



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ ----------- ----------- BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ NGOẠI GIAO & CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
Đề tài: Tác động của cục diện thế giới và khu vực đến mặt trận ngoại
giao & chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1954-1975
Sinh viên thực hiện: Vũ Thu Ngân Mã sinh viên: 2056100030
Lớp: Thông tin đối ngoại 40
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế
Hà Nội – tháng 12 năm 2022
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ ----------- ----------- BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ NGOẠI GIAO & CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
Đề tài: Tác động của cục diện thế giới và khu vực đến mặt trận ngoại giao
& chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1954-1975
Sinh viên thực hiện: Vũ Thu Ngân Mã sinh viên: 2056100030
Lớp: Thông tin đối ngoại 40
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế
Hà Nội – tháng 12 năm 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................5
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..................................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................5
5. Kết cấu tiểu luận:........................................................................................................5
NỘI DUNG.........................................................................................................................6
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỐI NGOẠI, NGOẠI GIAO VÀ LỊCH SỬ ĐẤU 
TRANH NGOẠI GIAO CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM..............................................6
1.1 Một số khái niệm và khái lược lịch sử đấu tranh ngoại giao.........................6
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại................................................................8
1.3 Quan điểm và chủ trương của Đảng về đấu tranh ngoại giao trong cuộc 
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.................................................................................15
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC GIAI ĐOẠN 1954-1975.16
2.1 Tình hình thế giới............................................................................................16
2.2 Bối cảnh khu vực.............................................................................................18
CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CỤC DIỆN THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC ĐẾN 
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975..............................22
3.1 Đường lối đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1954-1975..... ...............................22
3.2 Những thắng lợi trong đường lối đối ngoại và trên mặt trận ngoại giao 
Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Bài học kinh nghiệm................................................29
CHƯƠNG 4: ĐẢNG TA TIẾP TỤC KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN VÀ VẬN DỤNG 
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI ................................................................................................31
KẾT LUẬN......................................................................................................................34 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử 
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng 
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, 
tổng hợp và khái quát hóa… 5. Kết cấu tiểu luận:
Chương 1: Lý luận về đối ngoại, ngoại giao và lịch sử đấu tranh ngoại
giao của cách mạng Việt Nam. .
Chương 2: Tình hình thế giới và khu vực giai đoạn 1954-1975.
Chương 3: Tác động cục diện thế giới và khu vực đến chính sách đối 
ngoại Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
Chương 4: Đảng ta tiếp tục kế thừa, phát triển và vận dụng những bài 
học kinh nghiệm vào công tác xây dựng đường lối đối ngoại thời kỳ  đổi mới. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỐI NGOẠI, NGOẠI GIAO VÀ LỊCH SỬ 
ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
1.1 Một số khái niệm và khái lược lịch sử đấu tranh ngoại giao. Một số khái niệm
Đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm riêng biệt tuy gắn bó chặt chẽ với 
nhau, nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định. 
Đối ngoại là toàn bộ mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, nguyên tắc, 
phương châm, biện pháp mà quốc gia theo đuổi trong quan hệ với các quốc gia
khác hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế nhằm phục vụ cho lợi ích của  quốc gia.
Còn ngoại giao được hiểu là: Là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực 
đối ngoại, ngoại giao là công cụ quan trọng nhất, công cụ hòa bình thực hiện 
chính sách đối ngoại của quốc gia; Là tất cả các cơ quan chuyên trách về quan 
hệ đối ngoại ở trung ương cũng như ở nước ngoài và những cán bộ làm công 
tác ngoại giao nhà nước; Là nghề nghiệp của các nhà ngoại giao; Là khoa học 
và nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật đàm phán; Mang tính giai cấp sâu sắc.
Lịch sử đấu tranh ngoại giao.
Đấu tranh ngoại giao là một trong những nội dung quan trọng, xuyên suốt 
chiều dài lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, góp phần giữ yên bờ cõi, 
bảo vệ nền độc lập, khẳng định chủ quyền quốc gia. 
Nghệ thuật đấu tranh ngoại giao Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử 
với các giai đoạn: Từ thời kỳ Bắc thuộc, đến khi các vua Hùng dựng nước, tiếp
đó là thời kỳ xuất hiện các nhà nước phong kiến tự chủ đến khi Đảng Cộng sản
Việt Nam thành lập dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch  . 
Hồ Chí Minh Với chiều dài 
lịch sử hàng nghìn năm, trải qua sự trị vì, cai quản của các triều đại phong kiến
Việt Nam từ nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đến nhà Hồ, Lê Sơ, Mạc, Tây 
Sơn và nhà Nguyễn, nghệ thuật ngoại giao của nước ta được nghiên cứu, phát 
triển, vận dụng khá hiệu quả, trở thành nội dung cốt lõi, xuyên suốt, đóng góp 
quan trọng vào bảo vệ, khẳng định nền độc lập, tự chủ, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc không bị đồng hóa bởi sự thống trị của các nền văn hóa ngoại bang.
Truyền thống ngoại giao Việt Nam có những đặc điểm rất đáng tự hào, 
kiên định chủ trương “nội yên ngoại tĩnh”, thể hiện tinh thần hòa bình, hữu 
nghị, nhân văn, thân thiện với láng giềng, ngoại giao tâm công, lấy lẽ phải, 
công lý và chính nghĩa để thuyết phục lòng người. Cùng với đấu tranh trên mặt
trận quân sự, nhân dân ta còn linh hoạt vận dụng các chính sách ngoại giao 
mềm dẻo, khôn khéo nhưng thông minh,cứng rắn; khẳng định tư duy, trí tuệ, 
hào khí của một dân tộc không chịu khuất phục, không chịu làm chư hầu, lệ 
thuộc, bảo đảm “trong ấm, ngoài êm”, giữ yên bờ cõi. Các chính sách ngoại 
giao của nước ta được thực thi một cách thiên biến vạn hóa, đa dạng, phù hợp 
với từng thời kỳ lịch sử, mang đậm nét đặc trưng, bản sắc văn hóa dân tộc, sắc 
thái chính trị của mỗi chế độ, triều đại phong kiến Việt Nam, nhưng đều nhằm 
giữ vững độc lập, tự chủ, ngăn chặn họa xâm lăng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, 
xây dựng nền thái bình lâu bền cho nhân dân.
Trong bản sắc của ngoại giao Việt Nam, tinh thần độc lập, tự cường và bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc là nguyên tắc bất biến. Đây được xem 
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử, xuất phát từ tinh thần yêu nước của 
dân tộc - không trông đợi vào bên ngoài, mà phải dựa vào chính mình để bảo 
vệ lợi ích chân chính của đất nước, dân tộc.
Kiên quyết, kiên trì, vừa đánh vừa đàm, biết thắng từng bước để đạt thắng 
lợi cuối cùng, cũng là một trong những bản sắc truyền thống nổi bật của ngoại 
giao Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do đặc 
điểm là quốc gia nhỏ, Việt Nam liên tục phải đấu tranh, đương đầu với các đế 
chế hùng mạnh gấp nhiều lần, luôn lăm le xâm chiếm..., do đó, cần biết thắng 
từng bước để đạt thắng lợi cuối cùng. 
Ngoại giao Việt Nam luôn vì sự phát triển phồn vinh của dân tộc, điều này 
được chứng minh qua việc: Các hoạt động ngoại giao không chỉ phục vụ mục 
đích chính trị, quân sự, đấu tranh giữ vững độc lập, tự chủ của dân tộc, bảo vệ 
chủ quyền, lãnh thổ đất nước, bảo toàn thể diện quốc gia, kiến tạo hòa bình cho
dân tộc, mà còn góp phần mở rộng các mối quan hệ giao lưu thương mại, tiếp 
nhận những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại.
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.
Là người khai sinh ra nền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng 
hòa, ngày nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tư tưởng ngoại 
giao Hồ Chí Minh hình thành và phát triển gắn liền với toàn bộ sự nghiệp hoạt 
động cách mạng của Người. 
Tư tưởng đối ngoại và đoàn kết quốc tế của Người đã thể hiện nổi bật 
trong hệ thống các tác phẩm báo chí, các bức thư, các lời kêu gọi, các tác phẩm 
chính luận của Người. Các quan điểm đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát 
triển, hoàn thiện được thể hiện tập trung trong “Đường cách mệnh” (1927), 
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930), Chương trình 10 điểm của mặt 
trận Việt Minh (1944), Tuyên ngôn Độc lập (2.9.1945), thể hiện tập trung nhất 
trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong văn kiện Đại hội, Nghị
quyết của Trung ương, nghị quyết của Bộ chính trị từ 1930 đến nay.
Thực tiễn hoạt động cách mạng cùng nền tảng tri thức và vốn văn hóa đã
kết tinh ở Hồ Chí Minh hệ thống tư tưởng toàn diện, sâu sắc. Trong đó, tư
tưởng của Người về đối ngoại chứa đựng nhiều nội dung không chỉ bền vững
qua thời gian, mà còn có những tư duy đi trước thời đại; thể hiện ở những điểm sau:
Một là, phải độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hợp tác quốc tế
Độc lập, tự chủ là tư duy nổi bật, nhất quán trong toàn bộ hoạt động
chính trị của Hồ Chí Minh, nguyên lý chủ yếu của tư tưởng đó là “muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Giữ vững độc lập, tự chủ
vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia
- dân tộc. Đường lối và nguyên tắc đó cũng được kết tinh trong tư tưởng và
thực tiễn hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh.
Theo Người, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi,
giáo điều; tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu
trách nhiệm trước nhân dân, trước đất nước, biết làm chủ bản thân và công
việc. Trong quan hệ quốc tế, Người khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi
điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài
vào”; và nhấn mạnh: “Độc lập mà không có quân đội riêng, ngoại giao riêng,
kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”.
Như vậy, dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất không chỉ là toàn
vẹn về lãnh thổ mà ngoại giao, đối ngoại của dân tộc cũng phải độc lập, không
bị bất kỳ thế lực, lực lượng nào chi phối. Trong quan hệ giữa các đảng thuộc
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “Các đảng dù lớn dù
nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”.
Người cũng đã thể hiện rất cụ thể và sâu sắc mối quan hệ biện chứng, sự
gắn kết giữa độc lập, tự chủ với mở rộng và tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc
tế; giữa tự lực, tự cường với hợp tác và phát triển. Trong mối quan hệ biện
chứng đó, “độc lập, tự chủ” luôn giữ vai trò quyết định, là nền tảng vững chắc
để đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới.
Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của khối đại 
đoàn kết toàn dân. Đây là những nhân tố đặc biệt quan trọng trong ngoại giao 
với các nước lớn, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,
không phải bao giờ yếu tố ngoại lực và nội lực cũng được nhận thức một cách 
đầy đủ. Sự sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức cũng dẫn đến sự trì trệ trong  quá trình phát triển.
Phát huy sức mạnh nội lực trước hết là phát huy sức mạnh của tập thể, 
cộng đồng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn lực nội sinh
quan trọng, nó luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược 
của Đảng trong chiến tranh cũng như trong đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất 
nước. Sức mạnh thời đại là những yếu tố “ngoại lực”; có tác dụng hỗ trợ, bổ 
sung cho “nội lực”, là điều kiện không thể thiếu trong chiến lược đối ngoại 
của Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng, cần phải đưa phong trào giải phóng 
dân tộc Việt Nam đi theo quỹ đạo cách mạng vô sản, đưa dân tộc Việt 
Nam hội nhập với trào lưu chung của thời đại. 
Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 
hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con 
người. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta không tách rời mà gắn liền với cuộc 
đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân 
chủ và tiến bộ xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã 
trở thành quy luật của cách mạng Việt Nam, góp phần làm cho Việt Nam trở 
thành nước độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, sức mạnh thời đại 
còn bao hàm cả hòa bình. Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại khi kết hợp 
sẽ tạo ra nguồn lực to lớn, góp phần đưa cách mạng vượt qua khó khăn,  thách thức.
Trên cơ sở xác định vị trí, vai trò của từng nguồn sức mạnh, Người chỉ
rõ sự cần thiết phải chú trọng xây dựng và phát huy sức mạnh của công tác đối
ngoại nhân dân nhằm vận động được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế
giới ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của
Đảng và nhân dân Việt Nam. Bởi như Người khẳng định: “Sức mạnh, sự vĩ đại
và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt
Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới...”.
Ba là, luôn yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh xâm lược
Tư tưởng yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh xâm lược được thể
hiện từ rất sớm và luôn nhất quán trong suốt quá trình hoạt động cách mạng
của Người. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết Thư
gửi những người Pháp ở Đông Dương (tháng 10-1945), thể hiện sự kính trọng
đối với nhân dân Pháp, nêu lên những điểm tương đồng giữa hai dân tộc Việt -
Pháp là khát vọng độc lập, tự do và kêu gọi: “Hỡi những người Pháp ở Đông
Dương! Các bạn không nghĩ rằng máu nhân loại đã chảy nhiều, rằng hòa bình -
một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ - phải
thay cho chiến tranh, rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các
nước không phân biệt chủng tộc và màu da ư?”.
Ngay cả khi phải tiến hành cuộc chiến tranh một mất một còn với đế
quốc thực dân để giành độc lập dân tộc, Người cũng luôn tìm kiếm những cơ
hội đối thoại, đàm phán để tránh một cuộc chiến bạo lực phi nghĩa.
Bốn là, luôn có tinh thần hòa hiếu, “thêm bạn, bớt thù”
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ
giữa bạn và thù, tìm cách giảm bớt kẻ thù, tránh đối phó với nhiều kẻ thù cùng
một lúc, xác định kẻ thù chính để tập trung mũi nhọn đấu tranh. Người khẳng
định: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù,
phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”. Để “thêm bạn, bớt thù”, Người chủ
trương phân biệt giữa nhân dân yêu chuộng hòa bình với lực lượng phản động,
hiếu chiến trong chính phủ của nước đối phương. Trả lời phỏng vấn của nhà
báo Ôxtrâylia W.Bớcsét tháng 8-1963 và tháng 4-1964, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt thực dân Pháp với nhân dân
Pháp yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân
dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và bọn quân phiệt ở
Hoa Thịnh Đốn đang nâng đỡ chúng”; “... chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ
với đế quốc Mỹ.”(11).
Như vậy, trong lực lượng của đối phương thì “thêm bạn” chính là “bớt
thù”, khi đó nhân dân Việt Nam chỉ phải chống chính phủ hiếu chiến của Pháp
và Mỹ chứ không phải chống toàn bộ nước Pháp và nước Mỹ. Tương quan lực
lượng vì thế đã xoay chuyển theo chiều hướng có lợi cho ta. Trong khi kẻ thù
bị cô lập trên thế giới và ngay trong nội bộ đất nước mình thì sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam lại được cả nhân
loại, kể cả nhân dân nước đi xâm lược - vượt lên tình cảm dân tộc - hết mình ủng hộ.
Năm là, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Tiếp cận với bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và 
vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh thấy được sự cần thiết phải liên hiệp 
giữa các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. 
Với trách nhiệm của người cộng sản chân chính, Người đã nêu rõ nguyên nhân 
đầu tiên gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông là “Sự biệt lập” - hậu 
quả của chính sách “chia để trị” của bọn thực dân đế quốc. Người chỉ ra: “Sẽ rất 
có ích cho người An Nam biết bao, nếu họ được biết những người anh em Ấn 
Độ của họ tự tổ chức như thế nào để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Anh, 
hoặc biết công nhân Nhật Bản đoàn kết nhau lại như thế nào để chống lại ách 
bóc lột của chủ nghĩa tư bản...”.
Người kiến nghị với Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản những biện 
pháp nhằm tăng cường sự hiểu biết giữa các dân tộc ở phương Đông. Vì theo 
Người: “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, 
hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông
tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô  sản”.
Trên báo L’Humanite (ngày 2/8/1919), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “... Xét
về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế 
và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường.”
Năm 1921, Người chủ trì và sáng lập tổ chức Hội liên hiệp thuộc địa và 
xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria). Trong lời kêu gọi thành lập Hội, 
Người viết: Đồng bào thân mến, nếu câu phương ngôn “Đoàn kết làm ra sức 
mạnh” không phải là một câu nói suông, nếu đồng bào muốn giúp đỡ lẫn nhau, 
nếu đồng bào muốn bênh vực cho quyền lợi của bản thân mình, cũng như quyền 
lợi của tất cả đồng bào ở các xứ thuộc địa, hãy gia nhập Hội liên hiệp thuộc địa”.
Hội này và báo Le Paria- tờ báo đầu tiên trên thế giới lấy đối tượng phục 
vụ là các dân tộc thuộc địa - đã góp phần tích cực thức tỉnh các dân tộc thuộc địa
Pháp đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện đoàn kết quốc 
tế. Trong thời kỳ hoạt động tại Trung Quốc, Người đã cùng các đồng chí Trung 
Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Inđônêxia, Miến Điện... thành lập Hội Liên hiệp các 
dân tộc bị áp bức (1925) nhằm đoàn kết các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức trong một
tổ chức cách mạng vì mục tiêu giải phóng đất nước khỏi ách thực dân.
Trong những năm 1938 - 1940, Hồ Chí Minh hoạt động và chiến đấu bên 
cạnh nhân dân Trung Quốc do Đảng Trung Quốc lãnh đạo. Hoạt động này của 
Người đã gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc, tạo cơ sở vững 
chắc cho quan hệ đoàn kết Việt -Trung.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Bác Hồ đã dành thời 
gian suy nghĩ đến việc mở rộng quan hệ quốc tế nhằm phát triển kinh tế-xã hội 
đất nước. Việc đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ đến là cử cán bộ học tập 
khoa học-kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài...
Song tư tưởng chiến lược kinh tế mở được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập 
tập trung, đầy đủ và rõ ràng nhất trong bức thư “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” 
(tháng 12/1946), với những nội dung chính: “Đối với các nước dân chủ, nước 
Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: 
Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà 
kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; Nước Việt Nam 
sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán 
và quá cảnh quốc tế; Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác 
kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc; Nước Việt Nam sẵn sàng ký
kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc 
những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng 
một vài căn cứ hải quân và không quân.” Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các dân 
tộc phải mở cửa giao lưu, quan hệ bình đẳng, cùng có lợi và phê phán tư tưởng 
biệt lập giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Từ 1954 trở đi, Người dành nhiều sự quan tâm và đóng góp tích cực trong
việc xây dựng khối đoàn kết giữa các thuộc địa ở châu Á là Việt Nam, Ấn Độ, 
Inđônêxia, Miến Điện... đặc biệt là khối đoàn kết giữa ba nước Đông Dương là 
Việt - Miến - Lào. Suốt quá trình cách mạng, với những quan điểm trên, đã thể 
hiện tư duy nhìn xa trông rộng của Bác Hồ.
Thời gian này, mặc dù tình hình thế giới diễn biến phức tạp, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh vẫn cố gắng tìm cách mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế 
giới để vừa tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn cho sự nghiệp xây 
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời, cũng để xây dựng mặt trận nhân 
dân thế giới ủng hộ Việt Nam đấu tranh thống nhất đất nước.Với tư duy của một 
lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách đối ngoại đúng 
đắn với các nước làm cơ sở cho việc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện  nay và sau này.
Sáu là, nhất quán phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong hoạt động đối ngoại.
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” là câu nói được Hồ Chí Minh nêu lên lần đầu
tiên vào ngày 31-5-1946, khi Người trao nhiệm vụ thiêng liêng giữ gìn nền độc
lập của Tổ quốc vừa giành lại được cho cụ Huỳnh Thúc Kháng; Người căn
dặn: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó
khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho, mong Cụ “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” là lấy cái không thể thay đổi (bất biến) để
ứng phó với muôn sự thay đổi (vạn biến). Theo đó, cái “bất biến” là lợi ích của
quốc gia, dân tộc, độc lập dân tộc, chủ quyền... là cốt lõi; cái “vạn biến” là
cách ứng phó tài tình, khéo léo, linh hoạt, kết hợp hài hòa giữa mềm dẻo và
kiên quyết, giữa chiến lược và sách lược, giữa cương và nhu, giữa chủ động và
sáng tạo trong những tình huống cụ thể. Để thực hiện “ứng vạn biến”, điều
quan trọng là phải đánh giá đúng tình hình quốc tế và sự tác động đối với nước
ta, cả mặt thuận và khó khăn. 
1.3 Quan điểm và chủ trương của Đảng về đấu tranh ngoại giao trong 
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong tình hình đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, Đảng và 
Chính phủ đề ra cho cách mạng mỗi miền những nhiệm vụ chiến lược phù hợp 
với đặc điểm tình hình và yêu cầu của cách mạng từng miền, nhằm chấm dứt 
tình trạng đất nước bị chia cắt. 
Ở miền Bắc, sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, cuộc cách mang 
dân tộc dân chủ nhân dân căn bản hoàn thành, Đảng chủ trương chuyển sang 
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước khi bắt đầu những nhiệm vụ xây dựng chủ 
nghĩa xã hội, miền Bắc phải trải qua giai đoạn đấu tranh đòi phía Pháp thi hành 
nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, tiếp quản vùng mới giải phóng, hoàn thành 
cải cách ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội còn nhằm xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của 
cả nước và là hậu phương cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn  dân tộc. 
Ở miền Nam, do vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay 
sai, Đảng chủ trương tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mở đầu
thời kỳ ta đấu tranh đòi Mỹ-Diệm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ 
1954 về Việt Nam. Trong quá trình diễn biến, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng dân 
tộc chống cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, nhằm giải phóng 
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, phối hợp với cuộc chiến đấu của nhân dân hai  nước Lào và Campuchia... 
Hai miền đồng thời thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách 
mạng cả nước là đánh Mỹ và bọn tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, bảo 
vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, 
thống nhất đất nước, tạo điều kiện để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần 
bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới. Trong việc thực hiện những nhiệm 
vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả nước, cách mạng mỗi miền có vị trí và vai
trò khác nhau. Miền Bắc là hậu phương, có vai trò quyết định nhất đối với sự 
phát triển của toàn bộ cách mạng cả nước và sự nghiệp thống nhất đất nước. 
Miền Nam là tiền tuyến có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách 
thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. 
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC GIAI ĐOẠN 1954- 1975. 2.1 Tình hình thế giới. 
Ngoại giao có vài trò rất quan trọng trong giai đoạn 1954-1975, cũng chính
là thời kỳ diễn ra cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với chủ trương “vừa đánh vừa 
đàm”, ngoại giao kết hợp với quân sự, chúng ta đã từng bước giành thắng lợi 
và đi đến thắng lợi hoàn toàn. * Thuận lợi
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam diễn ra vào thời kỳ 
cao điểm của chiến tranh lạnh. Thế giới hình thành hai phe chống đối nhau gay 
gắt bằng chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Mỹ xâm lược Việt Nam vì lợi 
ích chiến lược toàn cầu. Liên Xô luôn theo đuổi mục tiêu cân bằng chiến lược 
với Mỹ. Trung Quốc nhằm mục tiêu vươn lên thành cường quốc thứ ba. Liên 
Xô, Trung Quốc vừa giúp Việt Nam vừa sử dụng vấn đề Việt Nam để chống hai 
nước lớn kia. Chiến tranh Việt Nam, về mặt quốc tế, luôn nằm trên trục chuyển 
động của ba cặp quan hệ Mỹ-Xô, Mỹ-Trung, Xô-Trung. Thất bại ở Việt Nam, 
Mỹ hoà hoãn với Liên Xô, Trung Quốc cùng hai nước này dàn xếp vấn đề Việt 
Nam, hình thành “tam giác chiến lược Mỹ-Xô-Trung”, tác động mạnh mẽ tới  diễn biến chiến tranh.
Sau Điện Biên Phủ, phong trào giải phóng dân tộc lên cao, đưa tới việc 
hình thành lực lượng thứ ba. Năm 1961, chính thức ra đời phong trào Không 
liên kết, năm 1963, tổ chức Thống nhất châu Phi và năm 1966 tổ chức Đoàn kết  ba châu ra đời.
Thời kỳ này phong trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội 
trên thế giới lên mạnh. Thông tin bùng nổ, lương tri loại người thức tỉnh. Các 
tầng lớp nhân dân, tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo của các nước đều ủng hộ sự
nghiệp chính nghĩa của các dân tộc. * Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, bối cảnh quốc tế cũng có những phức tạp, khó  khăn cho Việt Nam:
Mỹ rất mạnh về tiềm lực, có liên minh quân sự khắp nơi NATO-SEATO, 
AMZUS; Mỹ khống chế Liên Hợp Quốc, Mỹ kéo Liên Hợp Quốc vào Triều 
Tiên, dùng Liên Hợp Quốc can thiệp vào Công gô. Tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ 
còn khá phổ biến trên thế giới.
Phong trào cách mạng thế giới cũng trải qua những thăng trầm. Phong trào 
xã hội chủ nghĩa khủng hoảng về đường lối, không thống nhất quan điểm, sách
lược đấu tranh. Phong trào Không liên kết thời đầu không nhất trí về mục tiêu 
và phương hướng hành động.
Nổi cộm nhất là mâu thuẫn Xô-Trung, hai đồng minh chiến lược của Việt 
Nam. Mâu thuẫn và đối chọi nhau ngay cả trên vấn đề Việt Nam và giúp Việt 
Nam. Mâu thuẫn lợi ích đưa tới xung đột vũ trang trên biên giới hai nước.
Đặc điểm lớn nhất trong cuộc chiến tranh là tương quan giữa hai bên tham 
chiến. Mỹ là nước giàu mạnh; Việt Nam là nước nghèo. Có nhà nghiên cứu nói
về thực lực, Mỹ mạnh hơn Việt Nam một ngàn lần. Cũng khó đo đếm, nhưng 
nếu tính riêng về sự giàu có, về tiềm lực kinh tế, đúng là Mỹ hơn Việt Nam đến
ngàn lần. Việt Nam có chỗ mạnh áp đảo về chính trị, chiến đấu vì độc lập dân 
tộc. Mỹ làm chiến tranh phi nghĩa, chỗ yếu của Mỹ là về chính trị.
Do đặc điểm của thời đại, Mỹ dùng ngoại giao để khắc phục chỗ yếu về 
chính trị - Mỹ sử dụng thế ngoại giao, đặt ngoại giao thành một bộ phận của 
chiến lược chiến tranh. Trong cuộc họp tại Nhà trắng ngày đầu chiến tranh, 
Johnson nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận đấu ăn giải. Tay phải ta
nắm lực quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình. Mỗi khi đưa quân 
lên phía trước, thì cũng đưa các nhà ngoại giao lên phía trước. Các vị tướng 
cần đưa quân nhiều hơn nữa; song Bộ Ngoại giao cũng phải cung cấp cho tôi 
thêm cái gì nữa...” Chính vì vậy mà thời kỳ Mỹ leo thang (1965-1966), Mỹ mở
nhiều “chiến dịch hòa bình” và không ngớt lời đòi Hà Nội “thương lượng 
không điều kiện” với Mỹ. Rồi suốt cuộc chiến tranh, Mỹ đều dùng ngoại giao 
và đàm phán trên thế mạnh để che chắn cho quân Mỹ ở chiến trường. 2.2 Bối cảnh khu vực.
Sự thất bại của Nhật vào tháng 8 năm 1945 kéo theo sự nổi lên của một 
nền Hòa bình kiểu Mỹ ở Châu Á- Thái Bình Dương trong thời kì hậu Chiến 
tranh thế giới lần thứ 2. Mặc dù Chiến tranh Lạnh ở Châu Á- Thái Bình Dương
được đặc trưng bởi cấu trúc tam cực, với Mỹ, Trung Quốc và Liên Xô đứng 
đầu mỗi cực, cũng như sự dịch chuyển tương quan lực lượng trong trật tự hình 
tam giác này, nhưng yếu tố trung tâm lại chính là địa vị ưu việt, hay như quan 
điểm của một số người, là vị thế bá quyền của Mỹ. Không giống như Tây Âu, 
nơi vai trò lãnh đạo an ninh của Mỹ được đặt trong cấu trúc đa phương xoay 
quanh NATO, một hệ thống các liên minh song phương được coi như là xương
sống của quan hệ an ninh trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Cố gắng 
duy nhất trong việc xây dựng liên minh đa phương thời kì Chiến tranh Lạnh đã
thất bại: Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) được thành lập năm 1954 
và bao gồm Australia, Anh, Pháp, New Zealand, Pakistan (cho tới năm 1973), 
Philippines, Thái Lan và Mỹ. Sự hợp tác không bao giờ thực sự đạt được vì 
mức độ da dạng cao giữa các thành viên. SEATO cuối cùng tan rã vào năm 
1977. Một hệ thống các hiệp ước an ninh song phương mà Mỹ khởi xướng với 
các đồng minh chủ chốt của nó tại Châu Á- Thái Bình Dương là Nhật Bản, 
Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã tỏ ra 
là một sự thay thế triển vọng hơn cho chủ nghĩa đa phương.
Trong các đồng minh, trục đồng minh Mỹ – Nhật nổi lên như là mối quan 
hệ quan trọng nhất. Năm 1951, Mỹ và Nhật kí Hòa ước San Francisco và các 
Hiệp ước An ninh Tương hỗ hết sức bất bình đẳng. Trong khi Hòa ước San 
Francisco chính thức chấm dứt tình trạng chiếm đóng của Mỹ ở Nhật, Hiệp 
ước An ninh Tương hỗ đưa Nhật lên vị thế vệ tinh quân sự của Mỹ. Năm 1960,
một hiệp ước quốc phòng song phương giữa hai nước nâng cao vị thế của Nhật
vì nó loại bỏ các quy định trước đây cho phép Mỹ can thiệp vào chính trị Nhật,
cung cấp một chiếc “ô hạt nhân” và buộc Mỹ phải có nghĩa vụ bảo vệ Nhật nếu
Nhật bị tấn công. Hiệp ước đó cũng đòi hỏi Washington phải thảo luận với 
Tokyo về việc sử dụng các căn cứ quân sự đặt tại Nhật. Đồng thời, hiệp ước 
quân sự càng gắn kết Nhật hơn nữa vào bàn cờ chiến lược an ninh và quốc 
phòng Chiến tranh Lạnh toàn cầu của Mỹ với tư cách là một con cờ quan trọng
(xem phân tích sâu hơn tại Umbach 2000).
Kiến trúc an ninh Chiến tranh Lạnh của Châu Á- Thái Bình Dương đặc 
biệt khác với Châu Âu, không chỉ về cấu trúc mà còn về cả tác động. Trong khi
cân bằng quyền lực Mỹ – Xô giữ cho Châu Âu được ổn định và an toàn thì sự 
đối lập về chính trị và ý thức hệ giữa hai cường quốc đã dẫn tới những xung 
đột an ninh trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Trên thực tế, hai “cuộc 
chiến tranh nóng” thời Chiến tranh Lạnh lại xảy ra ở Đông Á, đó là ở Triều 
Tiên (1950-53) và Việt Nam (1965-73).
Khoảng từ năm 1949 đến 1975, sự hiện diện của Mỹ ở khu vực Châu Á- 
Thái Bình Dương chủ yếu nhằm phục vụ chiến lược chống cộng toàn cầu của 
nó. Duy trì ưu thế quân sự so với Liên Xô và Trung Quốc là ưu tiên cao nhất. 
Nỗ lực đầu tiên trong việc này là ủng hộ Quốc Dân Đảng trong cuộc nội chiến 
Trung Quốc, cuộc chiến vốn đã kết thúc trong thất bại cay đắng với những lời 
cáo buộc lẫn nhau. Mỹ còn nhúng tay vào các hành động quân sự tại Triều 
Tiên vốn đi vào thế bế tắc năm 1953. Những thất bại này đã thuyết phục Đảng 
Dân chủ lẫn Đảng Cộng hòa ở Mỹ về việc cần có một sức mạnh quân sự áp 
đảo, và các chính quyền tiếp đó đã cho phép đầu tư lớn vào việc trang bị tàu 
ngầm, tàu sân bay, các vũ khí nguyên tử và thông thường, song song với việc 
duy trì đội quân hơn 100.000 người tại Châu Á, chủ yếu đóng ở Nhật Bản và  Hàn Quốc.
Một khía cạnh khác trong chiến lược ngăn chặn là việc ủng hộ hầu hết bất 
cứ chế độ nào có dấu hiệu chống cộng sản. Chiến lược này được phát triển vào
đầu những năm 1950 bởi Ngoại trưởng John Foster Dulles cùng với những 
người khác. Đầu tiên, các chính phủ chống cộng được đề nghị ngăn chặn sự 
lan rộng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách đàn áp các phong trào chính trị 
cộng sản trên lãnh thổ của mình. Thứ hai, viện trợ của Mỹ sẽ biến họ trở thành 
những nước giàu mạnh, dân chủ và có những “ảnh hưởng mang tính làm 
gương” lên các nước láng giềng cũng như dân chúng của những nước cộng 
sản. Những quốc gia chủ chốt được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của Mỹ trong 
chiến lược này là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, và một vài nước 
Đông Nam Á. Kết quả khá đa dạng. Chính quyền Philippines thoái hóa thành 
một chính quyền suy đồi chính trị và tham nhũng cực độ dưới sự lãnh đạo của 
Tổng thống Ferdinand Marcos, người bất chấp tất cả vẫn nhận được sự ủng hộ 
kiên định của Mỹ. Các nhà nước khác lạm dụng nhân quyền và hạn chế tự do 
dân chủ cũng là những nước hưởng lợi từ viện trợ Mỹ. Mỹ lộ rõ là đã ủng hộ 
những chế độ chuyên chế miễn là những chế độ này đồng ý chống Liên Xô. 
Mặt khác, có thể nói Nhật và một vài nước khác đã chuyển hóa thành những 
nước thành công, giàu có và dân chủ dưới sự giám hộ của Mỹ.
Thảm họa lớn nhất trong chính sách của Mỹ là cuộc chiến tranh Việt Nam. 
Đến đầu những năm 1960, chính sách Châu Á của Mỹ hết sức cứng nhắc, giáo 
điều và thiếu thông tin. Lờ đi sự đa dạng cao độ tại khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương, quân đội Mỹ dường như tin vào “học thuyết domino”, cho rằng hoạt 
động cộng sản thành công (ví dụ như ở Bắc Việt Nam) chắc chắn sẽ lan rộng 
và lật đổ các chính phủ thân Mỹ trên khắp khu vực. Đó là cái cớ cho việc ném 
bom ồ ạt xuống Hà Nội năm 1965, dẫn tới cuộc chiến 10 năm vốn tàn phá 
phần lớn bán đảo Đông Dương, và cuối cùng kết thúc với một thất bại nhục  nhã.
Tuy nhiên, xuất hiện một nhân tố thứ ba trong câu chuyện này: nước Cộng 
hòa Nhân dân Trung Hoa. Quan hệ tay ba có xu hướng đi theo kiểu “hai chống 
một” và cả ba cường quốc đều lợi dụng cấu trúc này cho những lợi ích riêng. 
Mỹ vận động qua lại giữa Trung Quốc và Liên Xô bằng việc tăng cường hay 
bỏ qua những liên minh song phương để ứng phó với những thay đổi trong 
tương quan quyền lực. Tương tự, Trung Quốc lợi dụng xung đột giữa hai siêu 
cường một cách khá khéo léo.
Nói ngắn gọn, Trung Quốc liên minh với Liên Xô suốt những năm 1950 
nhằm tranh thủ sự hỗ trợ kinh tế và quân sự. Tuy nhiên, mối quan hệ lung lay 
nghiêm trọng khi hai bên đều muốn làm lãnh đạo chính thức của phong trào 
Cộng sản Quốc tế, và có thời gian chiến tranh dọc biên giới phía Bắc Trung 
Quốc dường như là chắc chắn. Năm 1960, chia rẽ mở rộng và gay gắt hơn, 
Liên Xô rút tất cả mọi việc trợ cho Trung Quốc. Mối bất hòa Trung – Xô dẫn 
tới một thập niên Trung Quốc theo đuổi chính sách vừa chống Liên Xô vừa 
chống Mỹ. Năm 1972, cả Bắc Kinh và Washington đều thay đổi quan điểm 
chiến lược và cùng nhau thương lượng về một liên minh song phương nhằm 
chống lại bá quyền của Liên Xô.
Theo sau sự kiện “ngoại giao bóng bàn” giữa hai kiến trúc sư của chính 
sách xích lại gần nhau, Henry Kissinger và Chu Ân Lai, Mỹ và Trung Quốc đã