



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60857655
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI BÀI TẬP NHÓM
HỌC KỲ: II NĂM HỌC: 2020-2021
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Hình thức thi: Làm bài tập nhóm
Giảng viên: Trần Thị Mai Thanh
Nhóm sinh viên: Nhóm 6
Mã lớp: CT6004(N19) Hà Nội, 2021 lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6 Mục lục Trang
A.HOÀN CẢNH LỊCH SỬ ............................................................................3 B.NỘI DUNG
I: kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
1: Kháng chiến toàn quốc bùng nổ.........................................................................3
2: Đường lối kháng chiến của Đảng.......................................................................7
II: Lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến từ năm 1947 – 1950
1. Tình hình chung...............................................................................................11
2. Công cuộc chuẩn bị kháng chiến lâu dài.........................................................12
3. Chỉ thị phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp(15/07/1947).............20
4. Chiến dịch biên giới Thu Đông 1950...............................................................24
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC ........................................................................28 lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
Chủ đề:Đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng
và quá trình thực hiện từ năm 1946- 1950
A.Hoàn cảnh lịch sử: B.Nội dung:
I. kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
1. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ
Sau bản Tạm ước 14-9-1946, thái độ hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực
dân Pháp ngày càng lộ rõ. Tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng
do, nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Đảng, Chính
phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam tiếp tục kiềm chế, kiên trì thực hiện chủ
trương hòa hoãn và bày tỏ thiện chí hòa bình, thái độ nhân nhượng nhằm tìm kiếm
con đường hòa bình bảo vệ, giữ gìn toàn vẹn nền độc lập, tự do của Việt Nam,
đồng thời tìm mọi cố gắng cứu vãn mối quan hệ Việt-Pháp đang ngày càng xấu đi
và ngăn chặn một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không cân sức với Pháp.
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều biện pháp kiên trì
thuyết phục, tìm mọi cách để duy trì mối quan hệ với phía Pháp. Nhiều lần Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện văn, thư từ cho Chính phủ Pháp, cho Thủ tướng
Pháp song đều không được hồi đáp; con đường đấu tranh ngoại giao với Chính
phủ Pháp và đại diện Pháp tại Hà Nội cũng đều không đưa đến kết quả tích cực
vì luôn vấp phải lập trường hiếu chiến và thái độ ngạo mạn, hợm hĩnh của phe
chủ chiến trong Chính phủ và quân đội Pháp là chỉ “dùng biện pháp quân sự để
giải quyết mối quan hệ Việt Pháp”). Chính phủ Pháp và Bộ chỉ huy quân đội Pháp
ở Việt Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ước. Quân đội Pháp ở Việt Nam được bổ sung
quân số, tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ; mở rộng phạm vi chiếm đóng,
gây hấn, khiêu khích, gây xung đột quân sự, lấn chiếm nhiều vị trí ở nơi đóng
quân thuộc các tỉnh Bắc Bộ Việt Nam; đồng thời dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt
đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào. lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
Cuối tháng 11-1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm Hải
Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công
vào các vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực lượng
phản động xúc tiến thành lập cái gọi là “Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ” và triệu
tập Hội nghị Liên bang Đông Dương... Đặc biệt nghiêm trọng là bước leo thang
chiến tranh của thực dân Pháp trong các ngày 16 và 17-12-1946, quân đội Pháp ở
Hà Nội chủ động tổ chức gây hấn với ta ở nhiều nơi, tấn công đánh chiếm trụ sở
Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính. Ngày 17-12, chúng bắn đại bác gây ra
vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng Bún. Ngày 18-12, đại diện
Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam,
đưa liên tiếp 3 tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp; phải phá bỏ công sự,
chướng ngại vật trên đường phố Hà Nội, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi
độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn giữ an ninh, trật tự của thành phố...
Mọi cố gắng của Chính phủ Việt Nam và Hồ Chí Minh để cứu vãn tình thế chiến
tranh quân sự đã không ngăn được thái độ hiếu chiến của đội quân xâm lược Pháp.
Đến ngày 19-12-1946, những hoạt động ngoại giao, thiện chí hòa bình, hòa hoãn
của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp thẳng thừng chối bỏ và
cự tuyệt; phía Pháp đã công nhiên thể hiện rõ lập trường xâm lược bằng vũ lực
quân sự. m mưu đánh chiếm, thống trị nước ta một lần nữa của thực dân Pháp đã
bộc lộ hoàn toàn. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự lựa chọn
duy nhất là phải cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ
nền độc lập non trẻ và chính quyền cách mạng; bảo vệ những thành quả của cuộc
Cách mạng Tháng Tám vừa giành được.
Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nổ
lệ”, ngày 18-12-1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng họp
tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) đã
đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình hình, kịp thời đề ra chủ trương đối phó và
quyết định phát động toàn dân, toàn quốc nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng
chiến chống xâm lược Pháp. Tối ngày 19-12-1946, vào lúc 20 giờ, ở Hà lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
Nội và tất cả các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra, quân và dân ta đồng loạt nổ súng
chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 19-12-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt
đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập, tự do:
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
... Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta”.
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc vả đánh địch
trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có "thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Ta củng
đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh
thắng quân xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về
chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ gì có thể
khắc phục được ngay. Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn
địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân
Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Campuchia, Lào và một
số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn đó là cơ sở để Đảng
xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.
Tại Hà Nội, vào lúc 20 giờ 3 phút, pháo đài Láng bắn loạt đại bác đầu tiên vào
thành Hà Nội, báo hiệu toàn quốc kháng chiến bắt đầu. Đèn điện trong thành phố lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
vụt tắt, các lực lượng vũ trang Vệ quốc đoàn, Tự vệ chiến đấu, Công an xung
phong nhất loạt tấn công các vị trí đóng quân của Pháp trong thành phố. Cuộc
chiến đấu diễn ra trên từng góc phố, căn nhà vô cùng ác liệt, không cân sức giữa
ta và địch. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Hà Nội là quyết liệt nhất, diễn ra liên tục
trong suốt 60 ngày đêm khói lửa. Nhiều trận đánh ác liệt, giằng co, quyết tử, một
mất một còn giữa ta và Pháp ở nhà Bắc Bộ phủ; nhà Bưu điện Bờ Hồ; chợ Đồng
Xuân; ga Hàng cỏ; sân bay Bạch Mai; ô Cầu Dền... Trong quá trình chiến đấu
quân và dân Hà Nội đã nêu cao tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường “Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”, chống trả quyết liệt và đánh tiêu hao nhiều sinh lực
địch, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não, lãnh đạo của Trung ương và nhân dân
rút ra ngoại thành; hoàn thành nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, bước
đầu làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp; bảo toàn
lực lượng quân sự, phát triển lực lượng chiến đấu thành một Trung đoàn chỉnh
quy mang tên “Trung đoàn Thủ đô” và đến ngày 17-2-1947 đã chủ động rút lui ra
ngoài thành phố an toàn để củng cố, bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến lâu dài...
Ở các địa phương khác, như Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc
Giang quân và dân ta nhanh chóng hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng loạt nổ súng tấn công vào các vị trí đóng quân
của địch trong các đô thị. Vừa tấn công vừa bao vây, ngăn chặn dịch trên các tuyến
giao thông, đánh phá các kho tàng hậu cần và cơ sở hạ tầng chiến tranh của địch;
kìm giữ chân địch không cho chúng mở rộng địa bàn chiếm đóng ra các vùng
xung quanh thành phố, thị xã, thị trấn. Ta tiếp tục phát triển lực lượng, huy động,
di chuyển nhân tài, vật lực lên các khu căn cứ địa, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài. Những thắng lợi của quân và dân ta trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến
2.Đường lối kháng chiến của Đảng
2.1: Quá trình hình thành đường lối kháng chiến lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
Đường đối kháng chiến chống thực dân Pháp được Đảng hình thành, bổ sung,
phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947.
Nội dung cơ bản của đường lối đó được thể hiện trung nhiểu văn kiện quan
trọng của Đăng, lời kêu gọi, bải viết, chỉ thi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng
chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị kháng
chiến kiến quốc (25-1945); Chỉ thị sinh thành vi chủ trương (3-3-1946); Chỉ thị
hóa để tiến (9-3-1946): Chỉ thị sần dần khẳng chiến (12-12-1946); Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946: Tác phẩm kháng
chiếm nhất định thắng lợi của đảng chi Trường Chinh (8-1947)..
- Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (10-1946) và Chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ (11-1946):
- Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất đề ra những chủ trương, biện pháp cụ
thể về tư tưởng, tổ chức để quân và dân có thể sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu
mới với một kẻ thù nguy hiểm, không từ bỏ dã tâm xâm lược đất nước ta. - Chỉ
thị “Công việc khẩn cấp bây giờ nêu lên những vấn đề có tầm chiến lược và toàn
cục cần phải tiến hành khi bước vào cuộc kháng chiến, đồng thời khẳng định
niềm tin sắt đi vắc thắng lợi cuối cùng.
- Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” (12-12-1946) của Ban thường vụ Trung ương
Đảng và “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19-12-1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
+ Bản Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” làm rõ tính chất, mục đích của cuộc
kháng chiến, các chính sách của cuộc kháng chiến như đoàn kết toàn dân, xây
dựng thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với nhân dân Pháp để chống bọn
thực dân Pháp phân động, đồng thời còn dự đoán về các giai đoạn phát triển của
cuộc kháng chiến, về chương trình kháng chiến, về cơ quan lãnh đạo kháng
chiến, về tuyên truyền trong kháng chiến ...
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là lời hịch của non sông, đất nước, khơi
dậy tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Đó chính là Cương lĩnh kháng chiến khái quát ở trình độ cao, lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
chứa đựng tư tưởng và đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
. Tác phẩm “Kháng chiếc nhất định thắng lợi” (1947) của đồng chí Trường
Chinh tiếp tục làm sáng tỏ thêm những vấn đề thuộc về đường lối kháng chiến
như: Tính chất, mục đích kháng chiến, kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính…
2.2: Nội dung đường lối kháng chiến
-Tính chất của đường lối kháng chiến: Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do,
độc lập, dân chủ và hòa bình, cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và
dân chủ mới, là cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân VN. -
Phương châm của đường lối kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranhnhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. -
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân, động
viêntoàn dân, đoàn kết toàn dân tộc tích cực tham gia cuộc kháng chiến. Phải xây
dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phổ là một mặt trận”.
Trong đó Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang là lực lượng làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. -
Kháng chiến toàn diện là tư tưởng chỉ đạo của Đảng ngay từ ngày đầutháng
chiến. Cuộc chiến tranh về tổng thể là một cuộc đọ sức, đọ tài toàn diện giữa các
bên tham chiến, không phải chỉ trên lĩnh vực quân sự, vũ trang. Vì vậy, cuộc
kháng chiến của ta được Đảng và Hồ Chí Minh xác định phải đánh địch trên mọi
lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ đánh địch bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh
tế, văn hóa tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang
giữ vai trò tiên phong, mũi nhọn, mang tính quyết định. Phải động viên, phát huy
cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần
trong nhân dân để phục vụ kháng chiến và chiến thắng. lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6 *) Về chính trị:
Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn
thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
*) Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến
lên vận động chiến, đánh chính quy, là "Triệt để dùng du kích, vận động chiến.
Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu đài... Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh
vừa đào tạo thêm cán bộ".
*) Chính sách đối nội phải đúng đắn:
+ Đoàn kết toàn dân chống chính sách lừa bịp, chia rẽ của địch
+ Phải củng cố Nhà nước Cộng hoà dân chủ, tăng cường bộ máy kháng chiến,
thống nhất lãnh đạo, quân sự phụ thuộc chính trị, loại trừ cơ hội, quan liêu, quân
phiệt, biệt phái, kiên quyết trấn áp bọn phản chách mạng
+ Củng cố hậu phương, cô lập kẻ thù
+ Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục chính trị, xây dựng niềm tin, chống bị quan,
chủ quan khinh địch, thoả hiệp, trông chờ sự trung gian hoà giải của nước thứ 3
*) Chính sách đối ngoại phải khôn khéo, phù hợp:
+ Về cơ bản là cô lập kẻ thù, lôi kéo thêm bè bạn
+ Trong điều kiện bị bao vây 4 phía phải làm cho nhân dân Pháp và các dân tộc
thuộc địa Pháp ủng hộ ta. Các lực lượng tiến bộ, hoà bình, dân chủ bênh vực ta +
Để làm thất bại âm mưu xuyên tạc, lừa bịp của thực dân Pháp phải có chính sách
đúng đắn với từ hàng binh
*) Kháng chiến về kinh tế: Là phá hoại kinh tế của địch, xây dựng kinh tế của ta cụ thể -
Phá kinh tế địch: phá máy móc, kho tàng, đường sá, thực hiện vườn không
nhàtrống, không cho địch cướp bóc, vơ vét -
Xây dựng kinh tế tạo nhằm thực hiện 2 nguyên tắc: vừa kháng chiến vừa
kiếnquốc, tự cung, tự cấp mọi mặt lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6 -
Ban hành các chính sách: tăng gia sản xuất, tăng thu giảm chi, tiết kiệm,
giảmdàn sự gánh vác của nhân dân, củng cố tiền tệ, giữ vững giá cả...
*) Kháng chiến về văn hóa nhằm đạt 2 nhiệm vụ
- Đánh đổ văn hóa ngu dân, văn hóa xâm lược của thực dân Pháp
- Xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo nguyên tắc dân tộc, khoa học đạichúng.
- Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong bốicảnh so
sánh lực lượng ban đầu giữa ta và địch quá chênh lệch, không cân sức. Trường
kỷ kháng chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng,
phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến
trường có lợi cho ta. Thời gian được xác định là lực lượng vật chất để chuyển
hóa nhỏ thành lớn. yếu thành mạnh. Đây là một quy luật cơ bản của cuộc chiến
tranh nhân dân lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn trong lịch sử chiến tranh của
dân tộc Việt Nam. Kháng chiến lâu dài nhưng không phải là kéo dài vô thời hạn
mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước tiến
nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Tư tưởng chỉ
đạo này đánh dấu sự hình thành, bước đầu phát triển tư duy lý luận quân sự mới
trong cách mạng dân tộc dân chủ và nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Đảng ta.
- Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lượctrong
chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền “đem sức
ta mà tự giải phóng cho ta” của Hồ Chí Minh. Cuộc kháng chiến của nhân dân
ta nổ ra trong điều kiện quốc tế bất lợi, phe đế quốc chủ nghĩa hung hăng hiếu
chiến; Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, chưa có nước nào
giúp đỡ ta. Con đường duy nhất đúng đắn lúc bấy giờ là phải tự lập, tự cường,
tự cấp, tự túc về mọi mặt; phải dựa vào nguồn nội lực của dân tộc, phát huy
nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ
yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh. Đồng thời, trong kháng chiến
không để bị bao vây, cô lập mà cần thiết phải tìm được các nguồn lực ủng hộ,
giúp đỡ cả tinh thần và vật chất của quốc tế, trước hết là các nước các nước láng lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
giềng, phe xã hội chủ nghĩa, các lực lượng tiến bộ và phát huy cao độ ngoại lực
khi có điều kiện. Trong đó tự lực, độc lập về đường lối kháng chiến là yếu tố
quan trọng hàng đầu, phát huy tinh thần bất khuất, lòng yêu nước thiết tha, ý
thức dân tộc tự cường, tự quyết, tự chủ của nhân dân Việt Nam là nhân tố quyết định.
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành trong những năm đầu của cuộc
chiến tranh chống Pháp là hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ
lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó đã huy
động và phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc
để đánh thắng kẻ thù xâm lược, tranh thủ và phát huy cao độ hiệu quả sự giúp đỡ
quốc tế đối với cuộc kháng chiến. Đường lối kháng chiến của Đảng được nhân
dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố
quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
II. Lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến từ năm 1947-1950 1.Tình hình chung
-Năm 1947: Sau chủ trương toàn quốc kháng chiến năm 1946 của Đảng, trên
khắp các chiến trường Việt Nam thực dân Pháp đã rơi vào tình thế lúng túng,
nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến và đầy tham vọng, thực dân Pháp đưa ra
kế hoạch nhằm mở rộng chiến tranh, cuộc tiến công lên Việt Bắc là một kế hoạch
nằm trong chiến lược đó. Mục tiêu của cuộc tiến công là nhằm loại trừ bộ đội chủ
lực ra khỏi vòng kháng chiến, lập chính phủ bù nhìn toàn quốc, kết thúc chiến
tranh và đặt lại ách thống trị lên toàn bộ nước ta, khóa chặt biên giới Việt
– Trung, ngăn chặn mối quạn hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc.
Theo kế hoạch đã được sắp đặt từ trước, ngày 7/10/1947 thực dân Pháp tập trung
hơn 20.000 quân tinh nhuệ được trang bị đầy đủ vũ khí, phương tiện hiện đại (máy lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
bay, tàu chiến, đại bác…) mở cuộc tiến công lớn, thọc sâu vào hậu phương ta,
đánh thẳng vào trung tâm Việt Bắc, căn cứ địa chính của cuộc kháng chiến.
- Đến năm 1950, tình hình kinh tế- xã hội của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu đã dần đi vào ổn định và phát triển. Liên Xô đã đi vào thực hiện
kế hoạch 5 năm 1946-1950 và chế tạo thành công vũ khí nguyên tử (1949), phá
thế độc tôn của Mỹ về loại vũ khí này. Sự vững mạnh của Liên Xô là chỗ dựa
vững chắc cho hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, nguồn cổ vũ lớn lao cho các
dân tộc đang bị áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
-Bên cạnh đó, tháng 10-1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời đã giáng một đòn mạnh vào chủ nghĩa đế
quốc, đánh đổ một bộ phận quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chúng, góp
phần cổ vũ cho phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới và tăng cường sức
mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ ở
Trung Quốc và sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo đường
lối xã hội chủ nghĩa đã làm cho hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được mở rộng
từ Tây sang Đông, một hậu phương bao la ở phía Bắc đã mở ra đối với nước ta.
Đó là điều kiện vô cùng thuận lợi đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
=>Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của việc kết nối cách mạng nước ta với cách
mạng thế giới, trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa, đầu năm 1950, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã bí mật đến Trung Quốc và Liên Xô[1], mở đầu cho việc các nước
xã hội chủ nghĩa công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đặt quan
hệ ngoại giao với nước ta.
2: Công cuộc chuẩn bị cho chiến đấu lâu dài
Ngày 6-4-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung
ương, nhấn mạnh việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp,
củng cố chính quyền nhân dân ở vùng địch tạm chiếm, phát động chiến tranh du
kích, đẩy mạnh công tác ngoại giao và tăng cường công tác xây dựng Đảng. lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6 2.1: Về chính trị
Từ khi chiến sự bắt đầu lan rộng, kháng chiến được xác địnhlà nhiệm vụ hàng
đầu, nên hình thức tổ chức chính quyền và têngọi của Uỷ ban hành chính không
còn phù hợp. Vì vậy, mộtngày sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ngày 2012-
1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số l/SL về việc thành lập Uỷ ban bảo vệtại các khu
quân sự, các đơn vị hành chính từ cấp tỉnh trở xuống; quy định thành phần, chức
năng và quyền hạn của Uỷban bảo vệ các cấp. Từ tháng 3-1947, Chính phủ ra các
sắc lệnhsửa đổi, bổ sung một số điều khoản về Uỷ ban bảo vệ các cấp từkhu xuống
đến cơ sở. Theo đó, mỗi Uỷ ban bảo vệ khu và tỉnhcó 1 đại biểu quân sự, 1 đại
biểu hành chính và 3 đại biểu nhândân. Uỷ ban bảo vệ huyện gồm 3 đại biểu (quân
sự, hành chính và nhân dân). Uỷ ban bảo vệ xã có 1 đại biểu nhân dân và 1 đạibiểu quân sự.
Uỷ ban bảo vệ là tổ chức gồm các thành phần quân, dân,chính.Chiến sự lan tới
đâu, Uỷ ban bảo vệ ở đó đổi thành Uỷ bankháng chiến. Như vậy, từ đầu năm 1947,
từ cấp khu xuống đếnxã, bên cạnh Uỷ ban hành chính còn có Uỷ ban kháng chiến.
Sựtồn tại cơ chế hai chính quyền ở địa phương không tránh khỏitình trạng cồng
kềnh, chồng chéo, dẫm đạp lên nhau.Nhằm khắc phục tình trạng đó, ngày 27-8-
1947, Chính phủ raSắc lệnh số 91/SL về việc hợp nhất Uỷ ban kháng chiến và
Uỷban hành chính cấp từ tỉnh trở xuống thành Uỷ ban khángchiến kiêm hành chính.
Căn cứ vào sắc lệnh trên, cơ quan hành chính các cấp tỉnh,huyện, xã được kiện
toàn. Uỷ ban cấp xã có 5 uỷ viên, trong đócó 3 uỷ viên hành chính, 1 uỷ viên quân
sự và 1 uỷ viên nhândân. Uỷ ban cấp huyện, tỉnh gồm 7 uỷ viên, trong đó có 3
uỷviên hành chính, 1 uỷ viên quân sự và 3 uỷ viên nhân dân.
Trong quá trình củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền địaphương các cấp, Trung
ương Đảng và Chính phủ đặc biệt quantâm đến việc giáo dục phẩm chất, tư cách
đạo đức của cán bộ,nhân viên Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán
bộ,nhân viên Nhà nước, trước hết là đảng viên phải thật thà, đoànkết, thương yêu lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
nhau, phải kiên quyết tẩy rửa đầu óc bè phái,quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham
chuộng hình thức, vô kỉ luật,ích kỉ... Nhờ đó, Uỷ ban kháng chiến hành chính các
cấp từ xãđến Liên khu đã gánh vác được vai trò thay mặt Chính phủ tổchức và
điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc tại địaphương mình.
Nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc kháng chiến, công tác xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức được các cấp từ Trung ương xuống các tỉnh đặc biệt
coi trọng. Công tác pháttriển Đảng được đẩy mạnh trong bộ đội, dân quân, trong
các xínghiệp, cơ quan Nhà nước và cả trong các vùng sau lưng địch.Hàng vạn
công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, chiến sĩtrong lực lượng vũ trang được
kết nạp Đảng. Các tổ chức cơ sởcủa Đảng đã ăn sâu bám rễ trong nhân dân. Hầu
hết các địaphương đã lập được huyện uỷ, nhiều nơi lập được chi bộ liên xã.Hệ
thống tổ chức của Đảng trong quân đội cũng từng bước được kiện toàn.
Song song với công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể quầnchúng cũng không
ngừng được củng cố về tổ chức.Tổ chức Công đoàn ngày càng thu hút được nhiều
đoàn viênvà phát huy được vai trò động viên, tổ chức công nhân thi đuasản xuất,
phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật.Các Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc có đông đảohội viên tham gia, thường xuyên giáo dục, động viên các hộiviên
tích cực đóng góp sức người, sức của phục vụ kháng chiến.Công tác vận động
thanh niên có bước tiến triển mới. Từ năm 1947, các tổ chức Đoàn Thanh niên
cứu quốc, Liên đoàn Thanhniên Việt Nam, Tổng hội Sinh viên Việt Nam được
củng cố và lần lượt mở đại hội.
Công tác vận động đoàn kết với giới trí thức, đoàn kết cácdân tộc và tôn giáo cũng
được đẩy mạnh, góp phần tăng cườngkhối đoàn kết toàn dân, làm thất bại chính
sách "dùng người Việt đánh người Việt”của thực dân Pháp. 2.2: Về quân sự
Khi cả nước bước vào kháng chiến, vấn đề xây dựng và pháttriển lực lượng vũ
trang trở thành một nhiệm vụ cấp bách, khôngchỉ nhằm đáp ứng yêu cầu trước
mắt mà còn đảm bảo cho khángchiến lâu dài. lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (l-1947)nêu rõ: "Trong các
khu cần phải tổ chức ngay bộ đội bổ sung,việc tuyển lựa bộ đội này phải được Bộ
Quốc phòng chuẩn ytrước...".
Ngày 12-2-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 16/SL thành lậpPhòng Dân quân, trực
thuộc Cục Chính trị. Tiếp theo, ngày 19-2, Bộ Quốc phòng ra Thông tư quy định
mọi công dân từ 18 đến45 tuổi vào dân quân, tự vệ, du kích. Hàng chục vạn quần
chúng, thuộc đủ các lứa tuổi, hăng hái gia nhập dân quân, tự vệvà du kích. Đến
cuối năm 1947, tại nhiều địa phương, ở các xã đã có từ 1 đến 2 trung đội dân quân
tự vệ; ở huyện có từ 1 đến 2trung đội du kích thoát li, ở tỉnh có từ 1 đến 2 đại đội
du kíchthoát li. Với phong trào "cướp vũ khí địch đánh địch", nhiều đơn vị dân
quân, tự vệ và du kích dần dần tự trang bị được vũ khí tốthơn.
Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng chỉhuy Quân đội Quốc gia
thành Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốcgia và dân quân tự vệ Việt Nam; đồng thời
quyết định thành lập các ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội, Xã đội thuộc Uỷ
bankháng chiến các cấp. Việc huấn luyện được tổ chức thường xuyên và đi dần
vào nền nếp. Tại Việt Bắc, Khu IV, Khu V và các căn cứ thuộc Nam Bộ có chế độ
huấn luyện thường kì chodân quân, tự vệ và du kích.
Từ mùa hè năm 1947, kháng chiến mở rộng, hàng chục vạnquần chúng thuộc mọi
tầng lớp hăng hái gia nhập dân quân, tựvệ và du kích. Hàng nghìn làng kháng
chiến bước đầu được xây dựng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt coi trọng.Thực hiện Nghị quyết
Hội nghị quân sự lần thứ 3 (6-1947), BộTổng chỉ huy điều động cán bộ Trường
Võ bị Trần Quốc Tuấn,Trường Quân chính về thị xã Bắc Kạn mở các lớp bồi
dưỡngcán bộ cơ sở. Hàng trăm cán bộ các cấp dược bổ túc về quân sựvà chính trị.
Tháng 8-1947, Bộ Tổng chỉ huy mở lớp bổ túc cán bộ Đảng cấp toàn quân tại xã
La Bằng (huyện Đại Từ, tỉnh TháiNguyên). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai
mạc và huấn thị cho lớp học. Ngoài ra, nhiều khu tỉnh cũng mở các khoá đào lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
tạobồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ dân quân, tự vệ, du kích từ cấptiểu đội đến đại đội.
Cùng với việc phát triển lực lượng dân quân du kích, phongtrào xung phong tòng
quân cũng diễn ra sôi nổi trong thanhniên. Chỉ trong mùa hè năm 1947, đã có
35.000 thanh niên tìnhnguyện nhập ngũ, nâng tổng số bộ đội chủ lực từ
85.000 người(trước ngày toàn quốc kháng chiến) lên 125.000 người. 2.3: Về kinh tế
Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế kháng chiếncó khả năng tự cấp tự
túc, phục vụ những nhu cầu thiết yếu củanhân dân vùng tự do, đồng thời đáp ứng
được những nhu cầungày càng lớn của chiến trường. Hội nghị cán bộ Trung ương
(từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947) đề ra một chương trình kinh tếkháng chiến gồm hai mặt:
Phá hoại kinh tế địch bằng cách tẩy chay và quân sự phá hoại; làm cho địch không
kinh doanh, bóc lột gì được, khôngthực hiện được chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
Xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến vừa kiến quốc,lập nền kinh tế tự túc.
Hội nghị cán bộ Trung ương còn đề ra phương châm xâydựng nền kinh tế phù hợp
với điều kiện chiến tranh: Chỉ sảnxuất những thứ cần dùng cho mặt trận và đời
sống của nhândân... Về các ngành kinh tế chú trọng nhất là nông nghiệp,thương
mại rồi mới đến kĩ nghệ (chú ý kĩ nghệ chế tạo vũ khí và khai thác)...
Quán triệt phương châm trên, Chính phủ đề ra nhiều chínhsách quan trọng: Chính
sách tăng gia sản xuất, thực hiện khẩuhiệu "Thực túc binh cường", "ăn no đánh
thắng"; chính sách tiếtkiệm và đồng cam cộng khổ; chính sách tôn trọng quyền tư
hữutài sản hợp pháp của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế;chính sách điều hoà lợi ích...
Mặc dù có sự chuẩn bị từ trước, nhưng cuộc kháng chiến nổra vẫn làm cho nền
kinh tế bị đảo lộn. Sản xuất công nghiệp vàthương mại ở các thành phố lớn bị lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
ngưng trệ. Nông nghiệp cũnggặp khó khăn, nhất là những vùng bị địch chiếm.
Trước tìnhtrạng đó, Trung ương Đảng và Chính phủ chỉ đạo:
Phương hướng xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất trong kháng chiến là chú
trọng nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và côngnghiệp quốc phòng;
khuyến khích hình thức kinh tế cá nhân,kinh tế hợp tác xã và kinh tế Nhà
nước.Trong nông nghiệp, nhiều chính sách và biện pháp lớn được ban hành, bao
gồm: Chính sách toàn dân tăng gia sản xuất,chính sách phát triển sản xuất gắn liền
với chính sách ruộng đất,chính sách nhân công, chính sách cải tiến kĩ thuật, chính
sáchbảo vệ sản xuất. Phong trào tăng gia sản xuất rầm rộ khắp nơi,góp phần thiết
thực nâng cao tiềm lực kinh tế kháng chiến.
Riêng các vùng tự do, trong năm 1947, nhân dân ta đã cấy được1.893.700 ha lúa,
thu được 2.194.000 tấn thóc; trồng được243.000 ha hoa màu, thu được 474.000
tấn, tăng 189% so vớinăm 19411.
Cùng với sản xuất nông nghiệp, trong những tháng đầu củacuộc kháng chiến toàn
quốc, những xí nghiệp quốc phòng vàdân dụng có quy mô thích hợp đã lần lượt
được xây dựng ởvùng tự do và vùng căn cứ kháng chiến. Công nghiệp quốcphòng
là hệ thống công nghiệp quan trọng nhất trong thời kì kháng chiến. Ngay từ đầu
kháng chiến, trong quá trình dichuyển cơ sở vật chất kĩ thuật đến căn cứ, Bộ Tổng
chỉ huy đãxác định phương hướng tổ chức các xí nghiệp quốc phòng là:
Xây dựng một hệ thống các xưởng với nhiều thiết bị máy móc,công nhân để chế
tạo, sản xuất lớn; xây dựng một hệ thốngchuyên môn hoá, như sửa chữa vũ khí,
đúc lựu đạn, nhồi lắp lựuđạn; xây dựng một số tổ, kíp sửa chữa nhỏ đi lưu động
để sửachữa vũ khí. Tính đến cuối năm 1946, ngành Quân giới đã có 20cơ sở lớn
và nhỏ với2.500 công nhân. Đầu tháng 2-1947, Chính phủ ra quyết địnhthành lập
Cục Quân giới thay cho Cục Chế tạo. Có thể nói, ngành Quốc phòng đã giải quyết
thành công nhiều vấn đề vềnguyên vật liệu, kĩ thuật sản xuất, tổ chức quản lí, đào
tạo cánbộ, công nhân. Nhịp độ sản xuất vũ khí, đạn dược tăng rất nhanh. Tính
theo trọng lượng tấn và lấy chỉ số năm 1946 là100, thì năm 1947, từ Liên khu IV lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
trở ra là 707; năm 1948 là1.044. Đến giữa năm 1947, ở các khu, tỉnh từ Bắc đến
Nam đãxây dựng được 168 binh công xưởng, mỗi xưởng có từ 200 đến500 công
nhân. Ngoài các xưởng quân giới do Bộ Quốc phòngtổ chức, còn có các xưởng
vũ khí dân quân do các địa phương tựxây dựng và chỉ đạo. Riêng Liên khu Việt
Bắc đã có tới 8 xưởngsản xuất vũ khí. Song song với công nghiệp quốc phòng,
Chính phủ Việt NamDân chủ Cộng hoà chủ trương phát triển công nghiệp dân
dụng,trong đó có một số cơ sở thuộc thành phần quốc doanh. Nhiệmvụ của các xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh là cung cấp giấybạc, giấy in, giấy viết vải xà
phòng, bóng đèn... phục vụ các cơquan dân chính và các yêu cầu dân sinh.Ngành
Thủ công nghiệp được xây dựng, phát triển với quymô nhỏ phân tán, kết hợp công
cụ sản xuất thô sơ với máy móc,dựa vào dân và nguyên liệu trong nước, địa
phương tự lập, sảnxuất tự cấp tự túc. Nhờ đó, ngay từ đầu ngành thủ công
nghiệpđã tập trung giải quyết những mặt hàng tối cần thiết như dệt,giấy, ấn loát,
xà phòng, chén, bát, chiếu, đường, nước mắm...Thương nghiệp, tiền tệ, giá cả đã
có sự chuyển hướng chophù hợp với thời chiến. Đầu năm 1947, Chính phủ giao
cho Nha Tiếp tế thuộc Bộ Kinh tế nhiệm vụ thu mua và dự trữ thóc gạo.Cơ quan
Phân phối muối (thuộc Bộ Tài chính) tổ chức vậnchuyển muối của Nhà nước và
muối trên thị trường tự do đưa vềcác khu an toàn.
Về tiền tệ, ngày 15-5-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 48/SLcho lưu hành bạc
Việt Nam (bạc tài chính) trong toàn quốc.Khối lượng giấy bạc Đông Dương cũ
của Pháp được ta thu vềlàm vốn trang trải cho Ngành Ngoại thương. Tuy nhiên,
do hoàn cảnh chiến tranh, nên đã hình thành các khu vực tiền tệ riêng biệt.
2.4: Về văn hóa, giáo dục, y tế
Đảng và Nhà nước chủ trương không để các hoạt động thuộc những lĩnh vực trên
bị đứt đoạn vì chiến tranh, mà phải đượctiếp tục phát triển và phục vụ tốt cho sự
nghiệp kháng chiến,kiến quốc của dân tộc. Đảng và Chính phủ đã dành sự quan
tâm to lớn cho sự phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, tạo điều kiệntừng bước
phát triển khoa học và kĩ thuật phục vụ kháng chiến.Nghị quyết Hội nghị cán bộ lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
Trung ương lần thứ 2 (từ ngày 3đến 6-4-1947) chỉ rõ: Động viên tất cả giới trí
thức, văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, dùng các nhà trí thức văn hoá, chuyên
môn vào ngành công tác như quân giới, quân y, giáo dục, tuyên truyền kháng
chiến, chú trọng mở mang giáo dục kháng chiến...
Vừa kháng chiến, dân tộc ta vừa xây dựng một nền văn hoá mới,có tính chất hợp
với tinh thần dân tộc độc lập, hợp với khoa học,tiến bộ, hợp với tình hình và trình
độ của đông đảo quần chúngnhân dân. Đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ ở mọi miền
đất nướcđã khoác ba lô lên đường kháng chiến. Mọi hoạt động văn hoá,văn nghệ
đều hướng vào phục vụ kháng chiến theo khẩu hiệu:“Tất cả để chiến thắng".
Nhiều truyện ngắn, phóng sự, nhạc phẩm, thơ ca được sáng tác, đề cao lòng yêu
nước, lòng tự hàodân tộc, niêm tin vào thắng lợi của kháng chiến. Các tác
phẩmvăn nghệ, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam và báo chí ở cácvùng tự do đã
góp phần đắc lực vào công tác tuyên truyền chủtrương của Chính phủ, cổ vũ tinh
thần kháng chiến của quân vàdân ta, chống lại các luận điệu tuyên truyền phản động của địch.
Ngành Giáo dục đã có một bước tiến mới về nội dung,phương hướng đào tạo trong
điều kiện vừa kháng chiến vừa kiếnquốc. Hội đồng Chính phủ xác định phải tổ
chức lại nền giáodục ngay trong thời kì chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xácđịnh phương châm giáo đục là học đi đôi với hành, tổ chức giáo dục chính là
thực hiện kháng chiến bằng văn hoá; giáo dục làvăn hoá của cuộc kháng chiến.
Yêu cầu của sự nghiệp khángchiến, kiến quốc đòi hỏi phải sửa đổi chương trình
giáo dục,phải biên soạn sách và sửa đổi cách dạy cho phù hợp. Nội đungchương
trình và phương pháp đào tạo theo phương châm thiếtthực là chính, nhưng phải đề cao chất lượng..
Dù chiến tranh ngày càng ác liệt và việc tổ chức lớp học ngày càng khó khăn,
nhưng chính quyền các cấp và các cơ quan giáodục đã cố gắng duy trì hệ thống
giáo dục trong vùng giải phóng. Nền giáo dục kháng chiến được tổ chức khá đa
dạng và toàndiện. Ngoài báo dục hệ chính quy gồm các trường phổ thông vàcao lOMoAR cPSD| 60857655
Bài thi môn: Lịch sử ĐCSVN Nhóm Sinh viên: nhóm 6
đẳng, đại học còn có hệ bổ túc văn hoá và hệ thống các trường chính trị, quân sự.
Phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và mở rộng.
Năm 1947, Khu X mở được 153 lớp, huấn luyện đào tạo3.745 giáo viên, động
viên trên 130.000 học viên theo học cáclớp Bình dân, gấp 5 lần so với số lượng
học viên năm trước. Tạicác tỉnh Liên khu V và Bình - Trị - Thiên. mặc dù bị địch
baovây bắn phá, nhưng các cấp chính quyền dân chủ nhân dân đãkhắc phục khó
khăn để bám đất, bám dân nhằm từng bước khôiphục các lớp Bình dân học vụ
theo khẩu hiệu "Tay bút, taysúng", "Diệt dốt xâm lăng". Đến cuối năm 1947, cả
nước đã thanh toán nạn mù chữ cho trên 1,2 triệu người, trong đó cónhiều làng,
xã ở Hải Dương và Thái Bình được công nhận xoá xong nạn mù chữ. Ngành Giáo
dục phổ thông phát triển khá nhanh. Tính đếntháng 6-1947, số học sinh tiểu học
ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộlên tới 147.000 em, tăng 47% so với tháng 12-1946.
Nội dunggiảng dạy và phương thức hoạt động trong các nhà trường phù hợp với
yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Chế độthi cử xác nhận bậc học của
học sinh và tuyển chọn học sinh vàocác lớp trên được duy trì. Tháng 4-1947,
Chính phủ ra Nghị định mở kì thi Trung học và Tiểu học trong cả nước. Đến cuối
năm 1947, đã có hàng nghìn trường tiểu học và trung học thuhút hàng vạn con em
nhân dân đến lớp học.Việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý.
3. Chỉ thị phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp
*) Mưu đồ của địch: chụp bắt cơ quan đầu não của ta; tiêu diệt bộ đội chủ lực;
phá căn cứ địa kháng chiến; khóa chặt biên giới và khủng bố, uy hiếp tinh
thần kháng chiến của nhân dân ta, đầu tháng 10-1947, địch huy động trên
12.000 quân với nhiều vũ khí, trang bị hiện đại, mở cuộc tiến công lên Việt
Bắc. Đây là đòn tiến công có quy mô chiến lược - phản ánh sự cố gắng cao
nhất của thực dân Pháp (lúc bấy giờ), thực hiện “tốc chiến, tốc thắng”, kết
thúc chiến tranh trong vòng ba tuần, theo như tuyên bố của tướng Xa-lăng
- Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Đông Dương, tác giả của “Kế hoạch tiến công Việt Bắc”.