lOMoARcPSD| 58504431
1,
Vì sao tác động của biến đổi khí hậu lại dài hạn?
Bời vì: Bản chất dài hạn của các tác động của BĐKH nảy sinh từ việc các khí nhà
kính tích tụ lại trong bầu kquyển (khi tổng lượng phát thải khí nhà kính vào khí
quyển lớn hơn khả năng hấp thụ tự nhiên của Trái Đất) một khi đã nằm trong bầu
khí quyển, một số knhà kính như CO2, CH4, CFC,.. sẽ nằm lại đó trong một
khoảng thời gian dài từ khoảng 10 - 200 năm. Hơn nữa, hệ thống khí hậu phản ứng
khá chậm (tính ì) đối với sự gia tăng nồng độ khí nhà kính trong khí quyển (tức
sự gia tăng nồng độ khí nhà kính không làm khí hậu biến đổi ngay lập tức biến
đổi từ từ) và có độ trễ trong các phản ứng về kinh tế, xã hội và môi trường đối với
BĐKH.
Với những đặc điểm trên, BĐKH vẫn sẽ tiếp tục diễn ra đối với những khí nhà
kính đã tồn tại trong khí quyển kể cả khi không có thêm các dòng phát thải khí nhà
kính mới. Việc bổ sung thêm các dòng phát thải mới trong bầu khí quyển sẽ làm
trầm trọng thêm tình trạng BĐKH trong tương lai. Ngay cả việc cắt giảm đáng kể
khí nhà kính hôm nay thì BĐKH không thể giảm ngay lập tức, bởi vì những khí nhà
kính đã tích tụ trước đó trong bầu khí quyển vẫn tiếp tục làm cho bầu khí quyển nóng
dần lên. Chính vậy, các tác động của BĐKH dai dẳng, dài hạn được dự đoán
sẽ ngày càng tăng theo thời gian. sao tác động của biến đổi khí hậu lại không chắc
chắn
Bởi vì: Các tác động vật của BĐKH đối với con người nền kinh tế không
chắc chắn. Mặc dù điều này cũng đúng đối với các chất gây ô nhiễm khác nhưng s
không chắc chắn về các tác động vật của BĐKH rất lớn. Sự không chắc chắn
đối với vấn đề BĐKH liên quan đến các mối liên kết tính nhân quả của BĐKH:
do không chắc chắn về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai dẫn đến sự không
chắc chắn về số lượng phát thải ra tstăng trưởng này; từ đó kéo theo sự không
chắc chắn về mức gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu những tác động vật lý của
sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu đến hệ sinh thái và con người. Nhìn chung,
có sự không chắc chắn về độ rộng, độ lớn, loại hình, thời điểm, thời gian của các tác
động BĐKH, được thể hiện những khía cạnh sau: mức độ ảnh hưởng của BĐKH
đến nền kinh tế, thời điểm ảnh hưởng, đối tượng bị ảnh hưởng, phản ứng của các đối
tượng đó trước tác động của BĐKH làm cho những sự lựa chọn về chính sách giảm
nhẹ và thích ứng tối ưu với BĐKH trở nên khó khăn khi chưa có những bằng chứng
khoa học vững chắc về các tác động tiềm năng của BĐKH cũng như lợi ích chi
lOMoARcPSD| 58504431
phí của việc giảm nhẹ và thích ứng; từ đó không khuyến khích ngay các hành động
ứng phó với BĐKH.
Tính không chắc chắn là vấn đề đặc trưng đối với BĐKH đặt ra thách thức lớn
nhất trong phân tích kinh tế của BĐKH.
Câu 2
Kinh nghiệm áp dụng thuế carbon của một số quốc gia trên thế giới
Ở châu Âu, các quốc gia thuộc khối liên minh châu Âu như Đan Mạch, Ai-Len, Bồ
Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ đánh thuế carbon vào nhiên liệu hóa thạch sử dụng
trong hầu hết các ngành kinh tế, ngoại trừ một số ngành đặc biệt như hàng không
quốc tế, vận tải biển và các ngành trong danh mục Hệ thống giao dịch phát thải của
Liên minh châu Âu (EU ETS). Thuế suất carbon của các quốc gia này sự khác
biệt khá lớn, cao nhất lên tới 132 USD/tấn CO2 (Thụy Điển) thấp nhất 5
USD/tấn CO2 (Bồ Đào Nha). Nguồn thu từ thuế carbon được các nước châu Âu ch
yếu sử dụng cho mục đích nâng cao bảo hiểm xã hội cho người dân, đặc biệt là các
nhóm dân dễ bị tổn thương bởi tác động của thuế carbon đầu cho các chương
trình phát triển năng lượng tái tạo.
Pháp là một trong những quốc gia đầu tiên châu Âu áp dụng thuế carbon. Thuế
carbon được Chính phủ Pháp đxuất từ năm 2000, được thông qua vào năm 2013
chính thức hiệu lực từ năm 2014. Đối tượng chịu thuế là các loại nhiên liệu
hóa thạch như khí gaz, dầu sưởi, sản phẩm than đá và nhiên liệu vận tải. Tuy nhiên,
thuế carbon Pháp không phải một loại thuế độc lập được bổ sung (cộng
thêm) vào thuế tiêu thụ năng lượng, thuế nội địa thu vào việc tiêu thụ các sản
phẩm năng lượng. Chủ thể nghĩa vụ nộp thuế carbon ở Pháp là doanh nghiệp và
hộ gia đình có tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch chịu thuế. Mức thuế suất được xác định
trên shàm lượng CO2 (hệ số phát thải) của mỗi loại nhiên liệu hóa thạch chịu
thuế, các chi phội của carbon lộ trình tăng dần theo từng năm. Nguồn thu
thuế carbon được Chính phủ sử dụng cho trợ cấp xanh, một phần để giảm thuế giá
trị gia tăng cho việc đổi mới xây dựng nhiệt điện và các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu
cho chuyển tiếp từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo, một phần để đền
bù cho các hộ gia đình trong quá trình chuyển đổi năng lượng.
khu vực châu Á, Nhật Bản áp dụng thuế carbon từ tháng 10/2012. Đối tượng chịu
thuế carbon dầu thô, xăng, khí gaz tự nhiên than đá tại điểm bắt đầu đưa các
sản phẩm nhiên liệu này vào thị trường (khâu nhập khẩu hoặc khai thác). Theo đó,
chủ thể nghĩa vụ nộp thuế carbon các doanh nghiệp nhập khẩu, khai thác các
lOMoARcPSD| 58504431
loại nhiên liệu hóa thạch chịu thuế. Nhật Bản, thuế carbon không tồn tại độc lập
mà được bổ sung vào thuế than đá và dầu mỏ đã có. Mức thuế suất hiện nay là 289
Yên/tấn CO2. Nguồn thu từ thuế carbon được Nhật Bản sử dụng để đầu phát triển
công nghệ carbon thấp, cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng phát triển năng
lượng tái tạo.
Trong khối ASEAN, Singapore quốc gia đầu tiên áp dụng thuế carbon với mục
tiêu chuyển đổi thành một nền kinh tế carbon thấp. Theo Đạo luật định giá carbon
được Singapore thông qua vào ngày 20/3/2018 và áp dụng từ năm 2019, đối tượng
chịu thuế carbon 06 loại khí nhà kính: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs, SF. Thuế
carbon sẽ thu vào các chủ thể có hành vi phát thải khí nhà kính, nhưng không phải
tất cả các chủ thể phát thải khí nhà kính đều phải nộp thuế carbon. Thuế suất carbon
được quy định bằng 5 SGD/tấn CO2 trong giai đoạn từ năm 2019 đến 2023. Chính
phủ sẽ rà soát điều chỉnh thuế suất này, có tính đến tình hình quốc tế về biến đổi khí
hậu, tiến độ thực hiện các nỗ lực giảm phát thải của Singapore tính cạnh tranh
kinh tế của quốc gia này. Do đối tượng np thuế carbon chủ yếu các nhà máy phát
điện sẽ dẫn đến làm tăng giá điện tác động trực tiếp đến người tiêu dùng nên để
giảm nhẹ tác động này của thuế carbon, các hộ gia đình thu nhập thấp sẽ được
Chính phủ chi trả một khoản tiền trên năm trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến
năm 2021.
Bài học cho Việt Nam
Việt Nam thể cân nhắc việc tích hợp thuế carbon vào thuế bảo vệ môi trường
được xem có tính khả thi hơn bởi:
i) Thuế carbon thuế bảo vệ môi trường ơng thích với nhau về đối tượng
chịu thuế, phương pháp tính thuế, mức thuế suất được quy định trên cơ sở
cụ thể hóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” thuế bảo v
môi trường phần nào đã tính đến việc thu thuế để đạt được giảm nhẹ phát
thải KNK.
ii) Việc chấp thuận thuế carbon như một loại thuế hoàn toàn mới cần độ
trễ nhất định trong khi việc thiết lập thuế carbon trên sở thuế bảo vệ
môi trường dễ đạt được sự chấp thuận hơn
iii) Việc quản thuế carbon trên sở quản thuế bảo vệ i trường một
lợi thế nhằm giảm nhân lực, chi phí hành chính liên quan (đăng ký,
kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế), giúp việc áp dụng thuế carbon có tính
khả thi hơn.
lOMoARcPSD| 58504431
Câu 3
EU ETS nhằm giúp các nước thành viên EU hạn chế hoặc giảm thiểu lượng
khí thải nhà kính. Nó cho phép người tham gia mua hoặc bán hạn ngạch khí thải
để việc cắt giảm thể đạt được với chi phí thấp. Mức độ tổng thể của lượng k
thải cho phép bị giới hạn, đó là lý do tại sao tổ chức được yêu cầu phải báo cáo
về lượng khí thải hàng năm. Hạn ngạch khí thải được xem như là một dạng tiền
tệ - một hạn ngạch được cấp cho cho người quyền thải ra một tấn CO2 hoặc
khí thải nhà kính khác. Chương trình lần đầu tiên được đưa ra vào năm 2005 để
giám sát các nhà cung cấp năng lượng lớn các doanh nghiệp tiêu thụ năng
lượng lớn. Năm 2008, chương trình này được mở rộng bao gồm các ngành công
nghiệp và các tổ chức khác với lượng khí thải cao, như khai thác tàu bay.
Câu 4
Thị trường carbon bắt buộc
Thị trường carbon tự nguyện
Khái niệm
Thị trường được thiết lập
thông qua những ng buộc
của các quốc gia đã phê
chuẩn Nghị định thư Kyoto
nên các dự án theo các cơ chế
của KP được coi là thị trường
carbon bắt buộc.
(VCM) được hiểu nhất là hoạt
động mua bán toàn cầu về quyền
yêu cầu trách nhiệm đối với việc
giảm phát thải khí nhà kính
(GHG) hoặc loại bỏ hoàn toàn
GHG khỏi khí quyển
Đặc điểm
- Thị trường được thiết
lập thông qua các ràng
buộc của các quốc gia
đã phê chuẩn
nghị định thư Kyoto
nên các dự án theo các
cơ chế của KP
- Các công cụ định giá
được áp dụng: hệ
thống giao dịch phát
thải, cơ chế tín chỉ bù
trừ carbon
- Dựa trên sở hợp tác thỏa
thuận song phương hoặc đa
phương giữa các tổ chức
công ty hoặc quốc gia. Bên
mua tín chỉ tham gia vào
các giao dịch trên sở tự
nguyện để đáp ứng các
chính sách về môi trường
và xã hội
- Công cụ định giá được áp
dụng: chế tín chỉ trừ
carbon
Câu 5:
lOMoARcPSD| 58504431
Thuế đối với phát thải khí
nhà kính
Giấy phép phát
thải khí nhà kính
thể chuyển
nhượng
Trợ cấp giảm phát
thải khí nhà kính
Khái niệm
Thuế carbon loại thuế
được áp dụng trực tiếp
cho việc sản xuất khí thải
nhà kính hoặc nhiên liệu
thải ra các loại khí thải
này khi chúng bị đốt cháy,
thường các loại nhiên
liệu hóa thạch
Những giấy phép
phát thải này thể
chuyển nhượng
được; bất cứ ai
được phép tham
gia vào thị trường
giấy phép này đều
thể mua bán
giấy phép với bất
cứ giá nào do chính
các n tham gia
thỏa thuận.
Là một chiến lược
toàn diện hướng
đến sử dụng hiệu
quả tài nguyên liên
quan đến các biện
pháp và chiến lược
nhằm giảm lượng
chất thải sinh ra
trong quá trình sản
xuất, tiêu dùng
sinh hoạt ng
ngày.
Đặc điểm
- Về đối tượng chịu
thuế: phổ biến
các loại nhiên liệu
hóa thạch được sử
dụng rộng rãi trong
sản xuất và đời
sống như dầu thô,
than đá, khí gas tự
nhiên,…
- Về chủ thể nghĩa
vụ nộp thuế carbon:
thường chủ thể
bán nhiên liệu hóa
thạch vào thị
trường để tiêu thụ
tức các tổ chức,
nhân hành vi
nhập khẩu hoặc
khai thác
- Mỗi giấy
phép đại
diện cho
một lượng
khí thải
nhất định
(thường
tính bằng
tấn CO2
tương
đương).
Mỗi giấy
phép được
cấp cho
một tổ
chức hoặc
doanh
nghiệp cụ
thể.
- Hình thức trực
tiếp:
Nhà nước
hoàn trả một
phần chi phí
đầu cho
các dự án
giảm phát
thải; cấp
trực tiếp tiền
mặt cho các
tổ chức,
doanh
nghiệp thực
hiện các
hoạt động
giảm
lOMoARcPSD| 58504431
nhiên liệu hóa
thạch.
Về thuế suất. Mục
tiêu của thuế
carbon là nhằm bù
đắp các chi phí
ngoại tác tiêu cực
do phát thải CO2
gây ra, nên thuế
suất được tính
toán căn cứ vào
mức thiệt hại
một đơn vị khí
CO2, thường là 01
tấn, gây ra khi
phát thải vào môi
trường.
Giấy phép
chỉ có giá
trị trong
một
khoảng
thời gian
nhất định
thường
được cấp
hàng năm
hoặc hàng
quý. Giấy
phép thể
được mua
bán, trao
đổi giữa
các tổ chức,
doanh
nghiệp.
phát thải
Hình thức
gián tiếp:
Giảm
thuế thu
nhập doanh
nghiệp,
thuế tài sản
hoặc thuế
tiêu thụ đặc
biệt đối với
các sản
phẩm
dịch vụ
thân thiện
với môi
trường; nhà
nước bảo
lãnh cho
các khoản
vay để các
doanh
nghiệp
thể tiếp cận
vốn dễ
dàng hơn.
Thực tiễn

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58504431 1,
Vì sao tác động của biến đổi khí hậu lại dài hạn?
Bời vì: Bản chất dài hạn của các tác động của BĐKH nảy sinh từ việc các khí nhà
kính tích tụ lại trong bầu khí quyển (khi tổng lượng phát thải khí nhà kính vào khí
quyển lớn hơn khả năng hấp thụ tự nhiên của Trái Đất) và một khi đã nằm trong bầu
khí quyển, một số khí nhà kính như CO2, CH4, CFC,.. sẽ nằm lại đó trong một
khoảng thời gian dài từ khoảng 10 - 200 năm. Hơn nữa, hệ thống khí hậu phản ứng
khá chậm (tính ì) đối với sự gia tăng nồng độ khí nhà kính trong khí quyển (tức là
sự gia tăng nồng độ khí nhà kính không làm khí hậu biến đổi ngay lập tức mà biến
đổi từ từ) và có độ trễ trong các phản ứng về kinh tế, xã hội và môi trường đối với BĐKH.
Với những đặc điểm trên, BĐKH vẫn sẽ tiếp tục diễn ra đối với những khí nhà
kính đã tồn tại trong khí quyển kể cả khi không có thêm các dòng phát thải khí nhà
kính mới. Việc bổ sung thêm các dòng phát thải mới trong bầu khí quyển sẽ làm
trầm trọng thêm tình trạng BĐKH trong tương lai. Ngay cả việc cắt giảm đáng kể
khí nhà kính hôm nay thì BĐKH không thể giảm ngay lập tức, bởi vì những khí nhà
kính đã tích tụ trước đó trong bầu khí quyển vẫn tiếp tục làm cho bầu khí quyển nóng
dần lên. Chính vì vậy, các tác động của BĐKH là dai dẳng, dài hạn và được dự đoán
sẽ ngày càng tăng theo thời gian. Vì sao tác động của biến đổi khí hậu lại không chắc chắn
Bởi vì: Các tác động vật lý của BĐKH đối với con người và nền kinh tế là không
chắc chắn. Mặc dù điều này cũng đúng đối với các chất gây ô nhiễm khác nhưng sự
không chắc chắn về các tác động vật lý của BĐKH là rất lớn. Sự không chắc chắn
đối với vấn đề BĐKH liên quan đến các mối liên kết có tính nhân quả của BĐKH:
do không chắc chắn về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai dẫn đến sự không
chắc chắn về số lượng phát thải ra từ sự tăng trưởng này; từ đó kéo theo sự không
chắc chắn về mức gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và những tác động vật lý của
sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu đến hệ sinh thái và con người. Nhìn chung,
có sự không chắc chắn về độ rộng, độ lớn, loại hình, thời điểm, thời gian của các tác
động BĐKH, được thể hiện ở những khía cạnh sau: mức độ ảnh hưởng của BĐKH
đến nền kinh tế, thời điểm ảnh hưởng, đối tượng bị ảnh hưởng, phản ứng của các đối
tượng đó trước tác động của BĐKH làm cho những sự lựa chọn về chính sách giảm
nhẹ và thích ứng tối ưu với BĐKH trở nên khó khăn khi chưa có những bằng chứng
khoa học vững chắc về các tác động tiềm năng của BĐKH cũng như lợi ích và chi lOMoAR cPSD| 58504431
phí của việc giảm nhẹ và thích ứng; từ đó không khuyến khích ngay các hành động ứng phó với BĐKH.
Tính không chắc chắn là vấn đề đặc trưng đối với BĐKH và đặt ra thách thức lớn
nhất trong phân tích kinh tế của BĐKH. Câu 2
Kinh nghiệm áp dụng thuế carbon của một số quốc gia trên thế giới
Ở châu Âu, các quốc gia thuộc khối liên minh châu Âu như Đan Mạch, Ai-Len, Bồ
Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ đánh thuế carbon vào nhiên liệu hóa thạch sử dụng
trong hầu hết các ngành kinh tế, ngoại trừ một số ngành đặc biệt như hàng không
quốc tế, vận tải biển và các ngành trong danh mục Hệ thống giao dịch phát thải của
Liên minh châu Âu (EU ETS). Thuế suất carbon của các quốc gia này có sự khác
biệt khá lớn, cao nhất lên tới 132 USD/tấn CO2 (Thụy Điển) và thấp nhất là 5
USD/tấn CO2 (Bồ Đào Nha). Nguồn thu từ thuế carbon được các nước châu Âu chủ
yếu sử dụng cho mục đích nâng cao bảo hiểm xã hội cho người dân, đặc biệt là các
nhóm dân cư dễ bị tổn thương bởi tác động của thuế carbon và đầu tư cho các chương
trình phát triển năng lượng tái tạo.
Pháp là một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Âu áp dụng thuế carbon. Thuế
carbon được Chính phủ Pháp đề xuất từ năm 2000, được thông qua vào năm 2013
và chính thức có hiệu lực từ năm 2014. Đối tượng chịu thuế là các loại nhiên liệu
hóa thạch như khí gaz, dầu sưởi, sản phẩm than đá và nhiên liệu vận tải. Tuy nhiên,
thuế carbon ở Pháp không phải là một loại thuế độc lập mà được bổ sung (cộng
thêm) vào thuế tiêu thụ năng lượng, là thuế nội địa thu vào việc tiêu thụ các sản
phẩm năng lượng. Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế carbon ở Pháp là doanh nghiệp và
hộ gia đình có tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch chịu thuế. Mức thuế suất được xác định
trên cơ sở hàm lượng CO2 (hệ số phát thải) của mỗi loại nhiên liệu hóa thạch chịu
thuế, các chi phí xã hội của carbon và có lộ trình tăng dần theo từng năm. Nguồn thu
thuế carbon được Chính phủ sử dụng cho trợ cấp xanh, một phần để giảm thuế giá
trị gia tăng cho việc đổi mới xây dựng nhiệt điện và các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu
cho chuyển tiếp từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo, một phần để đền
bù cho các hộ gia đình trong quá trình chuyển đổi năng lượng.
Ở khu vực châu Á, Nhật Bản áp dụng thuế carbon từ tháng 10/2012. Đối tượng chịu
thuế carbon là dầu thô, xăng, khí gaz tự nhiên và than đá tại điểm bắt đầu đưa các
sản phẩm nhiên liệu này vào thị trường (khâu nhập khẩu hoặc khai thác). Theo đó,
chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế carbon là các doanh nghiệp nhập khẩu, khai thác các lOMoAR cPSD| 58504431
loại nhiên liệu hóa thạch chịu thuế. Ở Nhật Bản, thuế carbon không tồn tại độc lập
mà được bổ sung vào thuế than đá và dầu mỏ đã có. Mức thuế suất hiện nay là 289
Yên/tấn CO2. Nguồn thu từ thuế carbon được Nhật Bản sử dụng để đầu tư phát triển
công nghệ carbon thấp, cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo.
Trong khối ASEAN, Singapore là quốc gia đầu tiên áp dụng thuế carbon với mục
tiêu chuyển đổi thành một nền kinh tế carbon thấp. Theo Đạo luật định giá carbon
được Singapore thông qua vào ngày 20/3/2018 và áp dụng từ năm 2019, đối tượng
chịu thuế carbon là 06 loại khí nhà kính: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs, SF. Thuế
carbon sẽ thu vào các chủ thể có hành vi phát thải khí nhà kính, nhưng không phải
tất cả các chủ thể phát thải khí nhà kính đều phải nộp thuế carbon. Thuế suất carbon
được quy định bằng 5 SGD/tấn CO2 trong giai đoạn từ năm 2019 đến 2023. Chính
phủ sẽ rà soát điều chỉnh thuế suất này, có tính đến tình hình quốc tế về biến đổi khí
hậu, tiến độ thực hiện các nỗ lực giảm phát thải của Singapore và tính cạnh tranh
kinh tế của quốc gia này. Do đối tượng nộp thuế carbon chủ yếu là các nhà máy phát
điện sẽ dẫn đến làm tăng giá điện và tác động trực tiếp đến người tiêu dùng nên để
giảm nhẹ tác động này của thuế carbon, các hộ gia đình có thu nhập thấp sẽ được
Chính phủ chi trả một khoản tiền trên năm trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến năm 2021.
Bài học cho Việt Nam
Việt Nam có thể cân nhắc việc tích hợp thuế carbon vào thuế bảo vệ môi trường
được xem có tính khả thi hơn bởi: i)
Thuế carbon và thuế bảo vệ môi trường tương thích với nhau về đối tượng
chịu thuế, phương pháp tính thuế, mức thuế suất được quy định trên cơ sở
cụ thể hóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và thuế bảo vệ
môi trường phần nào đã tính đến việc thu thuế để đạt được giảm nhẹ phát thải KNK. ii)
Việc chấp thuận thuế carbon như một loại thuế hoàn toàn mới cần có độ
trễ nhất định trong khi việc thiết lập thuế carbon trên cơ sở thuế bảo vệ
môi trường dễ đạt được sự chấp thuận hơn iii)
Việc quản lý thuế carbon trên cơ sở quản lý thuế bảo vệ môi trường là một
lợi thế nhằm giảm nhân lực, chi phí hành chính liên quan (đăng ký,
kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế), giúp việc áp dụng thuế carbon có tính khả thi hơn. lOMoAR cPSD| 58504431 Câu 3
EU ETS nhằm giúp các nước thành viên EU hạn chế hoặc giảm thiểu lượng
khí thải nhà kính. Nó cho phép người tham gia mua hoặc bán hạn ngạch khí thải
để việc cắt giảm có thể đạt được với chi phí thấp. Mức độ tổng thể của lượng khí
thải cho phép bị giới hạn, đó là lý do tại sao tổ chức được yêu cầu phải báo cáo
về lượng khí thải hàng năm. Hạn ngạch khí thải được xem như là một dạng tiền
tệ - một hạn ngạch được cấp cho cho người có quyền thải ra một tấn CO2 hoặc
khí thải nhà kính khác. Chương trình lần đầu tiên được đưa ra vào năm 2005 để
giám sát các nhà cung cấp năng lượng lớn và các doanh nghiệp tiêu thụ năng
lượng lớn. Năm 2008, chương trình này được mở rộng bao gồm các ngành công
nghiệp và các tổ chức khác với lượng khí thải cao, như khai thác tàu bay. Câu 4
Thị trường carbon bắt buộc
Thị trường carbon tự nguyện
Khái niệm Thị trường được thiết lập (VCM) được hiểu rõ nhất là hoạt
thông qua những ràng buộc động mua bán toàn cầu về quyền
của các quốc gia đã ký và phê yêu cầu trách nhiệm đối với việc
chuẩn Nghị định thư Kyoto giảm phát thải khí nhà kính
nên các dự án theo các cơ chế (GHG) hoặc loại bỏ hoàn toàn
của KP được coi là thị trường GHG khỏi khí quyển carbon bắt buộc. Đặc điểm
- Thị trường được thiết
- Dựa trên cơ sở hợp tác thỏa lập thông qua các ràng
thuận song phương hoặc đa buộc của các quốc gia
phương giữa các tổ chức đã kí và phê chuẩn
công ty hoặc quốc gia. Bên nghị định thư Kyoto mua tín chỉ tham gia vào nên các dự án theo các
các giao dịch trên cơ sở tự cơ chế của KP
nguyện để đáp ứng các
- Các công cụ định giá
chính sách về môi trường được áp dụng: hệ và xã hội thống giao dịch phát
- Công cụ định giá được áp
thải, cơ chế tín chỉ bù
dụng: cơ chế tín chỉ bù trừ trừ carbon carbon Câu 5: lOMoAR cPSD| 58504431
Thuế đối với phát thải khí Giấy phép phát Trợ cấp giảm phát nhà kính
thải khí nhà kính thải khí nhà kính có thể chuyển nhượng
Khái niệm Thuế carbon là loại thuế Những giấy phép Là một chiến lược
được áp dụng trực tiếp phát thải này có thể toàn diện hướng
cho việc sản xuất khí thải chuyển
nhượng đến sử dụng hiệu
nhà kính hoặc nhiên liệu được; bất cứ ai quả tài nguyên liên
thải ra các loại khí thải được phép tham quan đến các biện
này khi chúng bị đốt cháy, gia vào thị trường pháp và chiến lược nhằm giảm lượng
thường là các loại nhiên giấy phép này đều chất thải sinh ra liệu hóa thạch
có thể mua và bán trong quá trình sản
giấy phép với bất xuất, tiêu dùng và
cứ giá nào do chính sinh hoạt hàng các bên tham gia ngày. thỏa thuận. Đặc điểm - Về đối tượng chịu - Mỗi giấy - Hình thức trực thuế: phổ biến là phép đại tiếp: các loại nhiên liệu diện cho Nhà nước hóa thạch được sử một lượng hoàn trả một dụng rộng rãi trong khí thải phần chi phí sản xuất và đời nhất định đầu tư cho sống như dầu thô, (thường các dự án than đá, khí gas tự giảm phát nhiên,… tính bằng - Về chủ thể có nghĩa tấn CO2 thải; cấp vụ nộp thuế carbon: tương trực tiếp tiền thường là chủ thể đương). mặt cho các bán nhiên liệu hóa Mỗi giấy tổ chức, thạch vào thị phép được doanh trường để tiêu thụ cấp cho nghiệp thực tức là các tổ chức, một tổ hiện các cá nhân có hành vi chức hoặc hoạt động nhập khẩu hoặc doanh giảm khai thác nghiệp cụ thể. lOMoAR cPSD| 58504431 - nhiên liệu hóa - Giấy phép - phát thải thạch. chỉ có giá Hình thức Về thuế suất. Mục trị trong gián tiếp: tiêu của thuế một  Giảm carbon là nhằm bù khoảng thuế thu đắp các chi phí thời gian nhập doanh ngoại tác tiêu cực nhất định nghiệp, do phát thải CO2 và thường thuế tài sản gây ra, nên thuế được cấp hoặc thuế suất được tính hàng năm tiêu thụ đặc toán căn cứ vào hoặc hàng biệt đối với mức thiệt hại mà quý. Giấy các sản một đơn vị khí phép có thể phẩm và CO2, thường là 01 được mua dịch vụ tấn, gây ra khi bán, trao thân thiện phát thải vào môi đổi giữa với môi trường. các tổ chức, trường; nhà doanh nước bảo nghiệp. lãnh cho các khoản vay để các doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Thực tiễn