết tính chng nóng ny lại hay ghen tuông, Vũ Nương luôn gi mình mc
thước, chưa bao giờ khiến Trương Sinh phải phiền lòng, đau khổ.
Ngày chàng Trương phải xa nhà đi lính, Nương bun khi phi chia xa
chng, lo lắng cho đa con còn nh di phi xa b, m thì đã gyếu đi nhiu.
Là ph n, ai chẳng khát khao được hnh phúc vui vy bên chồng con, nhưng vì
hoàn cảnh, vì đất nước, nàng thun lòng ng h chng ra chiến trn, không tham
lam giàu sang, quan c, nàng ch khóc nghn mong chồng mình được an
yên tr về: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo đưc n phong
hu, mc áo gm tr v quê cũ, chỉ xin ngày v mang theo được hai ch bình
yên, thế đủ ri. Ch e vic quân khó liu, thế giặc khôn lường. Gic cung
còn ln lút, quân triu còn gian lao, ri thế ch tre chưa có, mùa dưa chín
quá kì, khiến cho tin thiếp băn khoăn, mẹ hin lo lng".
Nhng ngày chng nơi biên ải xa xôi, Vũ Nương ân cần chăm sóc mẹ già, con
nh. Mt tay nàng gánh vác chuyện ngược xuôi, chuyn ln nh trong gia đình
đều được sp xếp vn tròn. Con nh b nàng an i con bng chiếc bóng mình in
trên tường qua ngọn đèn dầu mi ti, m già nh con nàng la li ngt nh
khuyên lơn. Ngày mẹ mất nàng đau kh b nhưng vẫn gác li niềm đau
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
31
lo lo toan mi th, tế l ma chay m được nàng làm vô cùng chu đáo. Vũ Nương
xứng đáng là một người m hin, một người con hiếu thảo mà xóm làng ai cũng
ngi khen. Một người ph n đức hạnh như vậy đáng ra phải được hnh phúc
ấm êm, được yêu thương chở che t bàn tay, b vai ca chồng mình. Nhưng
đáng bun thay, thân phn nàng li cùng nghiệt ngã. Ngày Trương Sinh trở
v, sau khi viếng thăm m m, hn cùng con trò chuyn, hi han. Chmt li
nói ngây thơ ca con tr v ngưi cha trên chiếc bóng mà m ch hằng đêm, cơn
ghen tuông ca k độc đoán kia trỗi dy. Hn nghi ng s không chung thủy nơi
Vũ Nương, còn điều gì tht vọng hơn khi chính người đầu p tay k li nghi ng
lòng trong sch ca bản thân chứ?. Mc cho nhng gii thích, van xin, mc
cho nhng giọt nước mt oan c, mc cho bao hàng xóm khuyên bo, minh oan,
hn vẫn coi ý nghĩ của mình đúng. Trương Sinh đã đy chính v mình vào
con đường cui cùng ca s sng- cái chết oan nghiệt. Trương Sinh thực s đã
tr thành mt k chuyên quyn, ngu ngc và tàn nhn, mt k thiếu tình thương
yêu, hành động lương tâm. phải chăng, hắn chính đại din ca mt
hi nam quyn, mt xã hi "trng nam khinh nữ" đương thời.
Nương s phn trái ngang vi ni oan không th thanh minh, nàng b vu
cho ti tht tiết chng quyn ra sch ni oan cho mình. Sut thi gian
chồng đi lính, nàng lo lắng vun vén gia đình, giữ vẹn đạo làm v, làm con,...vy
cui cùng hnh phúc li không th gìn gi, chp nhận xa đứa con thơ mang
nặng đẻ đau, xa những người thân rut tht, chn cái chết để chng minh cho
tm lòng mình, gi ly danh d cho gia đình. Cuộc đời ngn ngi của người ph
n ấy chưa một ln sng vì mình, vẫn luôn vì người khác, vy mà hai tiếng hnh
phúc vn mãi xa vi tm tay ca nàng.
Nương như chính thân phn ca bao kiếp người ph n xưa bị đọa đày, bị
vùi dp. H phi sng và chu bao kh đau, bao bi kch xy ra và cái chết là mt
bi kịch đầy đớn đau mà họ phi la chọn. Người ph n xưa họ có nhan sc,
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
32
tài năng, cốt cách mt tấm lòng yêu thương, họ xứng đáng được hnh
phúc, được thương yêu, nâng niu và đưc trân trọng, nhưng hi di trá, bt
công đã khiến cuc đời h nghiệt ngã đến cùng. Nỗi đau Nương đã
trải qua cũng như bao nỗi đau mà nàng Kiều, Tiểu Thanh trong thơ Nguyn Du,
ngưi chinh ph trong thơ Đng Trần Côn bao người khác phi gánh chu,
trải bao phen đoạn trường. Nghĩ về h, ta mi thy thấm thía hơn nhng vần thơ
mà Nguyn Du tng viết v kiếp đàn bà xưa kia:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Li rng bc mnh cũng là lời chung"
"Chuyện người con gái Nam Xương" đã khc ho Nương trở thành mt
nhân vật điển hình cho những người ph n xưa, họ đẹp và v tâm hn và phm
cách, h hoàn m c v tài năng trí tuệ nhưng họ li không s may mn
trong cuc sng và hôn nhân. Dù cho thời gian có trôi đi qua bao nhiêu năm na
thì áng văn của Nguyn D vn mãi khiến ta khc khoi buồn thương về mt
bài ca xót xa cho nhng kiếp "hng nhan bc mnh" trong xã hội đương thời.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 2
Viết về số phận người phụ nữ là một đề tài quen thuộc trong văn học. Đến với
văn học Việt Nam trung đại, người đọc không thể không biết đến tác phẩm
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Qua hình ảnh nhân vật
Vũ Nương, tác giả đã khắc họa chân thực thân phận của người phụ nữ trong
hội cũ.
Hình ảnh nhân vật Vũ Nương khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng: “Vũ Thị
Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư
dung tốt đẹp”. Vũ Nương chính là một đại diện cho người phụ nữ trong xã hội
phong kiến với đầy đủ những phẩm chất: công, dung, ngôn, hạnh. Tưởng rằng
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
33
xinh đẹp tài năng là thế sẽ được hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đời sau này lại
chịu nhiều bất hạnh:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Nguyễn Du)
Nàng là một người vợ biết giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng bao giờ phải
thất hòa. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn
ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong
được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với
vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên”.
Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành
cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu với hiểm nguy, chết chóc.
Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất.
Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc m
chồng nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng
ốm đau vì nhớ con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng
“hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh
ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương con và mong muốn con có một gia đình
đầy đủ. Vũ Nương đã nói dối con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha
Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại ấy, sau này lại đem đến lại bi kịch cho
cuộc đời nàng.
Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ
được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe
tin mẹ mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy
khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
34
Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không
như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã khiến chàng
nghi ngờ vợ là thất tiết. “Cái bóng” trở thành người cha để an ủi con trẻ, nhưng
lại trở thành lý do dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Khi trở về, Trương Sinh liền
mắng vợ một bữa cho hả giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn
hết lời giải thích cho chồng hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn
thua. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong
sạch của mình. Xót xa thay cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, chẳng thể
minh oan cho sự trong sạch của bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái
chết để hết tội. Cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn đầy những
bất công. Không thể tự mình quyết định tình yêu, hôn nhân và cả cuộc đời. Họ
phải cam chịu, nhẫn nhục mà không thể phản kháng lại cái xã hội phong kiến
ấy:
“Thân em như con hạc đầu đình
Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay”
Nhưng, câu chuyện mang tính nhân văn ở chỗ, tác giả đã xây dựng một kết thúc
có hậu cho câu chuyện. Vũ Nương nhảy xuống sông, nhưng được chư tiên trong
thủy cung thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang
- một người vốn sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ
Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu
còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng
chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương Sinh sau khi biết mình đã đổ oan cho
vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện dưới thủy cung gặp được
Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về trong
làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Một kết thúc không có thật
ngoài cuộc sống. Đó giống như là một giấc mơ của nhân dân ta rằng những
người tốt rồi sẽ có được hạnh phúc. Nhưng cũng chỉ dừng lại ở ước mơ mà thôi,
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
35
khi Vũ Nương không thể trở về cuộc sống trần thế, chỉ có thể tiếp tục cuộc sống
ở thủy cung.
Qua phân tích trên, người đọc dường như hiểu hơn về thân phận người phụ nữ
trong xã hội xưa. Nhờ đó, chúng ta biết trân trọng và yêu thương họ nhiều hơn.
Quả là một tác phẩm phẩm văn học luôn có sức lan tỏa và lay động mạnh mẽ
đến tâm hồn con người.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 3
“Chuyện người con gái Nam Xương” chính là một câu chuyện hay và hấp dẫn
của tác giả Nguyễn Dữ. Chính việc thông qua cuộc đời và số phận đầy bi kịch
và cũng thật đầy những khổ đau, gian truân của nhân vật Vũ Nương tác giả đã
phơi bày bộ mặt xấu xa, cũng như thật là bất nhân của xã hội phong kiến đương
thời đã chà đạp lên số phận người dân lao động, đặc biệt là thân phận những
người phụ nữ.
Vũ Thị Thiết hay chính là Vũ Nương, là người con gái quê ở Nam Xương. Vũ
Nương xuất thân trong gia cảnh thật nghèo khó nhưng lại đẹp người và đẹp nết,
trong vùng thật khó ai có thể so sánh. Nàng được gả cho Trương Sinh, gia tư
khá giả lại có tính hay đa nghi, đã vậy lại luôn luôn có tính đề phòng quá mức
khi chồng đi lính. Thế rồi ở nhà Vũ Nương ở nhà thay chồng tận tình phụng
dưỡng mẹ già, chăm lo con nhỏ. Khi thiên hạ thái bình thì Trương Sinh trở về,
đau buồn vì nghe tin mẹ mất đã vậy lại tin lời nói ngây thơ của con trẻ. Thế rồi
nhân vật Trương Sinh cho rằng vợ mình đã thất tiết nên đã có những hành động
sỉ nhục, lăng mạ, đồng thời cũng đã đánh đập Vũ Nương tàn tệ khiến nàng phải
tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang. Nhờ Phan Lang mà Trương Sinh hiểu ra
sự tình nhưng cũng đã quá muộn, Vũ Nương vĩnh viễn không trở về.
Nguyễn Dữ cũng đã tỏ ra quan tâm đến những con người bình dân vốn rất nhỏ
bé trong xã hội phong kiến. Ta nhận thấy được trước và sau ông, không ai có
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
36
tấm lòng bao dung đến vậy. Người đọc cũng có thể dễ dàng nhận thấy được
chính nhân vật Vũ Nương là hội tụ vẻ đẹp của một con người lý tưởng. Ở Vũ
Nương thì nàng lại có đầy đủ vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người phụ nữ
Việt Nam. Đầu tiên đó chính là việc Vũ Nương là một người con gái có ngoại
hình xinh đẹp, lại thêm tính cách cao quý. Thực sự thì chính vẻ đẹp ấy được
Nguyễn Dữ giới thiệu ngày từ đầu thiên truyện đó chính là những câu văn “Vũ
Thị Thiết… tính đã nết na thùy mị, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Quả thật chính với
sự kết hợp toàn vẹn giữa vẻ đẹp hình dung và vẻ đẹp tâm hồn khiến cho người
con gái tên Vũ Nương trở thành mẫu người lý tưởng của xã hội phong kiến
đương thời.
Chưa hết, khi về làm vợ Trương Sinh, người đọc như một lần nữa lại thấy được
ở Vũ Nương thì chính những phẩm chất tốt đẹp ấy có dịp để thể hiện, phô bày
nàng rất hiếu thảo với bên chồng, yêu mẹ chồng và con hết mực, sống thật chí
tình chí nghĩa khiến hàng xóm ai cũng mến yêu.
Thế rồi ta như nhận thấy được cũng chính tấn bi kịch đời nàng xảy ra từ lúc mới
bước chân về làm vợ Trương Sinh. mặc cho dù nàng chẳng làm điều chi trái ý.
Nhưng đối với vợ, lúc này đây thì nhân vật Trương Sinh lúc nào cũng tỏ ra đề
phòng quá mức. Có thể nhận thấy được chính sự đề phòng của trương Sinh
khẳng định chàng chưa từng tin vào đức hạnh của vợ. Và đó chính là một điều
sỉ nhục đầu tiên đối với phẩm hạnh của Vũ Nương. Tuy nhiên, có thể nhận thấy
được ở nàng Vũ Nương lại luôn biết giữ phận, nàng đã làm việc chu đáo, giữ
được hòa khí vợ chồng. Thực sự cuộc sống có vẻ bình yên nhưng có lẽ đối với
nàng có chút căng thẳng, hạnh phúc gắng gượng lại. Thế nhưng ở những người
phụ nữ thì cũng thật khó khăn, dù như thế nào đi chăng nữa thì thân phận của
người phụ nữ trong xã hội cũ vẫn luôn bị coi rẻ.
Nhận thấy được hoàn cảnh chiến tranh gây ra cảnh ly biệt. Có thể nhận thấy
chiến tranh khắc sâu tính cách của Trương Sinh, tất cả dường như cũng lại đã
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
37
làm cho tính đa nghi của chàng có dịp bùng phát lớn. Người đọc cũng có đôi
phần hiểu được tuy không nói một lời nào nhưng có lẽ Trương Sinh không hề
tin vợ. Thế rồi ngay cả lúc ra trận, chàng không hề nói một lời từ biệt với Vũ
Nương mà cứ lẳng lặng mà đi. Có lẽ chính vì vậy cho nên khi trở về, ta n
cũng thấy được cũng chỉ cần một dấu hiệu nhỏ thôi, và đáng nói ở đây đó chính
là một dấu hiệu mơ hồ chưa chắc chắn mà Trương Sinh cũng đã khép tội cho
Vũ Nương mặc những lời giải thích của nàng. Không chịu nổi nữa, tuyệt vọng
thì nàng đến cái chết. Thực sự người đọc sẽ không thể nào mà quên được chi
tiết Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang. Chi tiết này đã khiến
cho người đời mãi mãi xót xa về tấn bi kịch đẫm đầy nước mắt của người phụ
nữ trong xã hội xưa họ tốt đẹp, họ xinh đẹp như vậy nhưng chịu nhiều oan ức.
Thông qua đây ta như thấy được đó cũng chính là tấn bi kịch cái đẹp bị chà đạp,
bị rẻ rúng và những thân phận của người lao động, đặc biệt là những người phụ
nữ họ bị vùi dập không thương tiếc. Đồng thời thông qua đây cũng chính là bản
án đanh thép tố cáo bộ mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời.
Có thể khẳng định được rằng chính hình tượng nhân vật Vũ Nương chính là
hiện thân của tấm lòng vị tha. Vũ Nương cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ
toàn tài nhưng lại bị xã hội bất công vùi dập.
Thông qua nhân vật Vũ Nương ta như thấy được ngòi bút của Nguyễn Dữ đã
hướng đến thể hiện và trân trọng, đồng thời đó cũng chính là sự ngợi ca vẻ đẹp
của người phụ nữ, họ chung thủy, đoan trang và nhân hậu. Thế rồi cũng lại bày
tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ và ước mơ về một cuộc sống tươi
đẹp cho những con người bình thường nhất mà ở họ lại có được những phẩm
chất tốt đẹp. Không dừng lại ở đó truyện như còn tố cáo mạnh mẽ chế độ phong
kiến hà khắc, cửa quyền, xã hội phong kiến mục ruỗng như thật nhẫn tâm đẩy
con người vào bước đường cùng không lối thoát.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 4
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
38
Từ thuở xa xưa, người phụ nữ được cho là những người chân yếu tay mềm, chỉ
biết phụ thuộc, chẳng làm được cái tích sự gì, bị khinh bỉ rẻ rúm, bị đàn áp dưới
chế độ nam quyền. Nhưng chính họ lại luôn là đề tài phổ biến, truyền cảm hứng
sáng tác cho các tác giả trong nền văn học trung đại Việt Nam. Và Vũ Nương -
một người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến có nhiều phẩm chất tốt đẹp
nhưng lại gặp oan nghiệt và có cuộc đời bất hạnh - đã được tác giả Nguyễn Dữ
khắc họa thành công qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ hội tụ nhiều nét đẹp truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của nàng được thể hiện trong nhiều mối quan
hệ ở từng hoàn cảnh khác nhau. Khi còn là một thiếu nữ, Vũ Nương sở hữu nét
tính cách thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp nên nàng được người người
quý mến. Sau khi được gả về nhà chàng Trương, nàng là người vợ thủy chung
son sắc, hết lòng chăm lo cho gia đình nhỏ. Biết chồng có tính đa nghi, nàng
luôn giữ gìn khuôn phép lễ nghi, không để xảy ra bất hòa. Ngày tiễn chồng lên
đường ra nơi biên ải, Vũ Nương như xé lòng dặn dò chồng đầy tình nghĩa:
"Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi”. Với lời dặn dò của nàng, ta thấy Vũ Nương không hề mong được vinh
quang hiển hách mà chỉ cầu sao cho chồng được bình an. Không chỉ vậy, nàng
còn cảm thông với những vất vả khó khăn mà sau này chồng mình sẽ phải chịu
đựng phía trường chinh.
Những năm tháng xa chồng, Vũ Nương không những nhớ thương mà còn thủy
chung chờ chồng trở về:” Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường
hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm rồi lại năm, nỗi
nhớ chồng của nàng chưa có khi nào có xu hướng giảm, cứ kéo dài theo năm
tháng:” Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể
chân trời không thể nào ngăn được.”
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
39
Trong quan hệ với mẹ chồng, Vũ Nương là một nàng dâu vô cùng ngoan ngoãn,
hiếu thảo. Mẹ chồng lâm bệnh nặng, nàng chăm sóc tận tụy chu đáo, lo thuốc
thang trị liệu, lo lễ bái thần phật, dịu dàng dùng lí lẽ ngọt ngào khuyên bảo hi
vọng bệnh tình của bà mau qua. Biết mình chẳng thể tiếp tục cõi đời, bà mẹ
chồng đã kịp thời trăng trối trước lúc lâm chung để khẳng định về nhân cách,
công lao đức độ của Vũ Nương đối với bà: "Sau này trời xét lòng lành, ban cho
phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ
con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ chồng mất, nàng một mình một thân
lo việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình. Tấm gương tần tảo nghĩa
hiếu ấy khó ai mà có được trong hoàn cảnh côi cút, vất vả như nàng.
Trong quan hệ với con, Vũ Nương là người mẹ lành đảm đang hết lòng yêu
thương con, một mình nuôi con với tất cả tình yêu nàng gom góp của mình và
của người cha đứa bé nơi chiến trường vì sợ con thiếu thốn tình cảm. Những
đêm con khóc, nàng thường dỗ dành con bằng cách chỉ vào bóng mình trên vách
tường và nói đó là cha nó.
Không những thế, Vũ Nương còn là người trọng danh dự, nhân phẩm. Điều này
được thể hiện qua tình huống khi nàng bị nghi oan, Vũ Nương hết mình tìm
cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ bằng phương pháp
phân trần, giải thích. Hình ảnh nàng trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang đã
khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng của nàng. Khi đã quy tiên, sống
yên ổn ở một thế giới khác, Vũ Nương không nguôi nhớ về nơi trần tục, về
chồng con, về quê hương đất tổ và mong được giải oan.
Như vậy, Vũ Nương quả là một người phụ nữ đẹp nết đẹp người, tháo vát đảm
đang, hiếu thảo, thủy chung, hết lòng bồi đắp hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp của
nàng như ánh hào quang tỏa sáng ngay cả khi đã về nơi chín suối. Thật đáng
trân trọng và cảm phục biết bao!
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
40
Một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp như Vũ Nương lẽ ra phải được
hưởng hạnh phúc nhưng nàng lại gặp số phận cay đắng trái ngang đầy oan
nghiệt và có cuộc đời vô cùng bất hạnh. Đầu tiên, Vũ Nương là nạn nhân của tư
tưởng phong kiến nam quyền, hôn nhân bị mua bằng tiền bạc, không tình yêu.
Mặt khác, cuộc sống hôn nhân giữa nàng và Trương Sinh có phần không bình
đẳng vì Vũ Nương là "con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Trương Sinh đã
xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm dâu. Sự cách bức giàu nghèo đã tạo
thêm cái thế cho Trương Sinh- người đàn ông gia trưởng trong một gia đình
giàu có dưới xã hội phong kiến - để hắn có thể dễ dàng chà đạp lên thân phận
Vũ Nương.
Cái thứ hai, Vũ Nương là nạn nhân của cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Gia đình đang yên ấm hạnh phúc thì phải "chia phôi vì động việc lửa binh”.
Những ngày ở nhà, Vũ Nương mòn mỏi đợi chờ chồng, ngóng trông đầy thương
nhớ như nàng vọng phu hoài cổ. Ngày sum họp lại là ngày "bình rơi trâm gãy,
sen rũ trong ao liễu tàn trước gió”. Do có tính đa nghi lại thêm lời con trẻ nói
nên bỏ ngoài tai lời vợ phân trần, bà con hàng xóm bênh vực. Đó là lí do mà
Trương Sinh luôn miệng mắng nhiếc, chửi rủa, đuổi đánh, dồn đẩy nàng đến cái
chết đầy đau thương. Thật xót xa cho nàng! Chỉ vì lời nói của con trẻ, chỉ vì anh
chồng hồ đồ ghen tuông bóng gió, độc đoán mà phải kết liễu cuộc đời.
Tóm lại, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ chính là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ trong
hội xưa và cũng là lời tố cáo về xã hội phong kiến nam quyền ngày xưa. Từ đó
cho thấy sự cảm thông cho số phận Vũ Nương của tác giả tài hoa Nguyễn Dữ.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 5
Người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được thể hiện trong văn học thời trung
đại. Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành công với bài thơ "Bánh trôi nước",
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
41
đại thi hào Nguyễn Du với kiệt tác "Truyện Kiều" và Nguyễn Dữ - học trò của
Nguyễn Bỉnh Khiêm với "Chuyện người con gái Nam Xương" – thiên thứ 16
của "Truyền kì mạn lục". Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy
tư, trăn trở cho người đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến đầy bất công.
"Chuyện người con gái Nam Xương" xoay quanh về cuộc đời và số phận bi
thảm của Vũ Nương – người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là
Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc
sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy
tuần, Vũ Nương sinh con trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho
mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình
trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời
con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương
nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Qua câu chuyện kể, ta thấy người phụ nữ
là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công. Cuộc đời của họ là một chuỗi dài
những khổ đau, bất hạnh.
Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến,
Nương đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết
nàng "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp" cho nên Trương Sinh
mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn
nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải là sự rung động của hai trái tim
cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con
nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó "cha
mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó". Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã
khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm "thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà
giàu". Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn
tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia
trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
42
Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ
vực làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm
xa cách, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình t
cũng lại là lúc tai họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của
bé Đản: "Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biết nói chứ không giống
như cha tôi trước kia...", làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng.
Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm
lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì
Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới, mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi
từ chỗ "la um lên cho hả giận", Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải
chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói "trọng nam
khinh nữ" bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người đàn ông được
quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ
chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy
chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ... Nàng không hiểu vì sao bị
đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay
cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Hạnh phúc gia đình, thú
vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không
còn "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió",
cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại
được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn
nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ
tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông
chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận
hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông
có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,
vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng
lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm
cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ".
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
43
Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận
nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc
đoán, chà đạp và ức hiếp con người.
Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan
ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự vẫn chỉ một chút động lòng mà không hề
ân hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói
cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế,
chuyện danh dự, chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi
người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận
xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia
đình, là một trong muôn vàn oan khuất của cái xã hội vùi dập thân phận con
người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất
công, quyền sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân
phận "bèo dạt mây trôi" có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào,
vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến
đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu
xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu.
Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là
nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi
gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng "sum họp
chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh". Buổi Trương Sinh ra
đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể
rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàm lệ: "Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ,
chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân
khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao,
rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài,
mẹ già triền miên lo lắng."
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
44
Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ
cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương
nhớ con mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ
trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé...
Chính chiến tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm.
Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành
nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh,
Trương Sinh không bị bắt đi lính, thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu
Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng,
chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh từ
biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình.
Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao
người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong "Bánh trôi nước", Thúy
Kiều, Đạm Tiên trong "Truyện Kiều" đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm
đến cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân
gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ
bằng tiếng kêu đầy ai oán:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Viết về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân
đạo, chà đạp lên quyền sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy
nước mắt, là sự xót xa thương cảm của tác giả trước nỗi oan khiên mà người
phụ nữ phải gánh chịu.
Qua "Chuyện người con gái Nam Xương", ta xót xa thương cảm cho người phụ
nữ bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
45
công đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại
càng thêm nâng niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh
Miện, Hải Dương dành cho những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến
đương thời.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 6
"Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ nhìn thoáng qua ngỡ là những câu chuyện
ma quái, hoang đường nhưng ngẫm kĩ đó lại là bức tranh đời sống của xã hội
thực tại. Chỉ qua truyện ngắn ’’Chuyện người con gái Nam Xương”, đặc biệt là
qua số phận của nhân vật chính trong tác phẩm - nàng Vũ Nương - ta đã phần
nào hiểu thêm về số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đẹp
đẽ, tiết hạnh nhưng phải chịu một số phận khổ đau bất hạnh khiến người đọc
vừa yêu mến, trân trọng lại vừa đồng cảm, xót thương.
Nàng Vũ Nương trong tác phẩm có một nét đẹp vẹn toàn, hài hoà giữa vẻ đẹp
ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn “vừa đẹp người vừa đẹp nết”. Và đó cũng chính là
vẻ đẹp tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam. Điều đó khiến người đọc
luôn dành cho Vũ Nương một niềm yêu mến, trân trọng lớn lao.
Là người vợ, người mẹ hay người con dâu Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận
của mình. Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi,
đối với vợ phòng ngừa quá sức.” Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không
từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà.”. Hai vợ chồng chia li Vũ Nương một
lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám
mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang
theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa
soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình,
thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng
bay bổng”. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
46
chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy
vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”
Ngay cả khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày
tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm
đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo
khuyên lơn.”, thương yêu, lo lắng chu toàn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời
thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”- Đặc
biệt, tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động: khi mất, những lời
cuối cùng của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu.
Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng
minh phẩm tiết. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự,
tiết hạnh ở người phụ nữ này.
Nhưng càng yêu quý, trân trọng những người phụ nữ như vậy bao nhiêu ta càng
xót thương cho số phận của họ bấy nhiêu. Thật là những tấm lụa đào phất phơ
giữa chợ, những trái bần trôi bị gió dập sóng dồi, những hạt mưa sa tan tác...
Xinh đẹp, tiết hạnh như vậy nhưng nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa
chọn: Trương Sinh là một kẻ vô học nhưng giàu có “xin với mẹ đem trăm lạng
vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn
cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng chẳng khác
nào một cuộc trao đổi bán mua.
Về nhà Trương Sinh, êm thấm được một thời gian rồi chiến tranh phong kiến
cũng cướp đi cái hạnh phúc gia đình nàng đã cố công gìn giữ. Không chỉ vậy,
những khuôn phép cũ xưa lỗi thời được chiến tranh tiếp tay một lần nữa hại đời
Vũ Nương. Và lần này đã dập vùi đời nàng vĩnh viễn. Quen theo nếp nghĩ, nếp
sống trưởng giả, Trương Sinh nghi ngờ cho tấm lòng sắt son của vợ, không cho
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
47
nàng thanh minh lấy nửa lời. Sự lựa chọn của Vũ Nương: trầm mình tự vẫn đã
phản ánh một thực tế: xã hội phong kiến xưa không có chỗ cho những con
người đẹp đẽ như nàng, nàng không thể thuộc chốn ấy. Nhưng như thế cũng có
nghĩa nàng phải từ giã hạnh phúc trần gian, từ bỏ gia đình, con cái...
Người đọc nhẹ lòng khi Vũ Nương được minh oan chiêu tuyết nhưng vẫn nhói
lòng bởi cái chết đã khiến nàng một đi không trở lại, để dở dang cả quãng đời
đương độ viên mãn tròn đầy nhất.
Yêu mến và xót thương, hai dòng cảm xúc không khi nào nguôi khỏi tấm lòng
người đọc đối với thân phận người phụ nữ xưa qua hình ảnh nàng Vũ Nương.
Càng yêu thương những viên ngọc bị dập vùi ấy ta càng căm phẫn trước những
thế lực phong kiến đen tối, hủ lậu chà đạp lên quyền hưởng hạnh phúc, quyền
được sống của con người. Nguyễn Dữ và bao nhà thơ, nhà văn khác hẳn đã
nhân đạo biết bao khi viết về những con người như thế, khơi dậy trong lòng
người những cảm xúc thẩm mĩ nhân đạo hướng đến cái thiện cái mỹ của cuộc
đời này... Và vì thế, ta càng trân trọng hơn hình ảnh người phụ nữ trong xã hội
xưa mà nàng Vũ Nương, nàng Kiều, ... là những hiện thân sống động.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 7
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
Những câu thơ trên là những câu thơ trong bài Bánh trôi nước của nhà thơ Hồ
Xuân Hương. Bài thơ là lời bộc bạch đầy chua xót về thân phận những người
phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là những người phụ nữ thùy mị, nết na nhưng cuộc
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
48
đời họ lại vô cùng đớn đau và đầy bi kịch. Họ không có quyền chọn lựa cuộc
sống cho mình mà phải chịu đựng sự rẻ rúng, bất công của xã hội phong kiến cổ
hủ thời xưa. Cùng đề tài với bài thơ này là hình ảnh nhân vật Vũ Nương trong
Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ. Đọc truyện, ta mới
thấu hiểu được những nỗi đau mà người phụ nữ phải chịu thực sự cùng cực đến
nhường nào.
Sự bất công đối với người phụ nữ trong xã hội cũ được thể hiện ngay từ khi
cuộc hôn nhân của Vũ Nương và Trương Sinh bắt đầu. Vũ Nương được tác giả
nhắc đến là một người phụ nữ "tính tình thùy mị, tư dung tốt đẹp". Chính vì lẽ
đó mà Trương Sinh đem lòng cảm mến nàng, xin mẹ một trăm lượng vàng để
cưới về. Ở đây, ta thấy được chỗ đứng của những gia đình có tiền, có quyền.
Chỉ cần có tiền là có thể bắt ép bất kì ai. Cuộc hôn nhân của Vũ Nương và
Trương Sinh là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, nó không xuất phát từ tình
yêu thật sự đến từ cả hai phía mà chỉ đơn thuần là một cuộc mua bán đúng
nghĩa. Ta có thể hiểu được điều này bởi trong xã hội phong kiến, con người ta
vẫn phải chịu đựng sự sắp xếp của cha mẹ "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó". Vũ
Nương ngay từ đầu đã không có quyền chọn lựa cuộc hôn nhân cũng như cuộc
sống của chính mình. Nàng chỉ như một cánh hoa thuận theo dòng nước giống
như nhân vật Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
hay như sự bấp bênh, phụ thuộc vào người khác của hình ảnh bánh trôi: "Rắn
nát mặc dầu tay kẻ nặn". Thương thay cho số phận cay đắng, tủi hờn của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến! Chuỗi bi kịch cuộc đời của nàng tiếp tục kéo
dài khi sau bao nhiêu năm đằng đẵng chờ chồng, Vũ Nương lại bị người chồng
của mình gán cho tội không chung thủy. Trương Sinh hồ đồ, độc đoán chỉ một
mực tin vào lời của con nhỏ mà vội vàng xét nét, hồ nghi người vợ chung chăn
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
49
chung gối với mình. Hành động mắng nhiếc và đuổi vợ đi của Trương Sinh cho
thấy sự hống hách, phô trương của chế độ nam quyền độc đoán. Rằng ở trong
chế độ này, nam nhân có thể làm tất cả mọi thứ, kể cả lăng mạ, xỉ nhục người
phụ nữ của mình. Họ coi số phận của người phụ nữ như một món hàng, rẻ mạt
và vô giá trị. Biết bao nhiêu sự hi sinh, bao nhiêu năm tháng tuổi xuân chờ
chồng và phụng dưỡng cha mẹ chồng như chính cha mẹ đẻ của Vũ Nương giờ
đây đã tan thành mây khói. Dù nàng đã khẩn thiết biện bạch: "Cách biệt ba năm
giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguội lòng. Đâu có mất nết hư thân
như lời chàng nói". Có chăng vì sự cô đơn nên người mẹ mới lấy cái bóng của
mình để dỗ dành con nhỏ, lại trở thành cái cớ để Trương Sinh hằn học, xúc
phạm làm nhục nàng?
Bị mắng nhiếc, đuổi ra khỏi nhà, Vũ Nương không còn cách nào khác để minh
oan cho bản thân, nàng đành chọn cách đau lòng nhất. Đó là trẫm mình xuống
dòng sông Hoàng Giang tự vẫn. Trước khi chết, nàng đã phải thề nguyền: "Kẻ
bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám", nỗi oan ức của nàng
có lẽ chỉ có đất trời mới thấu, chỉ có thần sông mới hiểu... Cái kết cho cuộc đời
của Vũ Nương cũng chính là cái kết đầy bi kịch của những người phụ nữ sống
trong thời kì phong kiến. Đâu đó ở trong tấn bi kịch của họ, ta nhìn thấy bóng
dáng của người đời hả hê, vô tình trước một xã hội phong kiến thối nát lúc bây
giờ.
Có thể nói, cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương trong Chuyện người con
gái Nam Xương đã tố cáo đanh thép tội ác của xã hội phong kiến đầy bất công,
oan trái. Vũ Nương hay chính là đại diện cho cả một bộ phận những người phụ
nữ nói chung, là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán và là nạn nhân của
chiến tranh phong kiến. Nếu có bất kì một ai đứng ra minh oan cho nàng, hay
nếu người chồng độc đoán ấy mà chịu xem xét, tìm hiểu rõ ngọn ngành thì có lẽ
Vũ Nương đã không phải chịu bi kịch đớn đau như vậy.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
50
Khép lại thiên truyện thứ 16 trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của nhà văn
Nguyễn Dữ, người đọc không khỏi khâm phục trước tài năng viết truyện tuyệt
vời của ông. Truyện không chỉ nêu lên số phận của những người phụ nữ trong
xã hội cũ mà còn cho thấy cái nhìn và tấm lòng của tác giả đối với nhân vật khi
đến cuối truyện, ông đã để cho Trương Sinh biết rằng mình đã nghi oan cho vợ
dù là muộn màng. Ông để cho Vũ Nương được Linh phi cứu và giải oan. Nhìn
lại thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ta thầm cảm ơn vì cho
đến hiện tại, người phụ nữ đã được đối xử bình đẳng, họ là những con người
"Giỏi việc nước, đảm việc nhà" và đặc biệt là không phụ thuộc vào bất cứ ai.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 8
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
"Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình
ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại
nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay,
trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng
thương: Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà
có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con gái Nam
Xương".
Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ
đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách, nhưng mỗi người lại mang một vẻ
đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.
Tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" là tiếng nói đồng cảm, trân
trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ. Toàn bộ
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
51
câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh
đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ
không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay
một mỹ nhân nơi gác tía lầu son. Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con
kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời - đó là thú vui nghi gia nghi thất.
Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng "tính cách đã thuỳ mị
nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp".
Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung
thể hiện rõ nét. Trong những ngày đoàn viên ít ỏi, dù Trương Sinh con nhà hào
phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo
léo cư xử, giữ gìn khuôn phép nên gia đình không khi nào phải thất hòa. Khi
tiễn chồng đi lính, mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú
quý mà là khao khát ngày chồng về "mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi".
Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm
sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ
chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương
vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa: “Sau
này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn,
xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Người thiếu phụ tận tụy, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với
chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh
đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con: “Cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính
tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông, Vũ
Nương là con người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
52
vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để
giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc. Tục ngữ có câu:
"Hoa thơm ai chẳng nâng niu
Người ngoan ai chẳng thương yêu mọi bề"
Hay:
"Gái có công thì chồng chẳng phụ"
Thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính
nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình
một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi
vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc đã tan, chồng về, gia đình
được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bóng đen của cơn ghen đã
làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời
ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không
tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng
thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để
kết thúc một kiếp người. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương không phải là trường hợp
cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của rất nhiều chị em phụ nữ, là kết quả
của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận
của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy, Nguyễn Dữ đã góp phần
khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy
cũng đã được thể hiện trong lời ca dao
"Thân em như hạt mưa xa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng"
Trong tác phẩm này có được sự sáng tạo tài tình chi tiết về chiếc bóng oan
nghiệt để phê phán xã hội phong kiến và nói lên số phận của người phụ nữ trong
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
53
xã hội đó thật mong manh. Cái bóng là một chi tiết nghệ thuật sáng tạo, độc
đáo, giàu ý nghĩa. Chi tiết này xuất hiện tác dụng thắt nút câu chuyện (đẩy các
mâu thuẫn đến đỉnh điểm). Cái bóng xuất hiện trong lời nói đùa của Vũ Nương
khi nói với con. Những ngày xa cách, bé Đản luôn hỏi về bố. Thương đứa con
ra đời chưa biết mặt cha, muốn tạo cho con ý niệm đầu tiên về người cha để nó
không cảm thấy thiếu vắng, luôn cảm thấy hình ảnh cha gần gũi bên mình. Vũ
Nương chỉ cái bóng mình trên vách và nói với con đó là cha Đản. Trong những
ngày tháng xa chồng, nàng luôn nghĩ về người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ
của nàng, chồng luôn ở bên cạnh, vợ chồng như hình với bóng. Vũ Nương Chỉ
vì muốn con vui, muốn bớt buồn, và giải khuây khi sống cô đơn vò võ nuôi con.
Chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống
vắng cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ từ trò chơi này làm tan nát đời nàng, không
ngờ một lời nói đùa trong thương nhớ lại trở thành sợi dây vô tình, oan nghiệt
thắt chặt cuộc đời nàng. Chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi bất hạnh, tủi
nhục. Chính vì cái bóng mà nàng đã mất chồng, Đản đã mất mẹ
Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải
được kể trước khi Trương Sinh trở về. Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa
đến như vậy. Đã ém nhẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén ra ở một vị
trí thích hợp đã gây ra bão giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn
được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh nổ bùng. Thú vui nghi
gia nghi thất, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ
Nương trong phút chốc trở nên hoàn toàn tan vỡ. Cái bóng không là một nhân
vật nhưng nó lại tham gia đắc lực vào câu chuyện, nó trở thành một chi tiết nghệ
thuật đắt giá khiến câu chuyện hấp dẫn người đọc. Chính cách thắt nút và mở
nút câu chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm
oan ức và giá trị tố cáo xã hội nam quyền đầy bất công với phụ nữ càng thêm
sâu sắc.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
54
Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao, người thiếu
phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm đến cái chết để giãi bày tấm
lòng trong trắng của mình.
Người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội
phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ trọng nam khinh nữ
vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp ngoan hiền thì họ lại càng đau khổ, lại càng
phải chịu nhiều sự chèn ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy
giờ "hồng nhan bạc phận". Đớn đau thay số phận của nàng. Nàng đã gieo mình
xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi
kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà đạp phũ phàng.
Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen
tuông ích kỷ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc
dung túng cho sự độc ác hủ bại. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư
tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình.
Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai
dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc
mệnh!
Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam
vào hình tượng Vũ Nương. Khi thì cách xử thế, khi thông qua lời nói, khi hành
động, khi thái độ, hình ảnh Vũ Nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ
chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự
trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Đó là lời nhắn nhủ.
Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số phận con người. Hãy tôn
vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương đến
hạnh phúc đôi lứa và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh
phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ
nhận đáng tiếc. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
55
phúc cho được lâu bền lại càng là một điều khó khăn hơn. Đó là tất cả ý nghĩa
mà chúng ta có thể nhận ra được từ: “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét
xã hội phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi. Thời đại phong kiến
trọng nam khinh nữ, đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị ảnh hưởng và phải
chịu đựng nhiều nhất chính là người phụ nữ. Thế nhưng, những người phụ nữ
ấy vẫn luôn xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và hết mực quan tâm đến
mọi người xung quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh của họ qua các tác phẩm
văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến
suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong
lận đận. Có lẽ vì thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang
sống hôm nay.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 9
Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt
Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người
con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương - một đại diện cho hình
ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng
lại gặp nhiều đau khổ.
Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân có “tư dung tốt đẹp”. Nàng
được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới
về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền
đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm
“con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn
giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hòa. Cuộc sum vầy chưa
được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén
rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
56
mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang
theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không
phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui.
Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền
gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối
với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua
đời bà đã nhắn nhủ : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi
tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã
chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt
lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để
nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái
bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con
nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người
luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng
khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh
về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói
của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc
vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng.
Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột
cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bản
thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với
cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ
Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn
bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở
thành “lời chung” - như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
57
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với
nữ nhi. ơ đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả
giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không
được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi
oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại
không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi
oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi
đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã
dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những
đau khổ không gì sánh được.
Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự:
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”
Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số
phận của người phụ nữ - “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ
rơi vào đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay
không họ cũng phải chấp nhận.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số
phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non”
Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người
phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
58
một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng,
những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng
thỏa hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết
để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điều kiện phát triển.
Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi
không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy.
Suy nghĩ về thân phận người phụ n- Mẫu 10
Người phụ nữ trong xã hội xưa, họ phải sống trong những lễ giáo phong kiến.
Cuộc đời của họ phải chịu nhiều khổ cực, bất hạnh. Nguyễn Du đã từng bộc lộ:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Trong những tác phẩm văn học thời viết về người phụ nữ phải kể đến “Chuyện
người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng Vũ Nương đã trở thành một
trong những hình ảnh tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ xưa.
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có
tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu
mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết
chồng là một người hay ghen, nàng luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình
hòa thuận. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con
trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết
lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng
minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh
cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan cho vợ,
Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
59
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy
được hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp ở bên ngoài mà còn mang những nét
đẹp bên trong tâm hồn. Đó là một người vợ hết mực hiểu chuyện, lễ nghĩa. Biết
chồng có tính hay nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng nàng vẫn không tủi
thân mà cố gắng sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi chồng phải đi
lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang
quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở v
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”.
Người vợ nào mà không mong muốn chồng mình được thành danh, nhưng đối
với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó chính là một khát
khao hết sức bình dị, thiết thực của người phụ nữ luôn mong muốn có được
hạnh phúc.
Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ
nhưng lại gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ
con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai,
nàng đã hết lời khuyên bảo. Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm
việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con
dâu nào được như Vũ Nương. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ
nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ
cái bóng chính là cha của mình. Sau khi đi lính trở về, tưởng rằng giờ đây cuộc
sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh.
Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm
mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha
đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông
lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến
Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở
về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc. Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
60
là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của
mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ xinh đẹp mà bạc mệnh.
Chỉ vì lời ngây thơ của con trẻ, sự đa nghi của chồng mà phải tìm đến cái chết.
Nhưng Vũ Nương không chết thật, nàng được đức Linh Phi cứu và sống ở thủy
cung. Khi gặp lại Phan Lang - một người sống cùng làng tình cờ cũng được
Linh Phi cứu thoát chết dưới thủy cung liền giãi bày nỗi oan khuất của mình.
Nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng
Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt
cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Lúc bấy giờ, Trương Sinh đã
hiểu rõ mọi chuyện, bèn lập đàn giải oan cho nàng, Vũ Nương hiện về thăm lại
hai cha con. Dường như kết thúc của câu chuyện mà tác giả xây dựng đã thể
hiện được niềm cảm thông và mong muốn về một cuộc sống hạnh phúc cho
người phụ nữ xưa.
Cuộc đời của Vũ Nương, vốn đã không được lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Mà
nàng phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy” của tư tưởng Nho giáo. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp
nhiều bất hạnh. Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh
cũng góp phần cho sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của
chồng cũng khiến nàng phải tìm đến cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khuất.
Tất cả những nguyên nhân ấy đã khiến cho cuộc đời của nàng trở nên bất hạnh
hơn hết. Trong một xã hội đầy bất công vốn “trọng nam khinh nữ”, nàng Vũ
Nương chỉ còn biết cam chịu và nhẫn nhục, nàng chẳng thể phản kháng lại cái
xã hội bất công ấy. Để rồi cuối cùng phải lựa chọn cái chết chứng minh cho sự
trong sạch của bản thân. Thông qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã tố cáo
xã hội phong kiến khắt khe, vô nhân đạo đã gây ra bao bất công cho người phụ
nữ.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
61
Tóm lại, qua nhân vật Vũ Nương, người đọc thêm hiểu hơn về thân phận người
phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Từ đó chúng ta thêm yêu thương, trân
trọng hơn họ.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua
nhân vật Vũ Nương
Nguyn D mt nhà nho sng vào thế k XVI, ni tiếng vi tập văn xuôi viết
bng ch Hán: Truyn mn lc. Trong tác phẩm này, nhà văn tập trung phn
ánh hin thc ca hi thi phong kiến Vit Nam thi by gi đy bt công,
đen tối, chiến tranh liên miên, gây đau kh cho dân lành. Đng thời ông cũng
ct lên tiếng th dài ngao ngán, đông cảm xót thương cho cuộc đời éo le, bt
hnh của người ph n trong xã hi phong kiến. Tiêu biu là tác phẩm “Chuyện
người con gái Nam Xương” vi nhân vật Vũ Nương, một người ph na nết na,
hiền lành, đức hạnh nhưng cuộc đời li chu nhiu oan khuất, đắng cay, ti nhc.
Trong kit tác Truyn Kiu, thi hào Nguyễn Du cũng đã từng kêu lên:
Đau đớn thay phận đàn bà
Li rng bc mnh cũng là lời chung.
(Truyn Kiu Nguyn Du)
Sng trong hi phong kiến ngày xưa, cuộc đời người ph n thời long đong,
lận đận, gp nhiu cnh ng đắng cay. Cho nên không biết bao nhiêu nhà thơ đã
ct lên tiếng th dài ngao ngán đng cảm xót thương cho cuộc đời éo le, bt
hnh của người ph n trong xã hội cũ. Với Chuyện người con gái Nam Xương,
Nguyn D, một nhà văn tài hoa, mang trong mình trái tim nhân đo bao la
rng lớn cũng đã góp một tiếng nói bênh vực người ph n.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
62
Câu chuyn xoay quanh cuộc đi kh đau số phn bi thm ca nhân vật
Nương. Nương một người ph n nết na, hiền lành, đc hạnh nhưng cuộc
đời li chu nhiu oan khuất, đắng cay, ti nhc.
Nương là người con gái đức hnh, thy chung vi chng, tn ty vi con và
hiếu thun vi cha mẹ. Đức hnh ca nàng không những được hàng xóm ghi
nhn mà còn khiến cho thn linh phi cảm động.
Trương Sinh mến dung hnh, vy nên không tiếc bc tin, xin vi m đem
trăm lạng vàng cưới nàng v làm v. Biết chồng “có tính đa nghi, đối vi v
phòng nga quá sức” nên “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc
nào v chng phải đến bất hòa”.
Khi chiến tranh xảy ra, Trương Sinh dù là con một nhưng vẫn b bắt đi lính. Khi
tin chng, nàng ân cn dn chng. Nàng không mong chồng “đeo được n
phong hu, áo gm tr v quê cũ” cho cha m r ràng, bản thân mình thì được
sng trong cnh giàu sang, phú quý ch mong ngày v “mang theo được hai
ch bình yên” đ v chng sớm được sum vầy, vui ng hnh phúc. Li dn
dò chân thành, tha thiết th hin tấm lòng yêu thương chồng của Vũ Nương. Đối
vi nàng, mng sng ca chng mới quan trong còn như chuyn công danh
phú quý nàng đâu màng nghĩ tới.
Ri trong nhng ngày chồng đi vng, nàng luôn sng trong nỗi đơn, mòn
mỏi đi chờ, ngày đêm thương nhớ chồng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn
mây che kín núi thì ni bun góc b chân tri không th nào ngăn được”, lòng
xót xa qun thắt, “thn thức tâm tình thương người đất thú” phải vt v nơi biên
i xa xôi. Chiến tranh dai dng trin miên, du nàng nh thương, thư tín
ngàn hàng thì cũng không dễ gì đến được tay chàng.
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
63
Khi chồng ra đi, nàng nhà làm tròn bn phn v hin dâu tho, sm ti phng
ng m chng, mt mình nuôi dạy con thơ đúng như lời Đặng trần Côn đã
tng miêu t trong “Chinh phụ ngâm khúc”:
“Ngt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm ph thân”
Gánh nặng gia đình đè lên vai nhỏ bé. Dù trăm bề vt v nhưng nàng không một
li than vãn. M chng ốm đau bệnh hoạn nàng “hết sc thuc thang, l bái thn
pht ly li ngọt ngào, khuôn khéo khuyên lơn”. Đến khi người mất “phàm
vic ma chay tế l, lo liệu như đi vi cha m đẻ của mình”. Chính m chng
nàng lúc sinh thời cũng ghi nhn tấm lòng thơm thảo hiếu kính y bo rng:
“Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đc, giống dòng tươi tt, con cháu
đông đàn, xanh kia quyết chng ph con cũng như con đã chẳng ph m”.
Là người ph n nết na đức hạnh, đảm đang, tháo vát, thương chồng thương con,
thy chung son st khiến cho người ta phải đem lòng kính phục. Thế nhưng tiếc
thay người con gái nết na, hiền lành, đc hnh ấy không được hưởng mt cuc
sống êm đềm, hnh phúc mà phi gánh ly s phn bi thm:
Khi Trương Sinh tr v, v chồng chưa vui câu sum họp, hưởng trn ái ân cho
nhng ngày tháng xa cách thì bỗng đâu tai ha bt ng p ti. Ch mt
phút nông ni, h đồ, tin li tr con, chưa tra rõ thực hư mà Trương Sinh đã một
mc nghi ng, vu oan cho v mình nhà tht tiết khiến cho hạnh phúc gia đình
tan v.
Lời nói vu của bé Đn làm dy lên ni hoài nghi của trương Sinh bấy lâu:
“trước đây thường có mt người đàn ông, đêm nào cũng đến, m Đản đi cũng đi,
m Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao gi bế Đn cả” đã làm máu ghen
tuông trong lòng chàng lin bc phát, bản tính đa nghi h đồ. Trương Sinh
chẳng thèm nghĩ đến chuyn hi han v cho tường tn mi l c “đinh ninh
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
64
v hư”, coi thường đạo nghĩa vợ chng, n sinh lòng phn trắc, dan díu tư
tình với người khác trong những ngày mình đi vắng.
Vy nên vừa “về đến nhà, chàng đã la um lên cho h giận”. Chỉ thương cho
Nương bỗng dưng phải chu hàm oan, b chồng coi thường khinh r. Mun níu
gi hạnh phúc gia đình đ cho chng hiu lòng mình, nàng hết li phân
trn, bin bạch: nào “cách biệt ba năm, gi gìn mt tiết”, chàng biền biệt nơi
biên i xa xôi, nàng nhà làm tròn bn phn v hin dâu thảo. Chàng đi rồi
nàng đâu thiết đến việc “điểm phấn son” làm đp bn thân mình; nhng
“nơi liễu ngõ tường hoa” ong bướm trai gái dập dìu, cũng “chưa từng bén gót”.
Sut ngày ch thui thi trong nhà gi gìn tiết hạnh thì làm sao “có chuyện mt
nết hư thân như chàng đã nói”.
Li l phân trn rt mực đoan chính, hợp tình hp lí. Li thêm mọi người
xung quanh chng giám. Ch tiếc rằng Trương sinh vì quá đa nghi, nông ni, h
đồ ích k nên không thấu được ni oan tình ca vợ. Trương Sinh đã tàn nhẫn
mng nhiếc, đánh đập, xua đui nàng ra khi nhà không h nghĩ đến nghĩa
v chồng. Nghĩ rằng hạnh phúc gia đình đã tan v, không th nào cứu vãn được
na nên nàng ch biết ngm ngùi chua xót than th, tiếc cho mối lương duyên
gi đây như “bình rơi, trâm gãy, mưa tạnh, mưa tan, sen trong ao, liu tàn
trước gió,… đâu còn có thể li lên núi vng phu kia na”.
Rồi trong cơn đau đớn, tuyt vọng, Nương quyết định trầm mình nơi bến
sông Hoàng giang, quyết dùng cái chết để ra sch ni oan tình, chng t lòng
d ngay thẳng. Trước khi chết nàng nga mt lên tri than rằng: “Kẻ bc
mnh này duyên phn hm hiu, chng con ry b, điều đâu bay buc, tiếng chu
nhuốc nhơ, thần sông linh, xin ngài chng giám. Thiếp nếu đoan trang gi
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngc M Nương, xuống đất xin làm
c Ngu mĩ. Nhược bng lòng chim d cá, la chng dối con, dưới xin làm mi
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
65
cho tôm, trên xin làm cơm cho diều qu, xin chu khp mọi người ph
nh”.
Qu là li l bi ai thng thiết, đau đớn như đứt tng khúc rut khiến ta đọc xong
cũng cảm thấy xót xa thương cảm cho người con gái nết na đc hnh không
được hưởng cuc sng bình yên hnh phúc. Suốt đi nàng phi chu ni hàm
oan, tiếng nhơ không rửa, hnh phúc tui xuân phút chc b chôn vùi, tm thân
ngà ngc phải chìm sâu nơi biển c. Than ôi, cái giá của ba năm thủ tiết ch
chng, vt v phụng dưỡng m già nuôi dạy con thơ, sống đơn mòn mỏi đợi
ch chính người b người chồng đu p tay gi ln tiếng vu oan, đánh đp,
đuổi xua, đẩy mình đến bước đường cùng, phải tìm đến cái chết oan nghit.
sau này, Trương sinh hiu ra s tình, Nương đưc tr v trn gian.
Nhưng nàng tr v để nói oan tình t biệt vĩnh viễn chn dương gian.
Cái dương gian lnh lẽo tình người ấy đã không còn ch để người tốn đp
thẳng ngay như nàng dung thân na ri.Qu thật cay đắng, ti nhục cũng
tht bt công biết bao nhiêu!
Cuộc đi s phn thm khc của Nương đã khiến cho bao người cm
động. Vua Thánh Tông lúc đi ngang qua miếu th thị, nh li chuyn
xưa, xót thương người bc mệnh mà khéo trách Trương Sinh rằng:
“Nghi ngút đầu ghnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu v chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe tr
Cung nước chi cho lụy đến nàng
Chng qu đã đôi vầng nht nguyt
Gii oan chng l mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.”
Văn mẫu lp 9: Suy nghĩ về thân phận người ph n trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
66
(Li viếng Vũ th)
th nói, cuộc đời s phn bi thm của nàng Nương cũng là cuộc đời
s phn bi thm ca biết bao người ph n trong hi phong kiến đương
thi. Mt hi trng nam khinh n đầy ry bt công thi nát. Trong hi y
ngưi ph n càng tài sc, nết na đc hnh thì càng phi chu nhiu kh đau oan
trái, b oan không th nói li phân trn gii oan. S phn ca h hoàn toàn
do người khác định đoạt.
Khi người chồng đã lớn tiếng phán xét h là người đàn thất tiết, h ch ba
la chn. Hoc là ri b x s đi xa, suốt đời mang tiếng nhuốc nhơ. Hoặc
nương nhờ nơi chốn t bi, sống cho qua ngày đoạn tháng (Th Kính). Hoc
dùng cái chết ca mình chng minh tm lòng trong sch thủy chung (
Nương). Con đường nào cũng đưa người ph n ti cảnh đoạn trường, đau khổ.
Sng trong xã hội đó quyền sng, quyn hnh phúc của người ph n b chà đạp,
vùi dập không thương tiếc.
Qua Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyn D đã mạnh m t cáo nhng
h tc hi kht khe nói lên s phn bt hnh, bi thm của người ph n
trong xã hi phong kiến đương thời đồng thi th hin s trân trng của ông đi
vi nhng phm cht cao đẹp ca h.
| 1/66

Preview text:

Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Dàn ý suy nghĩ về thân phận người phụ nữ
Dàn ý chi tiết số 1 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ đẹp,
số phận bi kịch của Vũ Nương. 2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ
chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm
nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông. 1
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ
thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp
nàng đã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng
nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây
được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng
nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh
nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại
nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm. 3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.
Dàn ý chi tiết số 2 I. Mở bài
● Đề tài người phụ nữ trong văn học nói chung, trong văn học trung đại nói riêng.
● Giới thiệu nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái
Nam Xương” và tính chất tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ dưới chế độ cũ. 2
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương II. Thân bài
1. Vũ Nương - người phụ nữ có tâm hồn cao đẹp nhưng số phận đau khổ
- Vũ Nương là người phụ nữ đẹp:
● Tư dung tốt đẹp - người con gái bình dân.
● Là người con hiếu thảo, người mẹ thương con, người vợ chung thuỷ.
● Là người có lòng tự trọng.
- Vũ Nương lại là người phải gánh chịu nhiều khổ đau:
● Một mình nuôi con, lo lắng thuốc thang, chôn cất mẹ chồng.
● Bị Trương Sinh đối xử phũ phàng: nghi ngờ, không cho nàng biết nguyên
do, mắng nhiếc thậm tệ khiến nàng phải tìm đến cái chết.
● Muốn quay trở lại cuộc sống trần gian nhưng không thể được.
2. Suy nghĩ về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến
● Con người không làm chủ được vận mệnh của mình.
● Xã hội phong kiến với những luật lệ khắt khe, vô nhân đạo gây ra bao bất
công cho người phụ nữ; chế độ đa thê gây bao cảnh oan trái đau lòng.
● Người phụ nữ buộc phải cam chịu, nhẫn nhục nên những bất công đó có điều kiện phát triển.
● Cảm thông và hiểu rõ điều tốt đẹp trong phẩm chất của họ. III. Kết bài
● Cảm nhận về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương nói riêng, cũng như thân
phận của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
● Hiểu về thời đã qua để thêm yêu hiện tại.
Dàn ý chi tiết số 3 3
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương 1. Mở bài:
● Từ xa xưa, người phụ nữ đã trở thành một đề tài quen thuộc trong các tác
phẩm văn chương, trong ca dao, trong những truyện dân gian.
● Đến văn học trung đại: hình ảnh người phụ nữ đã được thể hiện cụ thể,
sâu sắc hơn. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái
Nam Xương" của Nguyễn Dữ là nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và
số phận đầy đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. 2. Thân bài:
a. Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời lại đầy
đau khổ, bất hạnh:
● Là một người phụ nữ đẹp: vẻ đẹp hình thức (tư dung tốt đẹp); vẻ đẹp
nhân cách (yêu thương và thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng,
thương con, hết lòng chăm lo hạnh phúc gia đình).
● Phải chịu những đau khổ, bất công, ngang trái: bị chồng nghi oan mà
không nghe nàng thanh minh, giãi bày; bị mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi đi,
đau khổ tột cùng, nàng phải tìm đến cái chết.
● Không tự bảo vệ được hạnh phúc của mình.
b. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
● Sống cam chịu, nhẫn nhục...(sự cam chịu, nhẫn nhục càng làm cho những
bất công, ngang trái đè nặng lên cuộc đời, số phận của họ).
● Không thể quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình (Vũ Nương,
người phụ nữ trong "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương, Thúy Kiều
trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du...)
● Hiểu nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho họ (chế độ đa thê, tư tưởng
trọng nam khinh nữ, chiến tranh...đã gây ra những bất hạnh, oan trái...cho 4
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, trong "Chinh phụ ngâm" của Đoàn Thị Điểm...).
● Cảm thương cho số phận đau khổ, bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. 3. Kết bài
● Qua cuộc đời, số phận đầy đau khổ của Vũ Nương, người đọc càng hiểu
hơn những bất hạnh, oan trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội phong kiến.
● Liên hệ với hiện tại: người phụ nữ ngày càng được bình đẳng, được tôn
trọng...từ đó, thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống hiện tại.
● Mơ ước về tương lai: Người phụ nữ không còn phải chịu những bất công, đau khổ…
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Trong văn chương từ cổ chí kim, có biết bao sáng tác đã viết về thân phận người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bằng ngòi bút tài hoa và tấm lòng nhân đạo,
Nguyễn Dữ đã tạc vào kho tàng văn học Việt Nam hình ảnh nàng Vũ Nương -
đại diện cho số phận hồng nhan bạc mệnh của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ.
Nguyễn Dữ được biết đến là người học trò tài giỏi của Tuyết Giang Phu Tử
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng, kiến thức
uyên bác mà còn chất chứa những hoài bão nguyện vọng thầm kín về khát vọng
hạnh phúc, sự công bằng trong cuộc sống. “Chuyện người con gái Nam Xương
trích trong “Truyền kì mạn lục” là tác phẩm tiêu biểu của ông. 5
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Mở đầu tác phẩm, tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác
nhau để bộc lộ vẻ đẹp đời sống và tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ đã giới thiệu
Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm
tư dung tốt đẹp”. Chỉ bằng một câu văn ngắn, Nguyễn Dữ đã khái quát một cách
đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Ở nàng hội tụ đầy đủ cả công - dung - ngôn - hạnh.
Không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, Vũ Nương còn là một người
vợ yêu chồng, thủy chung với chồng. Nàng luôn khao khát hạnh phúc gia đình.
Dù chồng nàng đa nghi, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình chưa từng xảy ra
bất hoà bởi Vũ Nương sống rất đức hạnh. Cưới nhau chưa được bao lâu, Trương
Sinh phải ra trận. Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình
nghĩa: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi…”. Nàng vô cùng cảm thông và xót xa cho những nỗi gian lao, vất vả mà
chồng sẽ phải chịu đựng chốn xa trường. Rồi khi chồng đi xa, mỗi khi thấy
bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng không nguôi thương nhớ.
Không lâu sau đó thì nàng hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Nàng đã chỉ
cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha Đản, để con có thể cảm nhận hạnh
phúc của một mái ấm gia đình.
Với mẹ chồng, Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của người con dâu hiếu thảo.
Nàng đã tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng hết sức chăm sóc,
lễ bái thần phật. Lời trăng trối của người mẹ chồng đã cho thấy tình cảm đầm
ấm giữa mẹ chồng – nàng dâu: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không
phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo
đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống
dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con
đã chẳng phụ mẹ”. 6
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Với những người phụ nữ như vậy, ta ngỡ như họ sẽ có cuộc sống ấm êm hạnh
phúc. Nhưng “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Bi kịch của Vũ Nương
bắt đầu từ khi Trương Sinh trở về. Chàng hay tin mẹ đã qua đời, con vừa học
nói. Bé Đản ngây thơ kể về “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi
cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Lời nói ấy
khiến Trương Sinh nảy sinh ghen tuông và nghi ngờ. Vũ Nương cố gắng tìm
mọi cách để chồng hiểu cho tấm lòng thủy chung và trong sạch của mình.
Nhưng thật đáng tiếc, Trương Sinh như đẩy nàng đến bước đường cùng khiến
Vũ Nương mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã phải
chết oan ức nhưng nàng không hề oán trách, hận thù. Nghe chàng Phan kể về
gia đình, về nhà cửa, nàng vẫn nặng lòng thương nhớ chồng con, nhớ nhung quê
hương. Vũ Nương vẫn khao khát được phục hồi danh dự. Khi Trương Sinh lập
dàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương đã trở về để nói lời tạ từ. Cuộc đời
Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã cho thấy vô vàn phẩm chất tốt đẹp.
Ông bà ta cũng từng nói: "Gái có công thì chồng chẳng phụ". Ấy vậy mà Vũ
Nương lại phải hứng chịu một số phận bất hạnh. Trước hết, nàng là nạn nhân
của xã hội phong kiến với tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân biệt giàu nghèo.
Không chỉ vậy, nàng còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Xã
hội với những hủ tục phong kiến lạc hậu, hà khắc ấy cũng đã khiến nàng mang
tiếng là “thất tiết” và đẩy nàng đến đường cùng, điều đó chính là nguyên nhân
cho cái chết của Vũ Nương. Chính sự đa nghi và hồ đồ của Trương Sinh đã dồn
nàng đến bi kịch đau đớn nhất cuộc đời, hứng chịu cái chết oan nghiệt.
Số phận của Vũ Nương không phải là số phận của một con người cá biệt mà
tiêu biểu cho cuộc đời của rất nhiều người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ có đầy
đủ công – dung – ngôn – hạnh nhưng lại chịu nhiều bất công, ngang trái. Qua
nhân vật này, Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự xót thương trước số kiếp khổ đau của 7
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
người phụ nữ, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp của họ. Đồng thời, tác giả còn lên
tiếng tố cáo xã hội phong kiến hà khắc cùng chiến tranh phi nghĩa.
Làm nên thành công của tác phẩm phải kể đến nghệ thuật xây dựng cốt truyện
và tình huống truyện hấp dẫn, chi tiết thắt nút – mở nút cùng nghệ thuật khắc
họa tâm lí nhân vật, kết hợp những yếu tố hoang đường kì ảo.
“Phũ phàng chi bấy Hóa công
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"
Câu thơ ấy như văng vẳng trong từng trang văn của Nguyễn Dữ khi viết về tất
cả những tấn bi kịch của Vũ Nương. Số phận của nàng là lời cảnh tỉnh về cung
cách sống và chế độ xã hội trong thời phong kiến.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ qua Vũ Nương
Số phận của người phụ nữ thời phong kiến không phải đề tài mới nhưng vẫn
luôn khiến cho người đọc cảm thấy day dứt, thương xót cho nỗi bất công mà họ
phải chịu đựng. "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ cũng là
một tác phẩm viết về chủ đề này. Thông qua nhân vật Vũ Nương, tác giả đã
mang đến cho độc giả thêm nhiều suy nghĩ về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Vũ Nương đã được giới thiệu là người con gái
vừa xinh đẹp lại vừa có hiền thục, ngoan ngoãn: "tính đã thùy mị, nết na, lại
thêm tư dung tốt đẹp". Khi được gả vào nhà giàu, nàng luôn tuân thủ khuôn
phép, không để gia đình phải xảy ra tranh cãi, lục đục bao giờ. Chiến tranh nổ ra,
chàng Trương phải đi lính. Vũ Nương ở nhà nhất mực chung thủy chờ chồng trở
về. Nàng chẳng mong chồng mình "đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về",
chỉ cần chồng được bình an. Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng lo
lắng, ra sức chăm sóc mẹ chồng bị ốm. Khi mẹ mất, nàng lo việc ma chay chu 8
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
đáo như bố mẹ đẻ mình. Không những thế, trong thời gian xa chồng, nàng đã hạ
sinh bé Đản. Lo sợ con thiếu vắng tình cha, Vũ Nương thường trỏ tay lên cái
bóng và nói đó là cha Đản. Hành động này của nàng xuất phát từ tình cảm nhớ
thương người chồng và lo lắng cho con. Thế nhưng, đó cũng chính là khởi
nguồn cho bi kịch của Vũ Nương.
Khi Trương Sinh quay về, nghe bé Đản nói đêm nào cũng có người đàn ông đến
nên đã nghi ngờ vợ thất tiết. Trương Sinh bèn nổi giận, mắng nhiếc, đuổi đánh
Vũ Nương ra khỏi nhà. Mặc những lời thanh minh của Vũ Nương và sự khuyên
can của hàng xóm, hắn vẫn một mực tin rằng vợ mình hư hỏng. Chẳng thể làm
gì, Vũ Nương đành gieo mình xuống sông Hoàng Giang để chứng minh cho sự
trong sạch của bản thân. Đọc đến đây, ta không khỏi thấy xót xa cho nhân vật
chính. Vũ Nương đã phải chịu cảnh cô đơn, gồng gánh, chăm sóc cả gia đình
khi không có chồng ở bên. Nàng mong chồng bình an trở về để lại được hưởng
những tháng ngày ấm êm, hạnh phúc. Ấy vậy mà thứ nàng nhận lại được chỉ là
sự tuyệt tình của người chồng đầu ấp tay gối. Điều này cũng khiến ta nhớ đến
câu thơ của Nguyễn Du khi viết về số kiếp của những người phụ nữ xưa kia:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Có thể không phải là tất cả, nhưng đa số người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu
cảnh "bạc mệnh" giống như Vũ Nương. Cái chết của nàng chính là lời tố cáo
chiến tranh phi nghĩa đã khiến cho biết bao nhiêu gia đình phải lìa xa. Những
người vợ, người mẹ phải chịu cảnh "chăn đơn gối chiếc". Họ không những bị
chiến tranh xé nát hạnh phúc mà còn không thể tự quyết định cuộc đời mình.
Tất cả mọi quyền hành nằm hết trong tay người đàn ông. Họ sống một cuộc đời
mông lung, vô định, không biết tương lai bản thân ra sao. Điều này được thể
hiện rất nhiều qua những câu ca dao than thân như: 9
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
"Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu"
Hay nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng từng bộc bạch:
"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
Thật vậy, cho dù phải chịu nhiều nỗi bi kịch nhưng những người phụ nữ vẫn cố
vun vén, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Đến khi bị dồn vào đường cùng, không thể
chịu đựng được nữa, họ đành phải lựa chọn cái chết như một sự giải thoát cho
bản thân. Cái chết của Vũ Nương như một lời tố cáo đanh thép hướng đến xã
hội "nam quyền" đầy bất công. Chính tư tưởng "trọng nam khinh nữ" đã đẩy
những người phụ nữ nhỏ bé vào nhiều nỗi bi kịch, buộc họ phải chọn cái chết để
chứng minh sự trong sạch của bản thân.
Qua "Chuyện người con gái Nam Xương" Nguyễn Dữ đã thành công xây dựng
hình tượng nhân vật Vũ Nương. Nàng là điển hình cho những người phụ nữ
trong xã hội cũ. Tuy mang nhiều nét đẹp cả về ngoại hình lẫn phẩm chất, tính
cách nhưng họ lại phải chịu đựng cuộc đời đầy đau thương, mất mát. Tuy thời
đại đó đã qua đi nhưng mỗi lần đọc những tác phẩm viết về số mệnh bi kịch của
người phụ nữ, ta vẫn không khỏi day dứt, xót xa cho những kiếp "hồng nhan bạc mệnh".
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện –
Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm
của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là
"Truyền kỳ Mạn Lục" gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là
chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn
Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng Trương". Qua việc xây dựng hình tượng 10
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất,
Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số
phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất
thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì
thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ
với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường
nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải
phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc
hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình
luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót
chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: "Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở
về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Lời
tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng
bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ
nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn
biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra
chiến trường: "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn
lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,
khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng". Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc
khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: "Nhìn trăng soi
thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ
có cánh hồng bay bổng". Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp
nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể
hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa 11
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: "Ngày
qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín
núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã
dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy
của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi
vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ
mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng "cha Đản lại
đến" không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt
của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình
với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng
đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
( Trích "Chinh phụ ngâm" - Đoàn Thị Điểm)
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu
thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc
trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu rất khó
dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với
cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng "hết sức thuốc thang và lễ bái thần
phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn". Những lời nói dịu dàng, những
cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ
chồng trước khi mất: "Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không
muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời
khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong 12
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào,
không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc
trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ
con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ" là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công
lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời
đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong
phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót,
phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó
không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ
lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là
một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người
con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy,
yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng.
Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng
đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn,
nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về,
nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn,
nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận,
tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: "Thiếp vốn
con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn
từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư
thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một
mực nghi oan cho thiếp". Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh
phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng
Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh
phúc gia đình - nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: "Nay 13
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc
tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm sa, đâu
còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa". Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn
gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải
được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: "Kẻ bạc
mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm
cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi
cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ". Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất
của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động
cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng
nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và
cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về
động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên
nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương
và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về
trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện
nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng
của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước
mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu
oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt
nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết,
thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính 14
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố
kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội
phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể
hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất
hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ
Trong kho tàng văn học trung đại có rất nhiều những tác giả đã dùng ngòi bút
của mình để viết về những mảnh đời bất hạnh. Mà tiêu biểu nhất đó là số phận
của người phụ nữ trong xã hội cũ. Được sinh ra làm người nhưng không sống
đúng giá trị của một con người. Trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến nhân vật Vũ
Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng chính
là một đại diện tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nói riêng và phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Vũ Nương là một người con gái với xuất thân bình dân và vẻ đẹp dung dị mặn
mà. Chính vì thế nàng đã được con trai hào phú trong làng để ý tới. Trương
Sinh không tiếc trăm ngàn lạng vàng đến hỏi cưới nàng về làm vợ. Thế nhưng
Trương Sinh là công tử ít học, từ bé sống trong nhung lụa nên có tính đa nghi,
gia trưởng. Từ sau khi làm dâu ý thức được thân phận nhỏ bé, gia cảnh bần hàn
của mình Vũ Nương chưa một lần dám phản kháng hay làm trái ý chồng. Cuộc
sống những tưởng êm ả thế nhưng binh biến loạn lạc, Trương Sinh phải lên
đường ra chiến trận. Ngày chia tay nàng rót chén rượu đầy cho chồng mà thưa
rằng: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê
cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Mong muốn
của nàng chẳng phải chức tước công lao chỉ đơn giản là hai tiếng hạnh phúc 15
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
bình dị. Đó chính là niềm khát khao cháy bỏng của người vợ trong những ngày binh chiến loạn lạc.
Vũ Nương ở lại một tay tần tảo lo lắng việc nhà, chăm sóc mẹ già lại phải cáng
đáng thêm đứa con mới lọt lòng. Thế nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ người phụ
nữ ấy oán trách nửa lời. Sau khi tiễn con trai lên đường mẹ già vì quá đau buồn
mà sinh bệnh nặng. Vũ Nương ngày đêm túc trực thăm nom, đi khắp nơi kiếm
thầy tìm thuốc chữa cho mẹ chồng, đồng thời hết lời khuyên lơi nhưng bà không
qua khỏi. Mẹ chồng vô cùng cảm động trước tình cảm của con dâu nên trước
khi nhắm mắt xuôi tay bà cầm tay nàng mà dặn dò : “Sau này, trời xét lòng lành,
ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Sau khi mẹ chồng qua đời nàng hết
lòng ma chay, tang chú lễ nghĩa cho trọn đạo dâu hiền.
Về phần con nhỏ, do quấy khóc nên hàng đêm Vũ Nương ẵm con trên tay chỉ
vào chiếc bóng mình trên tường và nói “Cha con đến kìa”. Mỗi lần như thế đứa
bé lại cười reo thích thú. Lâu dần thành quen nàng cũng chẳng còn nhớ giải
thích về “chiếc bóng” trên tường với con nữa.
Giặc tan, Trương Sinh trở về tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với nàng từ
đây thế nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chỉ vì hiểu lầm nhỏ nhặt mà đã
đẩy cuộc đời Vũ Nương vào bế tắc.
Chính chiếc bóng mình trên tường đã khiến Trương Sinh nảy sinh lòng đa nghi
đố kỵ. Không nghe vợ giải thích chỉ biết đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Vũ Nương
vì quá tủi nhục đã trẫm mình xuống sông tự vẫn kết thúc nỗi oan nghiệt thấu
trời. Nguyên nhân đẩy nàng đến cái chết không phải do sự vô tâm của chồng mà
chính là sự cay nghiệt của miệng đời.
Số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội
cũ. Luôn bị áp bức và dồn đến đường cùng. Dù họ có xinh đẹp tài hoa hay sang 16
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
hèn thì đều chung một tiếng đó là “bạc mệnh”. Như nhà thơ Nguyễn Du từng viết:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Họ là những nạn nhân của chế độ cũ, của những hủ tục lạc hậu và định kiến hà
khắc. Sống ở đó họ chỉ tồn tại như những món đồ vô tri vô giác, mang đi đổi
chác, bán mua và hoàn toàn không có quyền lên tiếng hay thanh minh gì cho
mình. Vũ Nương chết mang theo nỗi oan thấu trời xanh thế nhưng kẻ khiến
nàng rơi vào đường cùng là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án hay dè bỉu.
Thậm chí khi nàng đã được minh oan, Trương Sinh cũng không bị cắn rứt lương
tâm, không muốn nhắc lại chuyện cũ mà coi như “nó đã qua”. Phải chăng sự
sống và cái chết của người phụ nữ trong xã hội bị coi thường đến mức rẻ rúm?
Họ không có quyền thanh minh và lại càng không được bảo vệ đến tính mạng?
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng ngậm ngùi khi nói về thân phận của người phụ
nữ trong xã hội cũ bằng những vần thơ đầy đau thương:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Thế nhưng mặc dù đã đạp lên số phận, đã khẳng định tiếng nói vị thế của mình
song hành động đó của bà chỉ như một điểm sáng vụt qua giữa bầu trời đầy đen
tối. Nó không đủ để làm nên một đại cách mạng về quyền sống và quyền làm
người của phụ nữ trong xã hội đương thời đầy rối ren và bế tắc. 17
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương chính là một hình ảnh đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã
hội cũ. Những con người sinh ra làm con người nhưng không được sống trọn
vẹn một kiếp người. Đó cũng là tiếng nói chống lại sự bất công, phân biệt đối
xử trong xã hội, và là tiếng lòng nhân ái đầy sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Dữ muốn gửi gắm.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kỳ mạn
lục” - một tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân
gian Việt Nam. Truyện phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội, đó là thân
phận của người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội
phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khắt khe đã chà đạp lên nhân
phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người, con gái nết
na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính
đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương
không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan
hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Mầm mống bi kịch của cuộc đời Vũ
Nương bắt đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỷ nhưng Vũ Nương luôn đảm
đang, tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm
ấm thuận hòa nên luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi
lính, Vũ Nương đã tiễn chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: “Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e 18
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn
gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp
băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Thật xúc động với tình cảm của người vợ hiền
trước lúc chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng
chăm sóc chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của
nàng vậy. Chồng đi lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một
mình gánh chịu. Rồi nàng sinh con, một mình nuôi dạy con và chăm sóc mẹ
chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vô cùng thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi vợ hư hỏng nên
chửi mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện
bạch của họ hàng làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau
đớn, tủi nhục, Vũ Nương phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.
Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã
vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội
phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ
nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết
tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong
kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống
thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi
thương đầy oan trái cho Vũ Nương. Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương
và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm phục. Khi còn sống nàng là người
vợ hiền dâu thảo, sống có nghĩa tình.
Khi chết, tuy được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy,
nhưng lúc nào nàng cũng nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người
nặng tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến 19
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
quê hương, nhắc đến chồng con của mình. Thế nhưng, Vũ Nương vẫn còn đó
nỗi đau oan khúc, nàng muốn phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian
mặc dù Trương Sinh đã lập đàn giải oan và đã ân hận với việc làm nông nổi của
mình. Nàng không trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi - người đã
cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng còn gì để về. Đàn giải oan chỉ là
việc an ủi cho người bạc mệnh chứ không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ.
Nỗi oan khuất được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi
của nàng là thái độ phủ định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây
cũng là thái độ đấu tranh đòi công lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của người phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được
tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn cái chết mà không trở lại
trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm
của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố
cáo xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ,
tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ.
Nỗi đau của Vũ Nương cũng là nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ
phong kiến như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ
trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội
phong kiến Việt Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao đẹp.
Bởi thế Nguyễn Dữ đã viết:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh vẫn là lời chung”
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể
xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. 20
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm
đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì
ảo, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người
phụ nữ ngày xưa. Họ thật đẹp, thật lý tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh
phúc. Tác phẩm của ông vừa đề cao giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị
của xã hội phong kiến đương thời.
Hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương
Hình tượng người phụ nữ là một hình tượng xuyên suốt trong suốt chiều dài văn
học. Từ văn học dân gian:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. (ca dao)
Cho đến văn học viết. Người đọc thường để ý đến nhưng tác phẩm thơ ca mà
quên đi bên cạnh thơ ca còn có các sáng tác bằng văn xuôi. Không chỉ có
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Chinh
phụ ngâm của Đặng Trần Côn, mà còn có Chuyện người con gái Nam Xương
của Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam
Xương nói lên một cách sâu sắc những bi kịch cùng vẻ đẹp và những khát vọng
chân chính về hạnh phúc gia đình của người phụ nữ. Vẻ đẹp con người và số
phận bi kịch của Vũ Nương có sức khái quát lớn. Đây không chỉ là câu chuyện
về số phận thương tâm của một người phụ nữ mà còn là tấm lòng yêu thương
trân trọng của tác giả dành cho những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp trong
xã hội phong kiến bấy giờ.
"Chuyện người con gái Nam Xương" có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ
chàng Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của "Truyền kì mạn lục". 21
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết
hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có cơ
hội để minh oan, giãi bày, Vũ Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng
minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về
thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất. Đó là bi
kịch của rất nhiều những người phụ nữ bất hạnh khi mà hạnh phúc gia đình
chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói, mất đi chỗ
dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịch và cái chết là con đường giải thoát duy nhất
để họ kết thúc bi kịch của chính mình. Vì thế, truyện không đơn thuần dừng lại
ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, gióng lên niềm khao khát
hạnh phúc của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
Những thông tin về tên tuổi, quê quán được nêu ra ngay từ đầu tác phẩm đã tạo
cho người đọc cảm giác tin cậy, tăng độ tin cậy cho câu chuyện. Đây cũng là
một thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại. Không chỉ giới thiệu về tên
tuổi, quê quán của Vũ Nương, Nguyễn Dữ ngay từ đầu đã khẳng định nàng là
một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ
thời kì phong kiến: "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Chính vì
đức hạnh của nàng mà Trương Sinh đã nhờ người làm mối và lấy Vũ Nương
làm vợ. Chi tiết ấy vừa làm nổi bật được đức hạnh của Vũ Nương, vừa nâng cao
phẩm hạnh sáng ngời của nàng. Bởi nàng được cưới hỏi một cách đàng hoàng tử
tế, được trân trọng không vì gia cảnh vẻ ngoài mà chính bởi phẩm chất của nàng.
Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt
Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh
như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
Nguyễn Dữ đã dành những lời lẽ đẹp đẽ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và tấm lòng
trung trinh của người phụ nữ. Trước hết, ở nhân vật Vũ Nương ta nhận thấy, 22
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
nàng là một người vợ hết mực thương chồng, sống trọn đạo vợ chồng. Lúc còn
ở bên nhau, nàng toan lo mọi bề, tất cả đều chu toàn, cặn kẽ. Biết tính chồng
hay ghen, thế nên, trong cuộc sống vợ chồng, nàng hết mực “giữ gìn khuôn
phép, không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. Vũ Nương đã cư xử khéo léo,
đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi
bất hòa trong gia đình. Vì thế, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu
chồng, biết mình và rất đức hạnh. Nhưng với tính tình đa nghi, độc đoán, đổi
với vợ phòng ngừa quá sức của Trương Sinh tiềm ẩn những nguy cơ gây đổ vỡ
hạnh phúc gia đình, dự báo bi kịch về sau mà nhân vật sẽ gây ra cho Vũ Nương.
Cuộc sống hạnh phúc êm ấm lại không kéo dài được bao lâu. Chiến tranh xảy
ra, triều đình chiêu mộ binh lính. Trương Sinh tuy giàu có nhưng lại là kẻ thất
học nên chàng bắt buộc phải tòng quân đánh giặc. Đây có thể xem là cơ hội để
Trương Sinh lập công danh. Nhưng với Vũ Nương, công danh ấy không quan
trọng bằng sự bình yên của chồng. Lời nàng dặn chồng trước lúc chàng ra đi
khiến ta không khỏi xúc động: “Chàng đi chuyến này, thiếp cũng chẳng dám
mong được đeo ấn phong hầu, hay mặc áo gấm trở về quê, chỉ xin ngày chàng
về mang theo được hai chữ bình yên, như thế là đủ rồi”. Tấm lòng của nàng vẫn
luôn hướng về an nguy của chồng. Tấm lòng ấy không thay đổi dù là khi gia
đình ấm êm hạnh phúc hay là khi chàng Trương phải đi lính. Bởi lẽ, nhắc đến
chốn chiến trận nơi biên ải xa xôi ai cũng nghĩ đến “một chắc sa trường rằng
chữ hạnh” cũng như “cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”. Vì thế mà với Vũ Nương,
nguyện vọng duy nhất của nàng là chàng Trương được bình an. Đó là mong ước
hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống
gia đình bình yên.Tình thương chồng của nàng còn thể hiện qua sự chia sẻ trước
những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng cũng như niềm cảm
thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
Trong những năm tháng xa chồng, nàng luôn nhớ Trương Sinh tha thiết, thậm
chí nàng còn trỏ bóng mình trên tường vừa để dỗ con vừa để vơi bớt nỗi nhớ 23
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
chồng. Nỗi buồn nhớ của nàng khắc khoải triền miên, dài theo năm tháng:
“Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”.Nỗi nhớ
chồng khôn nguôi nhưng cũng chính vì thế mà nàng hết lòng giữ trọn đạo nghĩa vợ chồng.
Ngay cả khi bị Trương Sinh nghi oan thất tiết thì tình yêu, sự thủy chung của
vẫn được thể hiện qua những lời phân trần hết sức tha thiết, mong tìm cách hàn
gắn lại hạnh phúc gia đình. Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu.
Nàng khẳng định nàng bị oan: "cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm
phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót...". Nàng nói lên
thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định một lòng nhất
mực thủy chung, son sắt với chồng.Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng "đừng
nghi oan cho thiếp". Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình
đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc
gia đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới
hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Nhưng mọi cố gắng của nàng đều đã không được đền đáp, dù phải tìm đến cái
chết để chứng minh tấm lòng của mình. Bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng
đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Tuyệt
vọng không cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông Hoàng Giang sâu
thẳm để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. Lời thề trước khi chết của nàng khiến ta
không khỏi cảm thông “thiếp nếu đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng vào
nước xin làm ngọc Mị Nương, hay xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng
lòng chim dạ cá lừa chồng dối con, thì dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin
làm cơm cho diều quạ và xin khắp mọi người đều phỉ nhổ”. Đến phút cuối cuộc
đời nàng vẫn khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt ấy… Vũ Nương thật là
người vợ giàu lòng tự trọng. 24
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Ở thủy cung nàng vẫn không hề oán hận, vẫn mong ngóng ngày về để đoàn tụ
với gia đình. Thẳm sâu trong tâm khảm của nàng vẫn là ước muốn được đoàn
viên, được quay trở về dù chỉ một lần với chồng con, với cuộc sống gia đình
hạnh phúc ngày xưa. . Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương chỉ trở về
nói lời đa tạ rồi từ biệt. Nàng không hề trách móc, oán hận Trương Sinh, điều đó
đã giúp chồng vơi bớt nỗi lòng, nỗi ân hận. Người phụ nữ nào cũng mong muốn
được hưởng cuộc sống hạnh phúc từ hơi ấm gia đình, Vũ Nương cũng không
phải trường hợp ngoại lệ, nhưng nàng không thể trở về.
Vũ Nương còn là một con dâu hiếu thuận, lễ nghĩa hết sức chu toàn và người
mẹ hiền, nàng một mình chu đáo nuôi con nhỏ. Chồng đi ra chiến trận, nàng đã
thay chồng gánh vác việc nhà, trọn đạo dâu con, tận tình chăm sóc mẹ già. Sau
đó ít lâu, nàng đã hạ sinh bé Đản.Nàng vừa một mình làm cha một mình làm
mẹ. Sợ con buồn khi thiếu vắng cha, nàng đã chỉ bóng mình trên vách để nói với
con đó là cha. Thế nhưng mọi việc đều được nàng chu tất lo lắng. Tác giả không
miêu tả trực tiếp nhưng ta có thể hiểu được Vũ Nương đã vất vả thế nào khi một
mình quán xuyến mọi việc trong gia đình. Tuy vất vả cực nhọc là thế nhưng
nàng vẫn chưa bao giờ oán than một lần. Đặc biệt, đối với mẹ chồng, nàng
không hề ghét bỏ như người ta thường nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu.
Nàng hết lòng chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng. Khi mẹ ốm, nàng cũng hết sức
lo lắng khôn khéo lựa lời khuyên lơn. Chính tấm lòng của Vũ Nương đã cảm
động mẹ chồng. Ta có thể thấy câu nói của mẹ chồng Vũ Nương dành cho nàng
“Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, rồi con cháu
đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”. Câu nói ấy
là minh chứng rõ nét và thuyết phục nhất về phẩm chất của Vũ Nương. Mẹ
chồng đã dành cho nàng những lời có cánh. Trước khi mất bà không lo lắng cho
con trai cũng không oán trách số phận mà nói lời cảm ơn đến nàng dâu của
mình. Việc đặt lời khen vào mẹ chồng đã tăng thêm tính chân thực và khách
quan cho câu chuyện. Vũ Nương không chỉ quan tâm chăm sóc mẹ chồng khi 25
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
mẹ chồng đau ốm mà khi mẹ chồng mất đi “nàng hết lời thương xót, phàm việc
ma chay tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Tấm lòng ấy của nàng
thật khiến ta cảm động. Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt
Nam, mang trong mình vẻ đẹp phẩm chất rất đáng trân trọng, ngợi ca.
Một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy
chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra
phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.Nhưng thật éo le và nghịch lí thay nàng lại
phải chịu một cuộc sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt.
Bi kịch bắt đầu từ câu nói ngây thơ của trẻ con. Thật ra để dỗ con, Vũ Nương
hay chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo rằng đó là cha của Đản. Bé
Đản ngây thơ nói với Trương Sinh. Đản cũng như chính Vũ Nương không ngờ
rằng chỉ một cái bóng ấy lại gây ra bi kịch cho gia đình nàng. Trương Sinh vốn
tính đã đa nghi nghe lời con đã vội khẳng định chắc nịch là vợ đã thất tiết. Vừa
gia trưởng đa nghi lại vừa cố chấp, Trương Sinh khước từ mọi cơ hội giải thích
của Vũ Nương. Nàng hết lòng kêu oan nhưng trương Sinh không nghe không
nói cho nàng rõ sự tình mà cứ nhất mực đánh đuổi nàng đi. Đến những người
hàng xóm bênh vực nàng cũng chẳng thể làm Trương Sinh động lòng. Nhân
phẩm trong trắng và tấm lòng trinh bạch của nàng dành cho chồng. Cũng bởi
vậy mà cuối cùng nàng đành lựa chọn cái chết để khẳng định sự trinh bạch. Bởi
lẽ với nàng khi trinh tiết đã bị nghi ngờ thì mạng sống này còn đáng giá gì. Nếu
sống nàng chỉ có thể sống trong nhục nhã ê chề. Nên chỉ đành dùng cái chết để
chứng minh. Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái
của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia
đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi
trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi đau khổ
chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa. 26
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Tấm lòng trinh bạch của nàng đã được người đời hiểu thấu, mối oan ức nhục
nhã ấy đã được hóa giải. Những tưởng một kết thúc có hậu cho câu chuyện
nhưng Vũ Nương lại lựa chọn cách xa lánh cuộc đời không hội ngộ sống chung
cùng chàng Trương. Vũ Nương không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ
vì cái nghĩa với Linh Phi và trần thế không còn chỗ nào cho người như nàng
nương tựa. Đàn giải oan chỉ có thể khôi phục danh dự cho nàng chứ không thể
làm sống lại tình xưa. Giữa Vũ Nương và Trương Sinh, dòng sông là nơi giải
oan, nơi tái ngộ, nhưng không thể vượt qua.
Cái kết của Vũ Nương càng khiến cho người đọc day dứt và qua đó lên án tố
cáo xã hội phong kiến. Những người phụ nữ chung thủy son sắt nhưng lại
không được tôn trọng trong xã hội phụ quyền trọng nam khinh nữ. Họ là nạn
nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi.
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể
xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ.
Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm
đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.Vũ Nương chết đi mang theo nỗi
oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại
không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi
oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi
đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã
dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những
đau khổ không gì sánh được.
Người đọc cũng nhận ra không chỉ dừng lại ở đó tác phẩm còn gián tiếp lên
tiếng tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Chính chiến tranh phi nghĩa đã làm tan nát
biết bao gia đình đang hạnh phúc êm ấm. Nếu Trương Sinh không đi lính, nếu
chàng không rời xa gia đình khi Vũ Nương sinh bé Đản thì có lẽ họ vẫn là một
gia đình hạnh phúc ấm êm trọn vẹn bên nhau. Nhưng cái hạnh phúc ấy lại quá 27
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
đỗi mong manh bị định kiến xã hội bóp nát. Trương Sinh mất vợ, Bé Đản mất
mẹ còn Vũ Nương mất cả một đời. Bi kịch lại chồng chất nối tiếp bi kịch.
Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ngay trong cái lung linh kỳ ảo, sắc thái bi
đát vẫn nằm sau hình ảnh rực rỡ của truyền kì. Điều đó một lần nữa khẳng định
niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong
chế độ phong kiến. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức
hấp dẫn và những giá trị mới. Phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể
hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà
truyện cổ tích chưa có.
Với sự sáng tạo cao về khắc họa nhân vật, cách kể chuyện, xây dựng kết thúc,
kết hợp cùng việc khai thác vốn văn học dân gian và sử dụng tinh tế những yếu
tố kì ảo, Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự cảm
thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới
chế độ phong kiến. Hơn hết, truyện truyền kì trung đại này cũng đã khẳng định
nét đẹp tâm hồn của họ, cất lên tiếng nói cho bao mơ ước về một cuộc sống tốt
đẹp, công bằng mà họ hằng hi vọng.
Ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và bênh vực người phụ nữ không chỉ có Chuyện
người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ mà nhiều nhà văn, nhà thơ khác
cũng đã đồng thời lên tiếng. Với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ngợi ca,
trân trọng nhan sắc, tài năng, phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều như là những
chuẩn mực, hình mẫu lí tưởng cho vẻ đẹp của con người mọi thời đại (Chị em
Thúy Kiều). Nơi lầu xanh, tác giả đã khắc họa nỗi nhớ của Thúy Kiều đi liền
với tình thương – một biểu hiện rất đáng trân trọng của đức hi sinh, lòng vị tha,
chung thủy (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Thiên tài Nguyễn Du cũng không quên
gây ấn tượng cho người đọc với hình ảnh Thúy Kiều sống sâu nặng ân tình, sắc
sảo, kiên quyết nhưng vẫn đầy khoan dung, độ lượng (Kiền hảo ân báo oán). 28
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Bếp lửa của Bằng Việt lại xây dựng đầy cảm động hình ảnh người bà với tấm
lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút, thái độ bình tĩnh, vững lòng.
Người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu vượt qua mọi thử
thách khốc liệt của chiến tranh.
Người phụ nữ đi qua chiến tranh được khắc họa trong Những ngôi sao xa xôi lại
càng đẹp hơn trong hình ảnh các cô thanh niên xung phong sống có tinh thần
trách nhiệm cao, quyết tâm hoàn thành tốt mọi công việc được giao; anh dũng
không sợ gian khổ, hi sinh; luôn trẻ trung, yêu đời; sống chan hòa, yêu thương
nhau và luôn tin tưởng, lạc quan về thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Có lẽ vì
vậy là không thể bỏ qua Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê trong những
tác phẩm ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Những tác phẩm trên đã
giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm,
cũng như thấm thía hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong từng nhân vật.
Với nội dung sâu sắc ấy, Chuyện người con gái Nam Xương đã đi vào quỹ đạo
nhân văn chung của văn học dân tộc, tạo được sự cộng hưởng với nhiều tác
phẩm viết về người phụ nữ cũng như kết nối bền chặt cùng tâm hồn người đọc
bao thế hệ. Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn để lại cho người đọc nhiều suy
nghĩ. Có lẽ tất cả chúng ta đều tiếc nuối đau xót cho Vũ Nương người con gái
với tấm lòng trinh bạch nhưng lại bất lực trước xã hội đầy định kiến. Chuyện
người con gái Nam Xương đã để lại nhiều nghĩ suy, day dứt, đầy thương cảm
cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ hay nhất
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 1
Tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta một cái
nhìn cảm thông và thương cảm cho số phận của những kiếp người nhỏ nhoi, 29
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
kém may mắn và tố cáo những bất công của xã hội lúc bấy giờ. "Chuyện người
con gái Năm Xương" trích trong tác phẩm ấy đã khiến lòng ta không khỏi buồn
thương và nghẹn ngào về số kiếp, thân phận nổi trôi của những người phụ nữ
xưa qua nhân vật Vũ Nương.
Vũ Nương là một người con gái xinh đẹp, tuy gia đình khốn khó nhưng lại có
phẩm hạnh, nàng được người đời ca ngợi với "tư dung tốt đẹp" lại thêm tính
cách nết na, thùy mị hơn người. Vũ Nương được Trương Sinh - con một nhà
giàu có, quyền quý trọng hỏi cưới, hắn vì mến mộ nàng mà lấy nàng làm vợ.
Hai người thành vợ thành chồng không trên cơ sở tình yêu, mặc dù vậy thì trên
danh phận một người vợ, nàng vẫn luôn cố giữ cho gia đình được hạnh phúc êm
ấm. Biết tính chồng nóng nảy lại hay ghen tuông, Vũ Nương luôn giữ mình mực
thước, chưa bao giờ khiến Trương Sinh phải phiền lòng, đau khổ.
Ngày chàng Trương phải xa nhà đi lính, Vũ Nương buồn bã khi phải chia xa
chồng, lo lắng cho đứa con còn nhỏ dại phải xa bố, mẹ thì đã già yếu đi nhiều.
Là phụ nữ, ai chẳng khát khao được hạnh phúc vui vầy bên chồng con, nhưng vì
hoàn cảnh, vì đất nước, nàng thuận lòng ủng hộ chồng ra chiến trận, không tham
lam giàu sang, quan tước, nàng chỉ khóc nghẹn mà mong chồng mình được an
yên trở về: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong
hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình
yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng
còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín
quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng".
Những ngày chồng ở nơi biên ải xa xôi, Vũ Nương ân cần chăm sóc mẹ già, con
nhỏ. Một tay nàng gánh vác chuyện ngược xuôi, chuyện lớn nhỏ trong gia đình
đều được sắp xếp vẹn tròn. Con nhớ bố nàng an ủi con bằng chiếc bóng mình in
trên tường qua ngọn đèn dầu mỗi tối, mẹ già nhớ con nàng lựa lời ngọt nhẹ
khuyên lơn. Ngày mẹ mất nàng đau khổ vô bờ nhưng vẫn gác lại niềm đau mà 30
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
lo lo toan mọi thứ, tế lễ ma chay mẹ được nàng làm vô cùng chu đáo. Vũ Nương
xứng đáng là một người mẹ hiền, một người con hiếu thảo mà xóm làng ai cũng
ngợi khen. Một người phụ nữ đức hạnh như vậy đáng ra phải được hạnh phúc
ấm êm, được yêu thương chở che từ bàn tay, bờ vai của chồng mình. Nhưng
đáng buồn thay, thân phận nàng lại vô cùng nghiệt ngã. Ngày Trương Sinh trở
về, sau khi viếng thăm mộ mẹ, hắn cùng con trò chuyện, hỏi han. Chỉ vì một lời
nói ngây thơ của con trẻ về người cha trên chiếc bóng mà mẹ chỉ hằng đêm, cơn
ghen tuông của kẻ độc đoán kia trỗi dậy. Hắn nghi ngờ sự không chung thủy nơi
Vũ Nương, còn điều gì thất vọng hơn khi chính người đầu ấp tay kề lại nghi ngờ
lòng trong sạch của bản thân cơ chứ?. Mặc cho những giải thích, van xin, mặc
cho những giọt nước mắt oan ức, mặc cho bao hàng xóm khuyên bảo, minh oan,
hắn vẫn coi ý nghĩ của mình là đúng. Trương Sinh đã đẩy chính vợ mình vào
con đường cuối cùng của sự sống- cái chết oan nghiệt. Trương Sinh thực sự đã
trở thành một kẻ chuyên quyền, ngu ngốc và tàn nhẫn, một kẻ thiếu tình thương
yêu, hành động vô lương tâm. Và phải chăng, hắn chính là đại diện của một xã
hội nam quyền, một xã hội "trọng nam khinh nữ" đương thời.
Vũ Nương có số phận trái ngang với nỗi oan không thể thanh minh, nàng bị vu
cho tội thất tiết mà chẳng có quyền rửa sạch nỗi oan cho mình. Suốt thời gian
chồng đi lính, nàng lo lắng vun vén gia đình, giữ vẹn đạo làm vợ, làm con,...vậy
mà cuối cùng hạnh phúc lại không thề gìn giữ, chấp nhận xa đứa con thơ mang
nặng đẻ đau, xa những người thân ruột thịt, chọn cái chết để chứng minh cho
tấm lòng mình, giữ lấy danh dự cho gia đình. Cuộc đời ngắn ngủi của người phụ
nữ ấy chưa một lần sống vì mình, vẫn luôn vì người khác, vậy mà hai tiếng hạnh
phúc vẫn mãi xa vời tầm tay của nàng.
Vũ Nương như chính thân phận của bao kiếp người phụ nữ xưa bị đọa đày, bị
vùi dập. Họ phải sống và chịu bao khổ đau, bao bi kịch xảy ra và cái chết là một
bi kịch đầy đớn đau mà họ phải lựa chọn. Người phụ nữ xưa họ có nhan sắc, có 31
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
tài năng, có cốt cách và một tấm lòng yêu thương, họ xứng đáng được hạnh
phúc, được thương yêu, nâng niu và được trân trọng, nhưng xã hội dối trá, bất
công đã khiến cuộc đời họ nghiệt ngã đến vô cùng. Nỗi đau mà Vũ Nương đã
trải qua cũng như bao nỗi đau mà nàng Kiều, Tiểu Thanh trong thơ Nguyễn Du,
người chinh phụ trong thơ Đặng Trần Côn và bao người khác phải gánh chịu,
trải bao phen đoạn trường. Nghĩ về họ, ta mới thấy thấm thía hơn những vần thơ
mà Nguyễn Du từng viết về kiếp đàn bà xưa kia:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
"Chuyện người con gái Nam Xương" đã khắc hoạ Vũ Nương trở thành một
nhân vật điển hình cho những người phụ nữ xưa, họ đẹp và về tâm hồn và phẩm
cách, họ hoàn mỹ cả về tài năng và trí tuệ nhưng họ lại không có sự may mắn
trong cuộc sống và hôn nhân. Dù cho thời gian có trôi đi qua bao nhiêu năm nữa
thì áng văn của Nguyễn Dữ vẫn mãi khiến ta khắc khoải buồn thương về một
bài ca xót xa cho những kiếp "hồng nhan bạc mệnh" trong xã hội đương thời.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 2
Viết về số phận người phụ nữ là một đề tài quen thuộc trong văn học. Đến với
văn học Việt Nam trung đại, người đọc không thể không biết đến tác phẩm
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Qua hình ảnh nhân vật
Vũ Nương, tác giả đã khắc họa chân thực thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Hình ảnh nhân vật Vũ Nương khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng: “Vũ Thị
Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư
dung tốt đẹp”. Vũ Nương chính là một đại diện cho người phụ nữ trong xã hội
phong kiến với đầy đủ những phẩm chất: công, dung, ngôn, hạnh. Tưởng rằng 32
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
xinh đẹp tài năng là thế sẽ được hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đời sau này lại chịu nhiều bất hạnh:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Nguyễn Du)
Nàng là một người vợ biết giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng bao giờ phải
thất hòa. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn
ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong
được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với
vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên”.
Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành
cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu với hiểm nguy, chết chóc.
Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất.
Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ
chồng nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng
ốm đau vì nhớ con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng
“hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh
ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương con và mong muốn con có một gia đình
đầy đủ. Vũ Nương đã nói dối con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha
Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại ấy, sau này lại đem đến lại bi kịch cho cuộc đời nàng.
Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ
được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe
tin mẹ mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy
khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. 33
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không
như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã khiến chàng
nghi ngờ vợ là thất tiết. “Cái bóng” trở thành người cha để an ủi con trẻ, nhưng
lại trở thành lý do dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Khi trở về, Trương Sinh liền
mắng vợ một bữa cho hả giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn
hết lời giải thích cho chồng hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn
thua. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong
sạch của mình. Xót xa thay cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, chẳng thể
minh oan cho sự trong sạch của bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái
chết để hết tội. Cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn đầy những
bất công. Không thể tự mình quyết định tình yêu, hôn nhân và cả cuộc đời. Họ
phải cam chịu, nhẫn nhục mà không thể phản kháng lại cái xã hội phong kiến ấy:
“Thân em như con hạc đầu đình
Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay”
Nhưng, câu chuyện mang tính nhân văn ở chỗ, tác giả đã xây dựng một kết thúc
có hậu cho câu chuyện. Vũ Nương nhảy xuống sông, nhưng được chư tiên trong
thủy cung thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang
- một người vốn sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ
Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu
còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng
chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương Sinh sau khi biết mình đã đổ oan cho
vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện dưới thủy cung gặp được Vũ
Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về trong
làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Một kết thúc không có thật
ngoài cuộc sống. Đó giống như là một giấc mơ của nhân dân ta rằng những
người tốt rồi sẽ có được hạnh phúc. Nhưng cũng chỉ dừng lại ở ước mơ mà thôi, 34
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
khi Vũ Nương không thể trở về cuộc sống trần thế, chỉ có thể tiếp tục cuộc sống ở thủy cung.
Qua phân tích trên, người đọc dường như hiểu hơn về thân phận người phụ nữ
trong xã hội xưa. Nhờ đó, chúng ta biết trân trọng và yêu thương họ nhiều hơn.
Quả là một tác phẩm phẩm văn học luôn có sức lan tỏa và lay động mạnh mẽ
đến tâm hồn con người.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 3
“Chuyện người con gái Nam Xương” chính là một câu chuyện hay và hấp dẫn
của tác giả Nguyễn Dữ. Chính việc thông qua cuộc đời và số phận đầy bi kịch
và cũng thật đầy những khổ đau, gian truân của nhân vật Vũ Nương tác giả đã
phơi bày bộ mặt xấu xa, cũng như thật là bất nhân của xã hội phong kiến đương
thời đã chà đạp lên số phận người dân lao động, đặc biệt là thân phận những người phụ nữ.
Vũ Thị Thiết hay chính là Vũ Nương, là người con gái quê ở Nam Xương. Vũ
Nương xuất thân trong gia cảnh thật nghèo khó nhưng lại đẹp người và đẹp nết,
trong vùng thật khó ai có thể so sánh. Nàng được gả cho Trương Sinh, gia tư
khá giả lại có tính hay đa nghi, đã vậy lại luôn luôn có tính đề phòng quá mức
khi chồng đi lính. Thế rồi ở nhà Vũ Nương ở nhà thay chồng tận tình phụng
dưỡng mẹ già, chăm lo con nhỏ. Khi thiên hạ thái bình thì Trương Sinh trở về,
đau buồn vì nghe tin mẹ mất đã vậy lại tin lời nói ngây thơ của con trẻ. Thế rồi
nhân vật Trương Sinh cho rằng vợ mình đã thất tiết nên đã có những hành động
sỉ nhục, lăng mạ, đồng thời cũng đã đánh đập Vũ Nương tàn tệ khiến nàng phải
tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang. Nhờ Phan Lang mà Trương Sinh hiểu ra
sự tình nhưng cũng đã quá muộn, Vũ Nương vĩnh viễn không trở về.
Nguyễn Dữ cũng đã tỏ ra quan tâm đến những con người bình dân vốn rất nhỏ
bé trong xã hội phong kiến. Ta nhận thấy được trước và sau ông, không ai có 35
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
tấm lòng bao dung đến vậy. Người đọc cũng có thể dễ dàng nhận thấy được
chính nhân vật Vũ Nương là hội tụ vẻ đẹp của một con người lý tưởng. Ở Vũ
Nương thì nàng lại có đầy đủ vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người phụ nữ
Việt Nam. Đầu tiên đó chính là việc Vũ Nương là một người con gái có ngoại
hình xinh đẹp, lại thêm tính cách cao quý. Thực sự thì chính vẻ đẹp ấy được
Nguyễn Dữ giới thiệu ngày từ đầu thiên truyện đó chính là những câu văn “Vũ
Thị Thiết… tính đã nết na thùy mị, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Quả thật chính với
sự kết hợp toàn vẹn giữa vẻ đẹp hình dung và vẻ đẹp tâm hồn khiến cho người
con gái tên Vũ Nương trở thành mẫu người lý tưởng của xã hội phong kiến đương thời.
Chưa hết, khi về làm vợ Trương Sinh, người đọc như một lần nữa lại thấy được
ở Vũ Nương thì chính những phẩm chất tốt đẹp ấy có dịp để thể hiện, phô bày
nàng rất hiếu thảo với bên chồng, yêu mẹ chồng và con hết mực, sống thật chí
tình chí nghĩa khiến hàng xóm ai cũng mến yêu.
Thế rồi ta như nhận thấy được cũng chính tấn bi kịch đời nàng xảy ra từ lúc mới
bước chân về làm vợ Trương Sinh. mặc cho dù nàng chẳng làm điều chi trái ý.
Nhưng đối với vợ, lúc này đây thì nhân vật Trương Sinh lúc nào cũng tỏ ra đề
phòng quá mức. Có thể nhận thấy được chính sự đề phòng của trương Sinh
khẳng định chàng chưa từng tin vào đức hạnh của vợ. Và đó chính là một điều
sỉ nhục đầu tiên đối với phẩm hạnh của Vũ Nương. Tuy nhiên, có thể nhận thấy
được ở nàng Vũ Nương lại luôn biết giữ phận, nàng đã làm việc chu đáo, giữ
được hòa khí vợ chồng. Thực sự cuộc sống có vẻ bình yên nhưng có lẽ đối với
nàng có chút căng thẳng, hạnh phúc gắng gượng lại. Thế nhưng ở những người
phụ nữ thì cũng thật khó khăn, dù như thế nào đi chăng nữa thì thân phận của
người phụ nữ trong xã hội cũ vẫn luôn bị coi rẻ.
Nhận thấy được hoàn cảnh chiến tranh gây ra cảnh ly biệt. Có thể nhận thấy
chiến tranh khắc sâu tính cách của Trương Sinh, tất cả dường như cũng lại đã 36
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
làm cho tính đa nghi của chàng có dịp bùng phát lớn. Người đọc cũng có đôi
phần hiểu được tuy không nói một lời nào nhưng có lẽ Trương Sinh không hề
tin vợ. Thế rồi ngay cả lúc ra trận, chàng không hề nói một lời từ biệt với Vũ
Nương mà cứ lẳng lặng mà đi. Có lẽ chính vì vậy cho nên khi trở về, ta như
cũng thấy được cũng chỉ cần một dấu hiệu nhỏ thôi, và đáng nói ở đây đó chính
là một dấu hiệu mơ hồ chưa chắc chắn mà Trương Sinh cũng đã khép tội cho
Vũ Nương mặc những lời giải thích của nàng. Không chịu nổi nữa, tuyệt vọng
thì nàng đến cái chết. Thực sự người đọc sẽ không thể nào mà quên được chi
tiết Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang. Chi tiết này đã khiến
cho người đời mãi mãi xót xa về tấn bi kịch đẫm đầy nước mắt của người phụ
nữ trong xã hội xưa họ tốt đẹp, họ xinh đẹp như vậy nhưng chịu nhiều oan ức.
Thông qua đây ta như thấy được đó cũng chính là tấn bi kịch cái đẹp bị chà đạp,
bị rẻ rúng và những thân phận của người lao động, đặc biệt là những người phụ
nữ họ bị vùi dập không thương tiếc. Đồng thời thông qua đây cũng chính là bản
án đanh thép tố cáo bộ mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời.
Có thể khẳng định được rằng chính hình tượng nhân vật Vũ Nương chính là
hiện thân của tấm lòng vị tha. Vũ Nương cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ
toàn tài nhưng lại bị xã hội bất công vùi dập.
Thông qua nhân vật Vũ Nương ta như thấy được ngòi bút của Nguyễn Dữ đã
hướng đến thể hiện và trân trọng, đồng thời đó cũng chính là sự ngợi ca vẻ đẹp
của người phụ nữ, họ chung thủy, đoan trang và nhân hậu. Thế rồi cũng lại bày
tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ và ước mơ về một cuộc sống tươi
đẹp cho những con người bình thường nhất mà ở họ lại có được những phẩm
chất tốt đẹp. Không dừng lại ở đó truyện như còn tố cáo mạnh mẽ chế độ phong
kiến hà khắc, cửa quyền, xã hội phong kiến mục ruỗng như thật nhẫn tâm đẩy
con người vào bước đường cùng không lối thoát.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 4 37
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Từ thuở xa xưa, người phụ nữ được cho là những người chân yếu tay mềm, chỉ
biết phụ thuộc, chẳng làm được cái tích sự gì, bị khinh bỉ rẻ rúm, bị đàn áp dưới
chế độ nam quyền. Nhưng chính họ lại luôn là đề tài phổ biến, truyền cảm hứng
sáng tác cho các tác giả trong nền văn học trung đại Việt Nam. Và Vũ Nương -
một người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến có nhiều phẩm chất tốt đẹp
nhưng lại gặp oan nghiệt và có cuộc đời bất hạnh - đã được tác giả Nguyễn Dữ
khắc họa thành công qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ hội tụ nhiều nét đẹp truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của nàng được thể hiện trong nhiều mối quan
hệ ở từng hoàn cảnh khác nhau. Khi còn là một thiếu nữ, Vũ Nương sở hữu nét
tính cách thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp nên nàng được người người
quý mến. Sau khi được gả về nhà chàng Trương, nàng là người vợ thủy chung
son sắc, hết lòng chăm lo cho gia đình nhỏ. Biết chồng có tính đa nghi, nàng
luôn giữ gìn khuôn phép lễ nghi, không để xảy ra bất hòa. Ngày tiễn chồng lên
đường ra nơi biên ải, Vũ Nương như xé lòng dặn dò chồng đầy tình nghĩa:
"Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi”. Với lời dặn dò của nàng, ta thấy Vũ Nương không hề mong được vinh
quang hiển hách mà chỉ cầu sao cho chồng được bình an. Không chỉ vậy, nàng
còn cảm thông với những vất vả khó khăn mà sau này chồng mình sẽ phải chịu
đựng phía trường chinh.
Những năm tháng xa chồng, Vũ Nương không những nhớ thương mà còn thủy
chung chờ chồng trở về:” Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường
hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm rồi lại năm, nỗi
nhớ chồng của nàng chưa có khi nào có xu hướng giảm, cứ kéo dài theo năm
tháng:” Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể
chân trời không thể nào ngăn được.” 38
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Trong quan hệ với mẹ chồng, Vũ Nương là một nàng dâu vô cùng ngoan ngoãn,
hiếu thảo. Mẹ chồng lâm bệnh nặng, nàng chăm sóc tận tụy chu đáo, lo thuốc
thang trị liệu, lo lễ bái thần phật, dịu dàng dùng lí lẽ ngọt ngào khuyên bảo hi
vọng bệnh tình của bà mau qua. Biết mình chẳng thể tiếp tục cõi đời, bà mẹ
chồng đã kịp thời trăng trối trước lúc lâm chung để khẳng định về nhân cách,
công lao đức độ của Vũ Nương đối với bà: "Sau này trời xét lòng lành, ban cho
phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ
con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ chồng mất, nàng một mình một thân
lo việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình. Tấm gương tần tảo nghĩa
hiếu ấy khó ai mà có được trong hoàn cảnh côi cút, vất vả như nàng.
Trong quan hệ với con, Vũ Nương là người mẹ lành đảm đang hết lòng yêu
thương con, một mình nuôi con với tất cả tình yêu nàng gom góp của mình và
của người cha đứa bé nơi chiến trường vì sợ con thiếu thốn tình cảm. Những
đêm con khóc, nàng thường dỗ dành con bằng cách chỉ vào bóng mình trên vách
tường và nói đó là cha nó.
Không những thế, Vũ Nương còn là người trọng danh dự, nhân phẩm. Điều này
được thể hiện qua tình huống khi nàng bị nghi oan, Vũ Nương hết mình tìm
cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ bằng phương pháp
phân trần, giải thích. Hình ảnh nàng trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang đã
khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng của nàng. Khi đã quy tiên, sống
yên ổn ở một thế giới khác, Vũ Nương không nguôi nhớ về nơi trần tục, về
chồng con, về quê hương đất tổ và mong được giải oan.
Như vậy, Vũ Nương quả là một người phụ nữ đẹp nết đẹp người, tháo vát đảm
đang, hiếu thảo, thủy chung, hết lòng bồi đắp hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp của
nàng như ánh hào quang tỏa sáng ngay cả khi đã về nơi chín suối. Thật đáng
trân trọng và cảm phục biết bao! 39
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp như Vũ Nương lẽ ra phải được
hưởng hạnh phúc nhưng nàng lại gặp số phận cay đắng trái ngang đầy oan
nghiệt và có cuộc đời vô cùng bất hạnh. Đầu tiên, Vũ Nương là nạn nhân của tư
tưởng phong kiến nam quyền, hôn nhân bị mua bằng tiền bạc, không tình yêu.
Mặt khác, cuộc sống hôn nhân giữa nàng và Trương Sinh có phần không bình
đẳng vì Vũ Nương là "con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Trương Sinh đã
xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm dâu. Sự cách bức giàu nghèo đã tạo
thêm cái thế cho Trương Sinh- người đàn ông gia trưởng trong một gia đình
giàu có dưới xã hội phong kiến - để hắn có thể dễ dàng chà đạp lên thân phận Vũ Nương.
Cái thứ hai, Vũ Nương là nạn nhân của cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Gia đình đang yên ấm hạnh phúc thì phải "chia phôi vì động việc lửa binh”.
Những ngày ở nhà, Vũ Nương mòn mỏi đợi chờ chồng, ngóng trông đầy thương
nhớ như nàng vọng phu hoài cổ. Ngày sum họp lại là ngày "bình rơi trâm gãy,
sen rũ trong ao liễu tàn trước gió”. Do có tính đa nghi lại thêm lời con trẻ nói
nên bỏ ngoài tai lời vợ phân trần, bà con hàng xóm bênh vực. Đó là lí do mà
Trương Sinh luôn miệng mắng nhiếc, chửi rủa, đuổi đánh, dồn đẩy nàng đến cái
chết đầy đau thương. Thật xót xa cho nàng! Chỉ vì lời nói của con trẻ, chỉ vì anh
chồng hồ đồ ghen tuông bóng gió, độc đoán mà phải kết liễu cuộc đời.
Tóm lại, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ chính là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã
hội xưa và cũng là lời tố cáo về xã hội phong kiến nam quyền ngày xưa. Từ đó
cho thấy sự cảm thông cho số phận Vũ Nương của tác giả tài hoa Nguyễn Dữ.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 5
Người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được thể hiện trong văn học thời trung
đại. Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành công với bài thơ "Bánh trôi nước", 40
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
đại thi hào Nguyễn Du với kiệt tác "Truyện Kiều" và Nguyễn Dữ - học trò của
Nguyễn Bỉnh Khiêm với "Chuyện người con gái Nam Xương" – thiên thứ 16
của "Truyền kì mạn lục". Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy
tư, trăn trở cho người đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
"Chuyện người con gái Nam Xương" xoay quanh về cuộc đời và số phận bi
thảm của Vũ Nương – người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là
Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc
sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy
tuần, Vũ Nương sinh con trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho
mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình
trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời
con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương
nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Qua câu chuyện kể, ta thấy người phụ nữ
là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công. Cuộc đời của họ là một chuỗi dài
những khổ đau, bất hạnh.
Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ
Nương đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết
nàng "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp" cho nên Trương Sinh
mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn
nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải là sự rung động của hai trái tim
cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con
nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó "cha
mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó". Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã
khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm "thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà
giàu". Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn
tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia
trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo. 41
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ
vực làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm
xa cách, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì
cũng lại là lúc tai họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của
bé Đản: "Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biết nói chứ không giống
như cha tôi trước kia...", làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng.
Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm
lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì
Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới, mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi
từ chỗ "la um lên cho hả giận", Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải
chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói "trọng nam
khinh nữ" bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người đàn ông được
quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ
chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy
chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ... Nàng không hiểu vì sao bị
đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay
cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Hạnh phúc gia đình, thú
vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không
còn "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió",
cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại
được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn
nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ
tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông
chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận
hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông
có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,
vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng
lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm
cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". 42
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận
nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc
đoán, chà đạp và ức hiếp con người.
Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan
ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự vẫn chỉ một chút động lòng mà không hề
ân hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là
cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế,
chuyện danh dự, chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi
người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận
xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia
đình, là một trong muôn vàn oan khuất của cái xã hội vùi dập thân phận con
người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất
công, quyền sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân
phận "bèo dạt mây trôi" có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào,
vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến
đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu
xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu.
Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là
nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi
gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng "sum họp
chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh". Buổi Trương Sinh ra
đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể
rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàm lệ: "Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ,
chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân
khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao,
rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài,
mẹ già triền miên lo lắng." 43
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ
cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương
nhớ con mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ
trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé...
Chính chiến tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm.
Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành
nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh,
Trương Sinh không bị bắt đi lính, thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu
Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng,
chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh từ
biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình.
Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao
người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong "Bánh trôi nước", Thúy
Kiều, Đạm Tiên trong "Truyện Kiều" đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm
đến cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân
gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ
bằng tiếng kêu đầy ai oán:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Viết về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân
đạo, chà đạp lên quyền sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy
nước mắt, là sự xót xa thương cảm của tác giả trước nỗi oan khiên mà người
phụ nữ phải gánh chịu.
Qua "Chuyện người con gái Nam Xương", ta xót xa thương cảm cho người phụ
nữ bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất 44
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
công đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại
càng thêm nâng niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh
Miện, Hải Dương dành cho những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 6
"Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ nhìn thoáng qua ngỡ là những câu chuyện
ma quái, hoang đường nhưng ngẫm kĩ đó lại là bức tranh đời sống của xã hội
thực tại. Chỉ qua truyện ngắn ’’Chuyện người con gái Nam Xương”, đặc biệt là
qua số phận của nhân vật chính trong tác phẩm - nàng Vũ Nương - ta đã phần
nào hiểu thêm về số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đẹp
đẽ, tiết hạnh nhưng phải chịu một số phận khổ đau bất hạnh khiến người đọc
vừa yêu mến, trân trọng lại vừa đồng cảm, xót thương.
Nàng Vũ Nương trong tác phẩm có một nét đẹp vẹn toàn, hài hoà giữa vẻ đẹp
ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn “vừa đẹp người vừa đẹp nết”. Và đó cũng chính là
vẻ đẹp tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam. Điều đó khiến người đọc
luôn dành cho Vũ Nương một niềm yêu mến, trân trọng lớn lao.
Là người vợ, người mẹ hay người con dâu Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận
của mình. Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi,
đối với vợ phòng ngừa quá sức.” Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không
từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà.”. Hai vợ chồng chia li Vũ Nương một
lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám
mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang
theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa
soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình,
thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng
bay bổng”. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về 45
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy
vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”
Ngay cả khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày
tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm
đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo
khuyên lơn.”, thương yêu, lo lắng chu toàn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời
thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”- Đặc
biệt, tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động: khi mất, những lời
cuối cùng của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu.
Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng
minh phẩm tiết. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự,
tiết hạnh ở người phụ nữ này.
Nhưng càng yêu quý, trân trọng những người phụ nữ như vậy bao nhiêu ta càng
xót thương cho số phận của họ bấy nhiêu. Thật là những tấm lụa đào phất phơ
giữa chợ, những trái bần trôi bị gió dập sóng dồi, những hạt mưa sa tan tác...
Xinh đẹp, tiết hạnh như vậy nhưng nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa
chọn: Trương Sinh là một kẻ vô học nhưng giàu có “xin với mẹ đem trăm lạng
vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn
cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng chẳng khác
nào một cuộc trao đổi bán mua.
Về nhà Trương Sinh, êm thấm được một thời gian rồi chiến tranh phong kiến
cũng cướp đi cái hạnh phúc gia đình nàng đã cố công gìn giữ. Không chỉ vậy,
những khuôn phép cũ xưa lỗi thời được chiến tranh tiếp tay một lần nữa hại đời
Vũ Nương. Và lần này đã dập vùi đời nàng vĩnh viễn. Quen theo nếp nghĩ, nếp
sống trưởng giả, Trương Sinh nghi ngờ cho tấm lòng sắt son của vợ, không cho 46
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
nàng thanh minh lấy nửa lời. Sự lựa chọn của Vũ Nương: trầm mình tự vẫn đã
phản ánh một thực tế: xã hội phong kiến xưa không có chỗ cho những con
người đẹp đẽ như nàng, nàng không thể thuộc chốn ấy. Nhưng như thế cũng có
nghĩa nàng phải từ giã hạnh phúc trần gian, từ bỏ gia đình, con cái...
Người đọc nhẹ lòng khi Vũ Nương được minh oan chiêu tuyết nhưng vẫn nhói
lòng bởi cái chết đã khiến nàng một đi không trở lại, để dở dang cả quãng đời
đương độ viên mãn tròn đầy nhất.
Yêu mến và xót thương, hai dòng cảm xúc không khi nào nguôi khỏi tấm lòng
người đọc đối với thân phận người phụ nữ xưa qua hình ảnh nàng Vũ Nương.
Càng yêu thương những viên ngọc bị dập vùi ấy ta càng căm phẫn trước những
thế lực phong kiến đen tối, hủ lậu chà đạp lên quyền hưởng hạnh phúc, quyền
được sống của con người. Nguyễn Dữ và bao nhà thơ, nhà văn khác hẳn đã
nhân đạo biết bao khi viết về những con người như thế, khơi dậy trong lòng
người những cảm xúc thẩm mĩ nhân đạo hướng đến cái thiện cái mỹ của cuộc
đời này... Và vì thế, ta càng trân trọng hơn hình ảnh người phụ nữ trong xã hội
xưa mà nàng Vũ Nương, nàng Kiều, ... là những hiện thân sống động.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 7
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
Những câu thơ trên là những câu thơ trong bài Bánh trôi nước của nhà thơ Hồ
Xuân Hương. Bài thơ là lời bộc bạch đầy chua xót về thân phận những người
phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là những người phụ nữ thùy mị, nết na nhưng cuộc 47
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
đời họ lại vô cùng đớn đau và đầy bi kịch. Họ không có quyền chọn lựa cuộc
sống cho mình mà phải chịu đựng sự rẻ rúng, bất công của xã hội phong kiến cổ
hủ thời xưa. Cùng đề tài với bài thơ này là hình ảnh nhân vật Vũ Nương trong
Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ. Đọc truyện, ta mới
thấu hiểu được những nỗi đau mà người phụ nữ phải chịu thực sự cùng cực đến nhường nào.
Sự bất công đối với người phụ nữ trong xã hội cũ được thể hiện ngay từ khi
cuộc hôn nhân của Vũ Nương và Trương Sinh bắt đầu. Vũ Nương được tác giả
nhắc đến là một người phụ nữ "tính tình thùy mị, tư dung tốt đẹp". Chính vì lẽ
đó mà Trương Sinh đem lòng cảm mến nàng, xin mẹ một trăm lượng vàng để
cưới về. Ở đây, ta thấy được chỗ đứng của những gia đình có tiền, có quyền.
Chỉ cần có tiền là có thể bắt ép bất kì ai. Cuộc hôn nhân của Vũ Nương và
Trương Sinh là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, nó không xuất phát từ tình
yêu thật sự đến từ cả hai phía mà chỉ đơn thuần là một cuộc mua bán đúng
nghĩa. Ta có thể hiểu được điều này bởi trong xã hội phong kiến, con người ta
vẫn phải chịu đựng sự sắp xếp của cha mẹ "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó". Vũ
Nương ngay từ đầu đã không có quyền chọn lựa cuộc hôn nhân cũng như cuộc
sống của chính mình. Nàng chỉ như một cánh hoa thuận theo dòng nước giống
như nhân vật Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
hay như sự bấp bênh, phụ thuộc vào người khác của hình ảnh bánh trôi: "Rắn
nát mặc dầu tay kẻ nặn". Thương thay cho số phận cay đắng, tủi hờn của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến! Chuỗi bi kịch cuộc đời của nàng tiếp tục kéo
dài khi sau bao nhiêu năm đằng đẵng chờ chồng, Vũ Nương lại bị người chồng
của mình gán cho tội không chung thủy. Trương Sinh hồ đồ, độc đoán chỉ một
mực tin vào lời của con nhỏ mà vội vàng xét nét, hồ nghi người vợ chung chăn 48
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
chung gối với mình. Hành động mắng nhiếc và đuổi vợ đi của Trương Sinh cho
thấy sự hống hách, phô trương của chế độ nam quyền độc đoán. Rằng ở trong
chế độ này, nam nhân có thể làm tất cả mọi thứ, kể cả lăng mạ, xỉ nhục người
phụ nữ của mình. Họ coi số phận của người phụ nữ như một món hàng, rẻ mạt
và vô giá trị. Biết bao nhiêu sự hi sinh, bao nhiêu năm tháng tuổi xuân chờ
chồng và phụng dưỡng cha mẹ chồng như chính cha mẹ đẻ của Vũ Nương giờ
đây đã tan thành mây khói. Dù nàng đã khẩn thiết biện bạch: "Cách biệt ba năm
giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguội lòng. Đâu có mất nết hư thân
như lời chàng nói". Có chăng vì sự cô đơn nên người mẹ mới lấy cái bóng của
mình để dỗ dành con nhỏ, lại trở thành cái cớ để Trương Sinh hằn học, xúc phạm làm nhục nàng?
Bị mắng nhiếc, đuổi ra khỏi nhà, Vũ Nương không còn cách nào khác để minh
oan cho bản thân, nàng đành chọn cách đau lòng nhất. Đó là trẫm mình xuống
dòng sông Hoàng Giang tự vẫn. Trước khi chết, nàng đã phải thề nguyền: "Kẻ
bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám", nỗi oan ức của nàng
có lẽ chỉ có đất trời mới thấu, chỉ có thần sông mới hiểu... Cái kết cho cuộc đời
của Vũ Nương cũng chính là cái kết đầy bi kịch của những người phụ nữ sống
trong thời kì phong kiến. Đâu đó ở trong tấn bi kịch của họ, ta nhìn thấy bóng
dáng của người đời hả hê, vô tình trước một xã hội phong kiến thối nát lúc bây giờ.
Có thể nói, cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương trong Chuyện người con
gái Nam Xương đã tố cáo đanh thép tội ác của xã hội phong kiến đầy bất công,
oan trái. Vũ Nương hay chính là đại diện cho cả một bộ phận những người phụ
nữ nói chung, là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán và là nạn nhân của
chiến tranh phong kiến. Nếu có bất kì một ai đứng ra minh oan cho nàng, hay
nếu người chồng độc đoán ấy mà chịu xem xét, tìm hiểu rõ ngọn ngành thì có lẽ
Vũ Nương đã không phải chịu bi kịch đớn đau như vậy. 49
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Khép lại thiên truyện thứ 16 trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của nhà văn
Nguyễn Dữ, người đọc không khỏi khâm phục trước tài năng viết truyện tuyệt
vời của ông. Truyện không chỉ nêu lên số phận của những người phụ nữ trong
xã hội cũ mà còn cho thấy cái nhìn và tấm lòng của tác giả đối với nhân vật khi
đến cuối truyện, ông đã để cho Trương Sinh biết rằng mình đã nghi oan cho vợ
dù là muộn màng. Ông để cho Vũ Nương được Linh phi cứu và giải oan. Nhìn
lại thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ta thầm cảm ơn vì cho
đến hiện tại, người phụ nữ đã được đối xử bình đẳng, họ là những con người
"Giỏi việc nước, đảm việc nhà" và đặc biệt là không phụ thuộc vào bất cứ ai.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 8
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
"Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình
ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại
nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay,
trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng
thương: Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà
có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con gái Nam Xương".
Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ
đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách, nhưng mỗi người lại mang một vẻ
đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.
Tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" là tiếng nói đồng cảm, trân
trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ. Toàn bộ 50
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh
đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ
không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay
một mỹ nhân nơi gác tía lầu son. Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con
kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời - đó là thú vui nghi gia nghi thất.
Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng "tính cách đã thuỳ mị
nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp".
Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung
thể hiện rõ nét. Trong những ngày đoàn viên ít ỏi, dù Trương Sinh con nhà hào
phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo
léo cư xử, giữ gìn khuôn phép nên gia đình không khi nào phải thất hòa. Khi
tiễn chồng đi lính, mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú
quý mà là khao khát ngày chồng về "mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi".
Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm
sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ
chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương
vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa: “Sau
này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn,
xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Người thiếu phụ tận tụy, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với
chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh
đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con: “Cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính
tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông, Vũ
Nương là con người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người 51
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để
giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc. Tục ngữ có câu:
"Hoa thơm ai chẳng nâng niu
Người ngoan ai chẳng thương yêu mọi bề" Hay:
"Gái có công thì chồng chẳng phụ"
Thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính
nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình
một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi
vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc đã tan, chồng về, gia đình
được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bóng đen của cơn ghen đã
làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời
ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không
tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng
thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để
kết thúc một kiếp người. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương không phải là trường hợp
cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của rất nhiều chị em phụ nữ, là kết quả
của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận
của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy, Nguyễn Dữ đã góp phần
khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy
cũng đã được thể hiện trong lời ca dao
"Thân em như hạt mưa xa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng"
Trong tác phẩm này có được sự sáng tạo tài tình chi tiết về chiếc bóng oan
nghiệt để phê phán xã hội phong kiến và nói lên số phận của người phụ nữ trong 52
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
xã hội đó thật mong manh. Cái bóng là một chi tiết nghệ thuật sáng tạo, độc
đáo, giàu ý nghĩa. Chi tiết này xuất hiện tác dụng thắt nút câu chuyện (đẩy các
mâu thuẫn đến đỉnh điểm). Cái bóng xuất hiện trong lời nói đùa của Vũ Nương
khi nói với con. Những ngày xa cách, bé Đản luôn hỏi về bố. Thương đứa con
ra đời chưa biết mặt cha, muốn tạo cho con ý niệm đầu tiên về người cha để nó
không cảm thấy thiếu vắng, luôn cảm thấy hình ảnh cha gần gũi bên mình. Vũ
Nương chỉ cái bóng mình trên vách và nói với con đó là cha Đản. Trong những
ngày tháng xa chồng, nàng luôn nghĩ về người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ
của nàng, chồng luôn ở bên cạnh, vợ chồng như hình với bóng. Vũ Nương Chỉ
vì muốn con vui, muốn bớt buồn, và giải khuây khi sống cô đơn vò võ nuôi con.
Chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống
vắng cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ từ trò chơi này làm tan nát đời nàng, không
ngờ một lời nói đùa trong thương nhớ lại trở thành sợi dây vô tình, oan nghiệt
thắt chặt cuộc đời nàng. Chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi bất hạnh, tủi
nhục. Chính vì cái bóng mà nàng đã mất chồng, Đản đã mất mẹ
Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải
được kể trước khi Trương Sinh trở về. Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa
đến như vậy. Đã ém nhẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén ra ở một vị
trí thích hợp đã gây ra bão giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn
được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh nổ bùng. Thú vui nghi
gia nghi thất, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ
Nương trong phút chốc trở nên hoàn toàn tan vỡ. Cái bóng không là một nhân
vật nhưng nó lại tham gia đắc lực vào câu chuyện, nó trở thành một chi tiết nghệ
thuật đắt giá khiến câu chuyện hấp dẫn người đọc. Chính cách thắt nút và mở
nút câu chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm
oan ức và giá trị tố cáo xã hội nam quyền đầy bất công với phụ nữ càng thêm sâu sắc. 53
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao, người thiếu
phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm đến cái chết để giãi bày tấm
lòng trong trắng của mình.
Người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội
phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ trọng nam khinh nữ
vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp ngoan hiền thì họ lại càng đau khổ, lại càng
phải chịu nhiều sự chèn ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy
giờ "hồng nhan bạc phận". Đớn đau thay số phận của nàng. Nàng đã gieo mình
xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi
kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà đạp phũ phàng.
Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen
tuông ích kỷ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc
dung túng cho sự độc ác hủ bại. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư
tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình.
Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai
dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh!
Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam
vào hình tượng Vũ Nương. Khi thì cách xử thế, khi thông qua lời nói, khi hành
động, khi thái độ, hình ảnh Vũ Nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ
chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự
trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Đó là lời nhắn nhủ.
Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số phận con người. Hãy tôn
vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương đến
hạnh phúc đôi lứa và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh
phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ
nhận đáng tiếc. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh 54
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
phúc cho được lâu bền lại càng là một điều khó khăn hơn. Đó là tất cả ý nghĩa
mà chúng ta có thể nhận ra được từ: “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét
xã hội phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi. Thời đại phong kiến
trọng nam khinh nữ, đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị ảnh hưởng và phải
chịu đựng nhiều nhất chính là người phụ nữ. Thế nhưng, những người phụ nữ
ấy vẫn luôn xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và hết mực quan tâm đến
mọi người xung quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh của họ qua các tác phẩm
văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến
suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong
lận đận. Có lẽ vì thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hôm nay.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 9
Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt
Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người
con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương - một đại diện cho hình
ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng
lại gặp nhiều đau khổ.
Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân có “tư dung tốt đẹp”. Nàng
được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới
về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền
đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm
“con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn
giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hòa. Cuộc sum vầy chưa
được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén
rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám 55
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang
theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không
phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui.
Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền
gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối
với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua
đời bà đã nhắn nhủ : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi
tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã
chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt
lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để
nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái
bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con
nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người
luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng
khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh
về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói
của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc
vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng.
Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột
cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bản
thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với
cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ
Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn
bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở
thành “lời chung” - như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :
“Đau đớn thay phận đàn bà, 56
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với
nữ nhi. ơ đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả
giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không
được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi
oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại
không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi
oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi
đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã
dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những
đau khổ không gì sánh được.
Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự:
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”
Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số
phận của người phụ nữ - “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ
rơi vào đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay
không họ cũng phải chấp nhận.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số
phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non”
Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người
phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như 57
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng,
những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng
thỏa hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết
để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điều kiện phát triển.
Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi
không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 10
Người phụ nữ trong xã hội xưa, họ phải sống trong những lễ giáo phong kiến.
Cuộc đời của họ phải chịu nhiều khổ cực, bất hạnh. Nguyễn Du đã từng bộc lộ:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Trong những tác phẩm văn học thời viết về người phụ nữ phải kể đến “Chuyện
người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng Vũ Nương đã trở thành một
trong những hình ảnh tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ xưa.
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có
tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu
mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết
chồng là một người hay ghen, nàng luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình
hòa thuận. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con
trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết
lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng
minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh
cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan cho vợ,
Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện. 58
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy
được hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp ở bên ngoài mà còn mang những nét
đẹp bên trong tâm hồn. Đó là một người vợ hết mực hiểu chuyện, lễ nghĩa. Biết
chồng có tính hay nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng nàng vẫn không tủi
thân mà cố gắng sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi chồng phải đi
lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang
quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”.
Người vợ nào mà không mong muốn chồng mình được thành danh, nhưng đối
với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó chính là một khát
khao hết sức bình dị, thiết thực của người phụ nữ luôn mong muốn có được hạnh phúc.
Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ
nhưng lại gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ
con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai,
nàng đã hết lời khuyên bảo. Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm
việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con
dâu nào được như Vũ Nương. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ
nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ
cái bóng chính là cha của mình. Sau khi đi lính trở về, tưởng rằng giờ đây cuộc
sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh.
Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm
mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha
đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông
lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến
Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở
về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc. Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết 59
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của
mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ xinh đẹp mà bạc mệnh.
Chỉ vì lời ngây thơ của con trẻ, sự đa nghi của chồng mà phải tìm đến cái chết.
Nhưng Vũ Nương không chết thật, nàng được đức Linh Phi cứu và sống ở thủy
cung. Khi gặp lại Phan Lang - một người sống cùng làng tình cờ cũng được
Linh Phi cứu thoát chết dưới thủy cung liền giãi bày nỗi oan khuất của mình.
Nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng
Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt
cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Lúc bấy giờ, Trương Sinh đã
hiểu rõ mọi chuyện, bèn lập đàn giải oan cho nàng, Vũ Nương hiện về thăm lại
hai cha con. Dường như kết thúc của câu chuyện mà tác giả xây dựng đã thể
hiện được niềm cảm thông và mong muốn về một cuộc sống hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.
Cuộc đời của Vũ Nương, vốn đã không được lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Mà
nàng phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy” của tư tưởng Nho giáo. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp
nhiều bất hạnh. Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh
cũng góp phần cho sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của
chồng cũng khiến nàng phải tìm đến cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khuất.
Tất cả những nguyên nhân ấy đã khiến cho cuộc đời của nàng trở nên bất hạnh
hơn hết. Trong một xã hội đầy bất công vốn “trọng nam khinh nữ”, nàng Vũ
Nương chỉ còn biết cam chịu và nhẫn nhục, nàng chẳng thể phản kháng lại cái
xã hội bất công ấy. Để rồi cuối cùng phải lựa chọn cái chết chứng minh cho sự
trong sạch của bản thân. Thông qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã tố cáo
xã hội phong kiến khắt khe, vô nhân đạo đã gây ra bao bất công cho người phụ nữ. 60
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Tóm lại, qua nhân vật Vũ Nương, người đọc thêm hiểu hơn về thân phận người
phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Từ đó chúng ta thêm yêu thương, trân trọng hơn họ.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua
nhân vật Vũ Nương
Nguyễn Dữ là một nhà nho sống vào thế kỉ XVI, nổi tiếng với tập văn xuôi viết
bằng chữ Hán: Truyền kì mạn lục. Trong tác phẩm này, nhà văn tập trung phản
ánh hiện thực của xã hội thời phong kiến Việt Nam thời bấy giờ đầy bất công,
đen tối, chiến tranh liên miên, gây đau khổ cho dân lành. Đồng thời ông cũng
cất lên tiếng thở dài ngao ngán, đông cảm xót thương cho cuộc đời éo le, bất
hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tiêu biểu là tác phẩm “Chuyện
người con gái Nam Xương” với nhân vật Vũ Nương, một người phụ nữa nết na,
hiền lành, đức hạnh nhưng cuộc đời lại chịu nhiều oan khuất, đắng cay, tủi nhục.
Trong kiệt tác Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du cũng đã từng kêu lên:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Sống trong xã hội phong kiến ngày xưa, cuộc đời người phụ nữ thời long đong,
lận đận, gặp nhiều cảnh ngộ đắng cay. Cho nên không biết bao nhiêu nhà thơ đã
cất lên tiếng thở dài ngao ngán đồng cảm xót thương cho cuộc đời éo le, bất
hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Với Chuyện người con gái Nam Xương,
Nguyễn Dữ, một nhà văn tài hoa, mang trong mình trái tim nhân đạo bao la
rộng lớn cũng đã góp một tiếng nói bênh vực người phụ nữ. 61
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời khổ đau và số phận bi thảm của nhân vật Vũ
Nương. Vũ Nương một người phụ nữ nết na, hiền lành, đức hạnh nhưng cuộc
đời lại chịu nhiều oan khuất, đắng cay, tủi nhục.
Vũ Nương là người con gái đức hạnh, thủy chung với chồng, tận tụy với con và
hiếu thuận với cha mẹ. Đức hạnh của nàng không những được hàng xóm ghi
nhận mà còn khiến cho thần linh phải cảm động.
Trương Sinh mến vì dung hạnh, vậy nên không tiếc bạc tiền, xin với mẹ đem
trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ
phòng ngừa quá sức” nên “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc
nào vợ chồng phải đến bất hòa”.
Khi chiến tranh xảy ra, Trương Sinh dù là con một nhưng vẫn bị bắt đi lính. Khi
tiễn chồng, nàng ân cần dặn dò chồng. Nàng không mong chồng “đeo được ấn
phong hầu, áo gấm trở về quê cũ” cho cha mẹ rỡ ràng, bản thân mình thì được
sống trong cảnh giàu sang, phú quý mà chỉ mong ngày về “mang theo được hai
chữ bình yên” để vợ chồng sớm được sum vầy, vui hưởng hạnh phúc. Lời dặn
dò chân thành, tha thiết thể hiện tấm lòng yêu thương chồng của Vũ Nương. Đối
với nàng, mạng sống của chồng mới là quan trong còn như chuyện công danh
phú quý nàng đâu màng nghĩ tới.
Rồi trong những ngày chồng đi vắng, nàng luôn sống trong nỗi cô đơn, mòn
mỏi đợi chờ, ngày đêm thương nhớ chồng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn
mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”, lòng
xót xa quặn thắt, “thổn thức tâm tình thương người đất thú” phải vất vả nơi biên
ải xa xôi. Chiến tranh dai dẳng triền miên, dẫu nàng có nhớ có thương, thư tín
ngàn hàng thì cũng không dễ gì đến được tay chàng. 62
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Khi chồng ra đi, nàng ở nhà làm tròn bổn phận vợ hiền dâu thảo, sớm tối phụng
dưỡng mẹ chồng, một mình nuôi dạy con thơ đúng như lời Đặng trần Côn đã
từng miêu tả trong “Chinh phụ ngâm khúc”:
“Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân”
Gánh nặng gia đình đè lên vai nhỏ bé. Dù trăm bề vất vả nhưng nàng không một
lời than vãn. Mẹ chồng ốm đau bệnh hoạn nàng “hết sức thuốc thang, lễ bái thần
phật và lấy lời ngọt ngào, khuôn khéo khuyên lơn”. Đến khi người mất “phàm
việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Chính mẹ chồng
nàng lúc sinh thời cũng ghi nhận tấm lòng thơm thảo hiếu kính ấy mà bảo rằng:
“Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu
đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Là người phụ nữ nết na đức hạnh, đảm đang, tháo vát, thương chồng thương con,
thủy chung son sắt khiến cho người ta phải đem lòng kính phục. Thế nhưng tiếc
thay người con gái nết na, hiền lành, đức hạnh ấy không được hưởng một cuộc
sống êm đềm, hạnh phúc mà phải gánh lấy số phận bi thảm:
Khi Trương Sinh trở về, vợ chồng chưa vui câu sum họp, hưởng trọn ái ân cho
bõ những ngày tháng xa cách thì bỗng đâu tai họa bất ngờ ập tới. Chỉ vì một
phút nông nổi, hồ đồ, tin lời trẻ con, chưa tra rõ thực hư mà Trương Sinh đã một
mực nghi ngờ, vu oan cho vợ mình ở nhà thất tiết khiến cho hạnh phúc gia đình tan vỡ.
Lời nói vu vơ của bé Đản làm dấy lên nỗi hoài nghi của trương Sinh bấy lâu:
“trước đây thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi,
mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” đã làm máu ghen
tuông trong lòng chàng liền bộc phát, bản tính đa nghi hồ đồ. Trương Sinh
chẳng thèm nghĩ đến chuyện hỏi han vợ cho tường tận mọi lẽ mà cứ “đinh ninh 63
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
là vợ hư”, coi thường đạo nghĩa vợ chồng, nỡ sinh lòng phản trắc, dan díu tư
tình với người khác trong những ngày mình đi vắng.
Vậy nên vừa “về đến nhà, chàng đã la um lên cho hả giận”. Chỉ thương cho Vũ
Nương bỗng dưng phải chịu hàm oan, bị chồng coi thường khinh rẻ. Muốn níu
giữ hạnh phúc gia đình và để cho chồng hiểu rõ lòng mình, nàng hết lời phân
trần, biện bạch: nào là “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, chàng biền biệt nơi
biên ải xa xôi, nàng ở nhà làm tròn bổn phận vợ hiền dâu thảo. Chàng đi rồi
nàng đâu thiết gì đến việc “điểm phấn tô son” làm đẹp bản thân mình; những
“nơi liễu ngõ tường hoa” ong bướm trai gái dập dìu, cũng “chưa từng bén gót”.
Suốt ngày chỉ thui thủi trong nhà giữ gìn tiết hạnh thì làm sao “có chuyện mất
nết hư thân như chàng đã nói”.
Lời lẽ phân trần rất mực đoan chính, hợp tình hợp lí. Lại thêm có mọi người
xung quanh chứng giám. Chỉ tiếc rằng Trương sinh vì quá đa nghi, nông nổi, hồ
đồ và ích kỉ nên không thấu được nỗi oan tình của vợ. Trương Sinh đã tàn nhẫn
mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi nàng ra khỏi nhà mà không hề nghĩ đến nghĩa
vợ chồng. Nghĩ rằng hạnh phúc gia đình đã tan vỡ, không thể nào cứu vãn được
nữa nên nàng chỉ biết ngậm ngùi chua xót than thở, tiếc cho mối lương duyên
giờ đây như “bình rơi, trâm gãy, mưa tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió,… đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”.
Rồi trong cơn đau đớn, tuyệt vọng, Vũ Nương quyết định trầm mình nơi bến
sông Hoàng giang, quyết dùng cái chết để rửa sạch nỗi oan tình, chứng tỏ lòng
dạ ngay thẳng. Trước khi chết nàng ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc
mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm
cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi 64
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Quả là lời lẽ bi ai thống thiết, đau đớn như đứt từng khúc ruột khiến ta đọc xong
cũng cảm thấy xót xa thương cảm cho người con gái nết na đức hạnh mà không
được hưởng cuộc sống bình yên hạnh phúc. Suốt đời nàng phải chịu nỗi hàm
oan, tiếng nhơ không rửa, hạnh phúc tuổi xuân phút chốc bị chôn vùi, tấm thân
ngà ngọc phải chìm sâu nơi biển cả. Than ôi, cái giá của ba năm thủ tiết chờ
chồng, vất vả phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con thơ, sống cô đơn mòn mỏi đợi
chờ chính là người bị người chồng đầu ấp tay gối lớn tiếng vu oan, đánh đập,
đuổi xua, đẩy mình đến bước đường cùng, phải tìm đến cái chết oan nghiệt.
Dù sau này, Trương sinh có hiểu ra sự tình, Vũ Nương được trở về trần gian.
Nhưng nàng trở về là để nói rõ oan tình và từ biệt vĩnh viễn chốn dương gian.
Cái dương gian lạnh lẽo tình người ấy đã không còn chỗ để người tốn đẹp và
thẳng ngay như nàng dung thân nữa rồi.Quả là thật cay đắng, tủi nhục và cũng
thật bất công biết bao nhiêu!
Cuộc đời và số phận thảm khốc của Vũ Nương đã khiến cho bao người cảm
động. Vua Lê Thánh Tông lúc đi ngang qua miếu thờ Vũ thị, nhớ lại chuyện
xưa, xót thương người bạc mệnh mà khéo trách Trương Sinh rằng:
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.” 65
Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
(Lại viếng Vũ thị)
Có thể nói, cuộc đời và số phận bi thảm của nàng Vũ Nương cũng là cuộc đời
và số phận bi thảm của biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương
thời. Một xã hội trọng nam khinh nữ đầy rẫy bất công thối nát. Trong xã hội ấy
người phụ nữ càng tài sắc, nết na đức hạnh thì càng phải chịu nhiều khổ đau oan
trái, bị oan mà không thể nói lời phân trần giải oan. Số phận của họ hoàn toàn
do người khác định đoạt.
Khi người chồng đã lớn tiếng phán xét họ là người đàn bà thất tiết, họ chỉ có ba
lựa chọn. Hoặc là rời bỏ xứ sở mà đi xa, suốt đời mang tiếng nhuốc nhơ. Hoặc
nương nhờ nơi chốn từ bi, sống cho qua ngày đoạn tháng (Thị Kính). Hoặc
dùng cái chết của mình chứng minh tấm lòng trong sạch thủy chung (Vũ
Nương). Con đường nào cũng đưa người phụ nữ tới cảnh đoạn trường, đau khổ.
Sống trong xã hội đó quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ bị chà đạp,
vùi dập không thương tiếc.
Qua Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã mạnh mẽ tố cáo những
hủ tục xã hội khắt khe và nói lên số phận bất hạnh, bi thảm của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến đương thời đồng thời thể hiện sự trân trọng của ông đối
với những phẩm chất cao đẹp của họ. 66