
lOMoARcPSD|61096548
TI LIU HI NHP KINH T QU!C TE$%
Hội nhập kinh tế quốc tế (Trường Đại Học Thủ Dầu Một)

lOMoARcPSD|61096548
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP TÁC VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm về hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế.
1.1.1 Khái niệm về hợp tác quốc tế
- Hợp tác (Cooperation) đã tồn tại ngay từ thời kỳ đầu của lịch sử loài người với sự hình thành
các cộng đồng sơ khai qua hợp tác giữa người và người như bầy đàn, công xã, thị tộc, bộ lạc,
liên minh bộ lạc.
- Nó diễn ra trong mọi xã hội và tồn tại trong mọi giai đoạn lịch sử bất chấp thế giới đầy rẫy
xung đột và chiến tranh.
- Cho đến nay, hợp tác quốc tế đã trở thành xu thế lớn trong QHQT. Xu thế này đang lôi cuốn
mọi quốc gia và con người khắp nơi trên thế giới cũng tham gia.
- Cho đến khi quốc gia và dân tộc hình thành, tức là xuất hiện chủ thể QHQT, hợp tác giữa
chúng đã trở thành hợp tác quốc tế.
- Hợp tác quốc tế là một hiện tượng phổ quát và xuyên lịch sử.
*Nêu khái niệm và đặc trưng của hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế?
- Hợp tác quốc tế là sự phối hợp hoà bình giữa các chủ thể QHQT nhằm thực hiện các mục đích
chung”
- Hợp tác quốc tế có bốn đặc trưng cơ bản
Thứ nhất: Xét về mặt chủ thể, hợp tác phải có sự tham gia của chủ thể QHQT thì mới là hợp tác
quốc tế
Thứ hai: Xét về mục đích, hợp tác là cách thức phối hợp nhằm thực hiện các mục đích chung
với những lợi ích chung. Sự phối hợp rất đa dạng từ nhân lực, vật lực đến tài lực.
Thứ ba: Xét về một hành vi, đó sự tương tác hoà bình giữa các chủ thể QHQT, tức là trong đó
bạo lực được loại ra.
Thứ tư: Xét về mặt kết quả, sự hợp tác thường đem lại kết quả như nhau cho các bên tham gia
hợp tác, tức là hoặc cũng được, hoặc cũng không thoả mãn.
- Hội nhập (Integration) là một hiện tượng lịch sử xuất hiện từ lâu với điển hình là sự hình
thành các quốc gia, dân tộc dựa trên sự hội nhập giữa các nhóm và giai tầng xã hội.
- Tuy nhiên, hội nhập quốc tế xuất hiện muộn hơn nhiều. Cùng với sự phát triển QHQT, những
dấu hiệu đầu tiên của hội nhập quốc tế bắt đầu xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XIX với việc Anh
thành lập các khu vực thương mại tự do giữa chính quốc và thuộc địa.
- Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, hội nhập quốc tế bắt đầu trở thành xu hướng trong QHQT và
tăng lên đặc biệt mạnh mẽ sau Chiến tranh Lạnh. Cho đến nay, hội nhập quốc tế đã trở thành
1

lOMoARcPSD|61096548
một xu thế lớn trong đời sống quốc tế, chi phối mạnh mẽ QHQT, ảnh hưởng sâu sắc lên mọi
quốc gia Thứ nhất:
- Hội nhập là một quá trình kết hợp các đơn vị riêng rẽ vào một chính thể mới.
- Sự kết hợp này chính là sự vận động chủ yếu trong quá trình hội nhập.
- Đối với hội nhập quốc tế, các đơn vị ở đây chính là chủ thể QHQT, đặc biệt là quốc gia Thứ
hai:
- Quá trình kết hợp nói trên dẫn đến sự hình thành chính thể mới, chính thể ở đây là một hệ
thống mới với cấu trúc riêng luật lệ riêng và những liên quốc gia mới theo hướng chặt chẽ
hơn. - Đó có thể là hình thức cộng đồng, tổ chức liên quốc gia hoặc hiệp định liên kết nào đó.
Nói cách khác, đó chính là một hệ thống quốc tế mới. Thứ ba: - Khi tham gia vào chính thể
này, các quốc gia thường phải tự điều chỉnh mình để phù hợp với những qui định mới của
chính thể. Sự điều chỉnh này có thể là sửa đổi chính sách hay cải cách thể chế, luật pháp và
thậm chí phải là phải nhường một phần quyền hạn của mình cho chỉnh thể này.
- Nếu việc điều chỉnh đem lại sự hài hòa và gắn kết với chính thể, thì việc san sẻ một phần
quyền hạn nhằm đem lại quyền hành và tính hiệu lực cần thiết cho cơ cấu chung, đem lại cho
hệ thống những đặc tính mới có lợi cho các thành viên Thứ tư:
- Động cơ thúc đẩy quốc gia tham gia hội nhập quốc tế chính là lợi ích cơ bản của quốc gia. Chỉ
những lợi ích cơ bản mới khiến quốc gia tham gia hội nhập và sẵn sàng nhường một phần
quyền hạn.
- Quốc gia không tham gia hội nhập nếu lợi ích thu được không đủ lớn so với quyền hạn và chi
phí bỏ ra. Bởi thế, các quốc gia thường tham gia hội nhập quốc tế trên cơ sở tự nguyện. Điều
này khiến hội nhập khác với sáp nhập.
- Từ các đặc trưng trên, có thể đi đến khái niệm “hội nhập quốc tế” như sau: “ Hội nhập quốc tế
là quá trình kết hợp các quốc gia riêng rẽ vào một trạng thái của chính thể mới trên cơ sở đảm
bảo lợi ích cơ bản của quốc gia”.
*Phân tích sự giống và khác nhau giữa hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế.
- Hội nhập đòi hỏi tạo thành chỉnh thể hay hệ thống mới trong khi hợp tác không nhất thiết phải
làm như vậy.
- Tham gia hội nhập đòi hỏi phải điều chỉnh hay cải cách đáng kể trong nước và nhường bớt
quyền hạn cho chính thế mới trong khi hợp tác không đòi hỏi đến mức như thế.
- Hội nhập thường hướng tới quá trình liên kết dài lâu trong khi hợp tác có thể ngắn hạn hoặc
dài hạn.
- Hội nhập thường đòi hỏi liên kết sâu sắc với những quy định chặt chẽ hơn là hợp tác.
- Hội nhập đòi hỏi những điều kiện nhất định mới có thể thực hiện được trong khi những điều
kiện như vậy đối với hợp tác thường dễ dàng hơn.
- Hội nhập tỏ ra khá khó khăn trong những lĩnh vực liên quan đến chủ quyền quốc gia trong khi
hợp tác có thể được tiến hành trong nhiều lĩnh vực.
2

lOMoARcPSD|61096548
=> Nói như thế không có nghĩa tách biệt hội nhập với hợp tác. Tăng cường hợp tác là nền tảng
cần thiết để tiến tới hội nhập và vì thế hội nhập là bước phát triển cao hơn của hợp tác.
- Như vậy, hội nhập có thể được coi là một hình thức hợp tác nhưng với mức độ cao hơn.
*Phân loại hợp tác quốc tế
- Phân chia dựa trên lĩnh vực hoạt động.
- Cách phân loại thứ hai căn cứ trên số lượng chủ thể tham gia.
- Cách phân loại thứ ba dựa theo quy mô không gian.
- Ngoài ra, còn một số cách phân loại khác dựa trên tính chất hay mức độ hợp tác.
- Cách phân loại thứ nhất phân chia dựa theo lĩnh vực. - Dựa theo qui mô không gian.
- Dựa trên mức độ liên kết kinh tế.
*Theo cách phân loại Balassa
- Khu vực mậu dịch tự do
- Liên hiệp thuế quan
- Thị trường chung
- Liên hiệp kinh tế
*Khái niệm toàn cầu hóa và cho một ví dụ về toàn cầu hóa
- Các khái niệm về toàn cầu hóa, khu vực hóa, hội nhập khu vực và quốc tế
- Theo học giả Lê Hữu Nghĩa: “Toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ
những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau của tất cả các khu vực đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới”.
*Các biểu hiện của toàn cầu hoá kinh tế:
- Thương mại thế giới phát triển mạnh;
- Đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh;
- Thị trường tài chính quốc tế mở rộng;
- Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn…
*Hệ quả của việc toàn cầu hoá kinh tế
- Tích cực: Thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đẩy nhanh đầu
tư, tăng cường sự hợp tác quốc tế.
- Tiêu cực: Toàn cầu hóa kinh tế cũng có những mặt trái của nó, đặc biệt làm gia tăng
nhanh chóng khoảng cách giàu nghèo.
3

lOMoARcPSD|61096548
*Khu vực hóa
- Cùng với toàn cầu hoá và bổ sung cho toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá. Xu thế khu
vưc hoá vừa là sự thể hiện vừa là sự phản ứng đối với xu thế toàn cầu hoá. Trong quan hệ với
toàn cầu hoá thì xu thế khu vực hoá được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hoá.
- Những quốc gia có những nét chung về địa lý, văn hoá, xã hội hoặc chung mục tiêu, lợi
ích phát triển, có xu hướng liên kết với nhau hình thành nên các tổ chức liên kết kinh tế khu
vực.
- Khu vực hoá có nhiều mức độ khác nhau từ một vài nước và một vài vùng lãnh thổ đến
nhiều nước tham gia vào một tổ chức nhằm hỗ trợ cho nhau trong phát triển, tận dụng những ưu
thế của khu vực trong quá trình tham gia nền kinh tế toàn cầu.
*Khái niệm nên kinh tế thế giới
- Nền kinh tế thế giới là tổng thể của các nền kinh tế quốc dân độc lập với các mối quan hệ và
tác động qua lại với nhau tạo thành một hệ thống kinh tế quốc tế như một chỉnh thể thống nhất,
tồn tại và vận động theo các qui luật kinh tế khách quan. Nền kinh tế thế giới gồm 2 bộ phận cơ
bản: - Các chủ thể kinh tế quốc tế; - Các quan hệ kinh tế quốc tế.
*Các chủ thể kinh tế quốc tế
- Các nền kinh tế độc lập: Các nền kinh tế của các quốc gia và vùng lãnh thổ. Đại diện cho các
quốc gia và vùng lãnh thổ: nhà nước – chính phủ:
- Điều tiết hoạt động kinh tế đối nội, đối ngoại;
- Là người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ lớn;
- Tham gia trực tiếp hoạt động sản xuất-kinh doanh thông qua doanh nghiệp nhà nước.
- Các chủ thể cấp độ thấp hơn: Các công ty, xí nghiệp, tập đoàn, đơn vị kinh doanh, các tổ chức
phi lợi nhuận,…
- Các công ty đa quốc gia, cty xuyên quốc gia.
- Các chủ thể kinh tế ở cấp độ quốc tế: Các tổ chức quốc tế: Liên hiệp quốc và các tổ chức, các
tổ chức chuyên môn IMF, WB,…- Các tổ chức quốc tế chuyên ngành: WTO, ILO, Tổ chức
du lịch quốc tế, Tổ chức hải quan thế giới, các hiệp hội ngành nghề….
- Các liên kết kinh tế khu vực: EU, NAFTA, AFTA, MERCOSUR, SAFTA,….
*Các quan hệ kinh tế quốc tế
- Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế: là tổng thể tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể của nền kinh tế thế giới.
- Khái niệm quan hệ kinh tế đối ngoại: Là quan hệ kinh tế của 1 quốc gia với các chủ thể
của nền kinh tế thế giới – là quan hệ kinh tế quốc tế của 1 quốc gia.
4

lOMoARcPSD|61096548
*Từ trình bày trên, có thể xác định nội dung và biểu hiện cụ thể của toàn cầu hóa và khu
vực hóa gồm:
- Thứ nhất, sự gia tăng của các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vốn, công
nghệ, dịch vụ, nhân công…
- Thứ hai, hình thành và phát triển các thị trường thống nhất trên phạm vi toàn cầu và khu
vực, đồng thời với việc hình thành các định chế (luật chơi) và cơ chế để điều chỉnh và quản lý
các hoạt động và giao dịch kinh tế theo hướng ngày càng làm cho các hoạt động này tự do hơn.
5

lOMoARcPSD|61096548
Thứ ba, sự gia tăng số lượng và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (TNC), đặc biệt là
việc hình thành ngày càng nhiều các tập đoàn công ty xuyên quốc gia khổng lồ.
“ Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng
nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ
đơn phương, song phương và đa phương”.
*Các nhân tố thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực và quốc tế
- Những tiến bộ của khoa học và công nghệ.
- Chính sách mở cửa, tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế.
- Sự quốc tế hóa các hoạt động kinh doanh và vai trò của các công ty xuyên quốc gia.
PHÂN KỲ LỊCH SỬ THẾ GIỚI?
1.3. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mức độ: Từ một vài lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, một vài
nước đến nhiều nước.
- Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, an
ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên
nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và
hình thức (song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
- Theo các nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp
đến cao như sau:
- Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình hội nhập.
- Các nước thành viên dành cho nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan,
nhưng còn hạn chế về phạm vi, thể hiện ở số lượng các quốc gia thành viên tham gia, số
lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan và mức độ cắt giảm…
Ví dụ: Hiệp định về thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA) của ASEAN được ký kết tại Manila
ngày 24/7//1977 đã cho phép áp dụng nhiều công cụ khác nhau để tự do hoá thương mại trên cơ
sở ưu đãi…
*Khu vực mậu dịch tự do (FTA)
- Theo hình thức này, tất cả các thành viên trong khối phải thực hiện việc cắt giảm và loại
bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thế bao gồm cả việc giảm và bỏ
một số hàng rào phi thuế quan) trong quan hệ thương mại hàng hóa khi buôn bán trao đổi với
nhau trong khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các nước ngoài khối
đó. Ví dụ: Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA - ASEAN Free Trade Area) là một hiệp
định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN.
- Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng
rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước.
6

lOMoARcPSD|61096548
-
*Liên minh thuế quan (CU)
- Đây là hình thức phát triển cao hơn của hình thức trên. Theo đó các nước thành viên
thống nhất ngoài việc cắt giảm và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất
thực hiện chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối.
- Mục đích của liên minh thuế quan là duy trì những mối lợi mà quá trình chuyên môn hóa
quốc tế mang lại, qua đó cải thiện mức sống thực tế của các thành viên.
Ví dụ: Liên minh Thuế quan Á-Âu (EACU - Eurasian Customs Union) là một liên minh thuế
quan bao gồm tất cả những thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu.
- Nó được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2010 như là một liên minh thuế quan giữa
Belarus, Kazakhstan, và Nga. Kết nạp thêm Armenia và Kyrgyzstan từ ngày 1 tháng 1 năm
2015.
*Thị trường chung (hay thị trường duy nhất)
- Theo hình thức này, tất cả các nước thành viên thống nhất ngoài việc loại bỏ thuế quan và
hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách thuế quan chung đối với
ngoài khối, các thành viên còn thống nhất xóa bỏ tất cả các hạn chế đối với việc lưu thông các
yếu tố sản xuất khác như vốn và lao động để tạo thành một thị trường thống nhất (chung) cho
tất cả các thành viên trong khối.
Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường
chung châu Âu) trước khi trở thành một liên minh kinh tế.
*Liên minh kinh tế- tiền tệ
- Là hình thức hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung duy
nhất cộng thêm với việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung. Điển hình là sử dụng một
đồng tiền chung, ngân hàng trung ương thống nhất của khối. Hiện nay trên thế giới chỉ có EU
phát triển ở hình thức này.
*Các cấp độ của hội nhập kinh tế quốc tế
(1) Khu vực/Hiệp định thương mại ưu đãi
(2) Khu vực/Hiệp định thương mại tự do
(3) Liên minh hải quan
(4) Thị trường chung
(5) Liên minh kinh tế tiền tệ
(6) Hội nhập toàn diện
7

lOMoARcPSD|61096548
*Đối với một nước không nhất thiết phải tham gia vào tiến trình hội nhập theo một cách
tuần tự như trên. Ngược lại, tùy theo đặc điểm của mình, mỗi quốc gia có thể lựa chọn
hình thức hội nhập cho phù hợp.
- Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai
đoạn chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi.
Hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong
các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên thúc
đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Tóm lại
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế
khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức
khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn
cầu. - Theo mức độ các cam kết mở cửa nền kinh tế trong quá trình hội nhập, hội nhập kinh tế
quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ.
1.5. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
1.5.1 Tác động về kinh tế
- Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng thời chỉ ra
đó là con đường phát triển duy nhất đối với các nước trong điều kiện toàn cầu hóa là tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này đuợc khẳng định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập kinh tế
quốc tế tạo ra cho các nước.
- Quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh
tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
- Hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế,
nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
- Hội nhập cũng tạo động lực cho các quốc gia thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh trong nước, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng
thu hút đâu tư vào nền kinh tế.
*Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn gây ra những bất lợi và
thách thức mà các nƣớc phải đối mặt:
- Hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế
gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế - xã hội như nạn thất
nghiệp gia tăng, tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
- Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế mỗi quốc gia vào thị trường bên ngoài
và do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động lớn của thị trường quốc tế
như tình trạng khủng hoảng, hay suy thoái kinh tế khu vực và thế giới.
8

lOMoARcPSD|61096548
-
- Trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển khó chen chân được vào chuỗi giá trị
toàn cầu trong sản xuất của các ngành công nghiệp then chốt.
=> Do vậy, phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các
ngành sử dụng nhiều tài nguyên và lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp, về dài hạn, các
nước này có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, nguồn tài nguyên thiên
nhiên bị cạn kiệt và tình trạng hủy hoại môi trường.
1.5.2 Tác động chính trị- xã hội
- Hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc
gia, nhờ hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ
mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
- Hội nhập tạo cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa
dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh hơn; được tiếp cận và giao lưu
nhiều hơn với các quốc gia khác; mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
- Hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu
thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp hơn đối với tình
hình của đất nước.
- Hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với vấn đề độc lập chủ quyền và an ninh
quốc gia; mất văn hóa và bản sắc dân tộc và gái trị truyền thống.
1.5.3 Tác động đối với quan hệ quốc tế
- Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế,
giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn
định để phát triến.
- Hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập trung cho phát
triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước đế giải quyết
những vân đề quan tâm chung của khu vực và thế giới .
- Hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn
lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
=> Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế có tính hai mặt. Việc khai thác và phát huy lợi ích đến đâu
và hạn chế các bất lợi như thế nào phụ thuộc rất lớn vào chính sách của mỗi nước. APEC:
- Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương, EU: Liên minh châu Âu
9

lOMoARcPSD|61096548
CHƯƠNG 2: CÁC LÝ THUYẾT VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
2.1. Các lý thuyết quan hệ kinh tế quốc tế
- Khái niệm thương mại quốc tế;
- Sự hình thành và phát triển các quan hệ thương mại quốc tế;
- Các lý thuyết về thương mại quốc tế.
2.1.1 Khái niệm thương mại quốc tế (TMQT)
- TMQT là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó diễn ra sự mua bán, trao
đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể của QHKTQT.
TMQT gắn với phận công lao động quốc tế, có phân công lao động quốc tế thì mới có TMQT:
Là quá trình tập trung việc sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ vào một nước nhất định để
đáp ứng nhu cầu của các nước khác thông qua quá trình trao đổi quốc tế.
- TMQT là bộ phận trung tâm của các hoạt động Kinh tế Quốc tế phản ánh tổng hợp trình
độ của một quốc gia trong nền kinh tế thế giới.
- TMQT là một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân
công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
- Ngày nay, TMQT không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất
yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế.
2.1.2 Sự hình thành và phát triển các quan hệ thương mại quốc tế
* Về lý luận
- Các lý thuyết kinh tế (truyền thống và hiện đại) về TMQT - cơ sở của sự hình thành các quan
hệ KTQT.
- Phân công lao động quốc tế - cơ sở của sự hình thành và phát triển các quan hệ KTQT.
* Về thực tiễn
- Các quốc gia khác nhau về điều kiện tự nhiên? phải trao đổi, phải quan hệ để điều chỉnh sự
thừa thiếu nguồn lực.
- Sự phát triển không đều về kinh tế, khoa học kỹ thuật...
- Sự đa dạng hoá thị hiếu và nhu cầu về tiêu dùng.
2.1.3 Quá trình hình thành và phát triển của thương mại quốc tế
- Lịch sử phát triển của loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất XH, mà một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đó là sự phân công lao động XH.
- Theo học thuyết Mác-Leenin, phân công lao động là sự tác biệt hoạt động, lao động khác
nhau trong nền sản xuất xã hội,
10

lOMoARcPSD|61096548
-
- Điều kiện ra đời của phân công lao động XH là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội và ngược lại, khi phân công lao động xã hội đạt đến sự hoàn thiện nhất định, lại trở thành
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất XH.
*Quá trình hình thành và phát triển của thương mại quốc tế
- Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội loài người đã trải qua các giai đoạn phân công lao động
xã hội lớn: Có ba lần phân công lao động trong lịch sử
Giai đoạn 1: Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Các bộ lạc chăn nuôi mang thịt sữa đổi ngũ cốc,
rau quả của các bộ lạc trồng trọt. Đó là mầm mống ra đời của quan hệ sản xuất - trao đổi hàng
hoá giản đơn.
Giai đoạn 2: Nghề thủ công tách rời khỏi nghề nông. Sản xuất chuyên môn hoá bắt đầu phát
triển, dẫn đến sự ra đời của ngành công nghiệp. Đặc biệt, với sự xuất hiện vai trò tiền tệ đã
khiến cho quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá tiền tệ ra đời, thay thế quan hệ sản xuất trao
đổi hàng hoá giản đơn.
Giai đoạn 3: Tầng lớp thương nhân xuất hiện, lưu thông hàng hoá tách ra khỏi lĩnh vực sản
xuất, khiến cho các quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá - tiền tệ trở nên phức tạp, ngày càng
mở rộng, tạo điều kiện cho ngoại thương của từng quốc gia phát triển và thương mại quốc tế ra
đời.
*Các lý thuyết về thương mại quốc tế
- Các lý thuyết về thương mại quốc tế được xây dựng và phát triển dựa vào việc trả lời cho các
vấn đề sau đây:
- Tại sao các nước lại buôn bán với nhau?
- Những loại hàng hoá nào được đưa ra để trao đổi giữa các nước với nhau?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến hoạt động buôn bán giữa các nước?
- Thương mại quốc tế ảnh hưởng đến sự phát triển của các quốc gia ra sao?
*Lý thuyết chủ nghĩa trọng thương
Bối cảnh: Chủ nghĩa trọng thương xuất hiện và phát triển ở Châu Âu từ giữa thế kỷ XV và
XVI, thịnh hành vào cuối thế kỷ XVII khi hoạt động thương mại được phát triển giữa các Châu
lục. Các tư tưởng chính của lý thuyết: Quan niệm vàng và các kim khí quý là đại biểu cho sự
giàu có và hưng thịnh của các quốc gia. Để có được sự giàu có này các quốc gia phải tiến hành
trao đổi với nhau các sản phẩm của các quốc gia.
- Trao đổi quốc tế là hành vi chiếm đoạt của cải lẫn nhau
- Chính phủ là chủ thể chủ yếu của quan hệ thương mại quốc tế
- Để có thể có được nhiều vàng và kim khí quý thì các quốc gia phải áp dụng các biện pháp:
- Đi bóc lột các quốc gia khác.
11

lOMoARcPSD|61096548
- Chính phủ phải sử dụng các công cụ để đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu bằng cách
tăng thuế nhập khẩu, sử dụng hạn ngạch (QUOTA) và phân phối quyền tham gia xuất nhập
khẩu trực tiếp.
*Đánh giá kết quả của lí thuyết
Ưu điểm: Đã thấy được vai trò của thương mại quốc tế là nhân tố làm tăng sự thịnh vượng cho
quốc gia. Điều này đã đối lập với quan điểm của chủ nghĩa phong kiến "bế quan toả cảng".
Đồng thời, đã thấy được vai trò của chính phủ trong việc điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và
lần đầu tiên đã đưa ra khái biệm "cán cân thương mại“.
Hạn chế: Đã hiểu sai lầm hoạt động thương mại quốc tế là việc bóc lột lẫn nhau vì nguyên tắc
cơ bản của hoạt động thương mại là thoả thuận, bình đẳng. Đồng thời, đã coi vàng và các kim
khí quý là đại biểu cho sự thịnh vượng của các quốc gia. Chưa định hình được một lý thuyết
khoa học rõ ràng mà mới chỉ đưa ra được những lời khuyên trên cơ sở tổng kết thực tiễn.
*Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Bối cảnh: Lý thuyết này ra đời gắn với các cuộc cách mạng như: Cách mạng công nghiệp Mỹ,
Pháp
Tư tưởng chính: Lý thuyết này xây dựng trên tư tưởng buôn bán tự do (tự do hoá mậu dịch).
Theo Adam Smith thì các quốc gia sẽ thu được lợi ích nếu tham gia vào TMQT dựa trên lợi
thế tuyệt đối của các quốc gia đó.
- Khái niệm lợi thế tuyệt đối: Là lợi thế đạt được của một quốc gia nếu quốc gia đó tập trung
vào việc sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn chi phí sản xuất
sản phẩm tương tự ở quốc gia khác.
+ Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế chính trị cổ điển ở Anh. Tác phẩm tiêu biểu “để
đời” của ông: “Của cải của các dân tộc” (The wealth of nations -1776). Ưu điểm
- Sau khi có thương mại quốc tế thì tổng sản phẩm của thế giới tăng lên. Như vậy chuyên môn
hoá được dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối sẽ làm tăng sản phẩm toàn thế giới, do đó mức độ
tiêu dùng cao hơn.
- Thương mại quốc tế kích thích sản xuất và tiêu dùng ở các quốc gia từ đó kích thích tăng
trưởng nền kinh tế quốc dân.
- Nếu chuyên môn hoá theo lợi thế tuyệt đối sẽ cho phép khai thác và phát triển những ngành
có thế mạnh do đó sẽ thay đổi cơ cấu kinh tế quốc gia.
- Trên cơ sở đó thì các quốc gia sẽ có chính sách để lựa chọn mặt hàng tham gia thương mại
quốc tế có được hiệu quả nhất.
Hạn chế
- Lý thuyết lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích cho quan hệ thương mại giữa các nước có năng suất
lao động chênh lệch tuyệt đối.
12

lOMoARcPSD|61096548
-
- Nếu một quốc gia bất lợi trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng muốn tham giá vào thương
mại quốc tế không thể giải thích bằng lý thuyết này.
- Đã đồng nhất chi phí sản xuất với tiền lương của công nhân
- Lý thuyết này đã quan niệm giá cả là hoàn toàn do chi phí sản xuất quyết định, không tính đến
các chi phí khác như là chi phí vận tải ....
- Lý thuyết này không tính đến trình độ lao động giữa các nước.
*Lý thuyết lợi thế so sánh (tương đối) của David Ricardo.
- Tư tưởng chính: Nếu một quốc gia bất lợi trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì vẫn
có thể tham gia vào thương mại quốc tế nếu biết lựa chọn mặt hàng thích hợp có lợi thế so
sánh. - Khái niệm Lợi thế so sánh: Là lợi thế đạt được của một quốc gia nếu quốc gia đó
chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn
so với quốc gia khác về mặt hàng đó và nhập khẩu những sản phẩm có tình hình ngược lại.
- Nếu quốc gia nào có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các mặt hàng thì quốc gia đó sẽ
chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi
nhất và nhập khẩu những hàng hoá bất lợi nhất.
Ưu điểm
- Mặc dù bất lợi trong sản xuất các mặt hàng nhưng một Quốc gia vẫn có thể tham gia
vào TMQT, quá trình này cho phép Quốc gia đó tiết kiệm được các loại chi phí, đó là lợi ích
thu được từ thương mại. Sản phẩm toàn thế giới sẽ sản xuất nhiều hơn, nguồn lực thế giới sử
dụng có hiệu quả hơn. Do đó thương mại tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế thế giới.
13

lOMoARcPSD|61096548
-
Các quốc gia có trình độ phát triển tương đồng nhau có thể buôn bán với nhau nếu có tương
quan chi phí sản xuất sản phẩm khác nhau.
Hạn chế
- Lý thuyết của David Ricardo không tính đến các yếu tố sản xuất khác như đất đai, vốn,
khoa học công nghệ mà ông đã đồng nhất tiền lương được với chi phí sản xuất ...
- Coi lao động ở các quốc gia là như nhau về trình độ, cường độ và năng suất, ... cho nên
điều này không thích hợp với hoàn cảnh thực tế các nước. Do đó cần phải có lý thuyết khác giải
thích đầy đủ hơn.
*Các lý thuyết hiện đại
Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm
- Lý thuyết này giải thích nguyên nhân của hoạt động TMQT thông qua các giai đoạn của
chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm.
- Theo đó thì khi sản phẩm ở vào giai đoạn suy giảm, triệt tiêu trên vòng đời của nó thì nó
được bán ra nước ngoài để kéo dài vòng đời bảo đảm lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây chính là
nguyên nhân của hoạt động TMQT.
Lý thuyết về đầu tư
- Hoạt động đầu tư quốc tế là nền tảng cho hoạt động thương mại bởi vì đầu tư cho phép
khai thác các lợi thế một cách đầy đủ và triệt để hơn bao gồm: nguồn lực; công nghệ; thị
trường; uy tín, danh tiếng, nhãn hiệu, kinh nghiệm quản lý để thu lợi ích từ thị trường nước
ngoài và vượt qua các hàng rào thuế quan…
*Đánh giá các lý thuyết về TMQT
Thành tựu.
- Các lý thuyết này đã đưa ra được các giải thích khác nhau về nguyên nhân của TMQT có thể
là do chênh lệch về chi phí lao động.
- Sự khác nhau về chi phí cơ hội, sự khác nhau về giá tương đối, do sự khác nhau về giá cả
hàng hoá cuối cùng. Do lợi thế đạt được nhờ mở rộng quy mô. Do sự khác nhau về các giai
đoạn của chu kỳ sống sản phẩm...
- Các lý thuyết đã đánh giá được những lợi ích thu được của hoạt động thương mại.
- Các lý thuyết đã tạo cơ sở lý thuyết để xây dựng chính sách xuất nhập khẩu.
Hạn chế.
- Các lý thuyết chỉ mới giải thích có tính chất cục bộ (bộ phận) về TMQT.
- Nhiều yếu tố của TMQT như là các hoạt động dịch vụ như : Dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, các tài sản vô hình như danh tiếng, uy tín v...v, kinh nghiệm quản lý, hoạt động --
Marketing là những yếu tố quan trọng của TMQT hiện đại thì lại chưa được nghiên cứu một
cách đầy đủ, cho nên đòi hỏi phải có các nghiên cứu tiếp theo.
14

lOMoARcPSD|61096548
2.2. Lịch sử phát triển của các lý thuyết hội nhập kinh tế quốc tế
- Cho tới nay, giới nghiên cứu lĩnh vực hội nhập kinh tế và thương mại khu vực vẫn coi
nghiên cứu “Vấn đề liên minh hải quan” của Jacob Viner xuất bản năm 1950 là công trình tiên
phong của lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết hội nhập kinh tế, biến chủ đề “hội nhập kinh tế” trở
thành một bộ phận cấu thành của hệ lý thuyết ngành kinh tế học.
- Jacob Viner (1892 – 1970) là một nhà kinh tế học người Canada, là một trong những
người cố vấn "truyền cảm hứng" cho trường phái kinh tế Chicago đầu tiên vào những năm
1930. - Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế được Jacob Viner (1950) lần đầu tiên giới
thiệu trong cuốn sách “Vấn đề liên minh hải quan”.
- Jacob Viner đã đưa ra cách tiếp cận tĩnh trong phân tích tác động của hội nhập kinh tế
dưới hình thức liên minh thuế quan.
- Viner đưa ra hai tác động quan trọng của hội nhập kinh tế bao gồm tạo lập thương mại
(trade creation) và chuyển hướng thương mại (trade diversion).
- Tác động tạo lập thương mại xảy ra khi dòng thương mại trong khối chuyển từ các
nguồn cung ứng với chi phí cao hơn sang nguồn cung ứng có chi phí rẻ hơn, do tác động của
việc cắt giảm thuế quan đối với các quốc gia thành viên.
(Trường hợp khi một phần sản xuất trong nước của một quốc gia thành viên được thay thế bởi
nhập khẩu với chi phí thấp hơn từ một quốc gia thành viên khác).
- Tác động chuyển dịch thương mại xảy ra khi dòng thương mại trong khối chuyển từ các
nguồn cung ứng ở ngoài khối với chi phí thấp hơn sang các nguồn cung ứng ở trong khối có chi
phí cao hơn nhưng lại được hưởng ưu đãi thuế quan. Trong trường hợp này, nguồn lực bị phân
bổ kém hiệu quả hơn.
(Trường hợp khi nhập khẩu hàng hóa với chi phí thấp hơn từ một quốc gia không phải là
thành viên được thay thế bởi nhập khẩu với chi phí cao hơn từ một quốc gia thành viên khác
trong liên minh).
- Kế thừa những kết quả nghiên cứu của Viner, trong ấn phẩm của mình về “Lý thuyết về
hội nhập kinh tế”, Bela Balassa (1961) được xem là người đầu tiên giới thiệu về những tác
động động của tạo lập thương mại. Balassa coi hội nhập kinh tế vừa là một quá trình, vừa là
một trạng thái. - Là một quá trình, hội nhập kinh tế bao gồm các biện pháp kinh tế và chính trị
được sử dụng để xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể kinh tế thuộc các quốc gia và
vùng lãnh thổ khác nhau.
- Là một trạng thái, hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện sự thiếu vắng của các hình thức phân
biệt đối xử giữa các nền kinh tế.
- Quá trình hội nhập kinh tế có thể được coi như là một quá trình xóa bỏ các hình thức
phân biệt kinh tế giữa các quốc gia.
- Balassa cho rằng phân tích tĩnh về tạo lập thương mại và chuyển dịch thương mại chưa
đủ để phân tích những phúc lợi đạt được nhờ hội nhập.
15

lOMoARcPSD|61096548
-
- Balassa liệt kê các tác động động cơ bản của hội nhập bao gồm: tính kinh tế theo quy
mô, thay đổi công nghệ, thay đổi cấu trúc thị trường và cạnh tranh, tăng trưởng năng suất, rủi ro
và bất ổn, và các hoạt động đầu tư.
- Theo Balassa (1961), hội nhập kinh tế mở rộng thị trường hơn so với thương mại bảo hộ,
khiến các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh hơn.
Điều này thúc đẩy họ phải không ngừng đổi mới, nâng cao năng suất và hiệu quả để tồn tại và
mở rộng thị phần. Hội nhập cũng làm giảm tính chất độc quyền của các thị trường đóng cửa do
có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp hơn đến từ các thị trường bên ngoài. - Thông qua cạnh
tranh, các nguồn lực sẽ được phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn.
* Kể từ sau Thế chiến II, lý luận hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào các quan điểm
chính
- Nhóm quan điểm thứ nhất đã hội tụ vào một nhận định chung là những thỏa thuận hội
nhập kinh tế khu vực không nhất thiết mang lại những hiệu ứng phúc lợi tích cực, ngay cả với
những nước thành viên.
- Nhóm quan điểm thứ hai triển khai lý luận theo hướng nhận định rằng trong môi trường
thương mại tự do toàn cầu, các nước sẽ tái phân bổ nhân tố sản xuất để có được cơ cấu thương
mại, sản xuất và việc làm phù hợp với lợi thế so sánh của mình.
- Các lý thuyết cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm: lý thuyết về liên minh hải
quan, lý thuyết khu vực thương mại tự do và lý thuyết về thị trường chung.
2.3. Lý thuyết liên minh hải quan
- Liên minh hải quan (Custom Union – CU) là hình thức liên kết quốc tế trong đó hai hay
nhiều quốc gia thỏa thuận không chỉ xóa bỏ thuế quan và những trở ngại khác trong quan hệ
thương mại với nhau mà còn thiết lập biểu thuế quan chung đối với các quốc gia không phải là
thành viên trong liên minh.
Ví dụ: Liên minh hải quan Benelux (Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) thành lập năm 1948; Cộng
đồng Kinh tế châu Âu (EEC) thành lập năm 1957.
- Việc hình thành liên minh hải quan (CU) có tác động thúc đẩy thương mại tự do trong
nội khối bởi vì các trở ngại thương mại giữa các quốc gia thành viên được xóa bỏ.
- Hơn nữa, liên minh thuế quan còn có thể làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế do xóa
bỏ thuế quan nội khối sẽ làm cho hàng hóa của các quốc gia thành viên trở nên rẻ hơn so với
hang hóa của phần còn lại của thế giới.
2.4. Lý thuyết về khu vực thương mại tự do
- Tất cả các thành viên trong khối phải thực hiện việc cắt giảm và loại bỏ các hàng rào
thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thế bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào
16

lOMoARcPSD|61096548
phi thuế quan) trong quan hệ thương mại hàng hóa khi buôn bán trao đổi với nhau trong khối,
nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các nước ngoài khối đó.
- Các quốc gia thường chọn hình thức hội nhập này nếu cấu trúc kinh tế của họ mang tính
bổ sung cho nhau.
Ví dụ: Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – AFTA
- Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào
năm 1992 tại Singapore. Đây là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các
nước trong khối ASEAN.
17

lOMoARcPSD|61096548
-
Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào
thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước. Ví dụ:
Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ - NAFTA
- Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (North America Free Trade Agreement - NAFTA)
là hiệp định thương mại tự do giữa ba nước Canada, Mỹ và Mexico, ký kết ngày 12/8/1992,
hiệu lực từ ngày 1/01/1994.
2.5. Lý thuyết về thị trường chung
- Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Tất cả các nước thành viên thống nhất ngoài
việc loại bỏ thuế quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách
thuế quan chung đối với ngoài khối, các thành viên còn thống nhất xóa bỏ tất cả các hạn chế
đối với việc lưu thông các yếu tố sản xuất khác như vốn và lao động để tạo thành một thị
trường thống nhất (chung) cho tất cả các thành viên trong khối.
Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường
chung châu Âu) trước khi trở thành một liên minh kinh tế.
- Từ 1-1-1993, EU đã thiết lập một thị trường chung. Trong thị trường này, việc tự do lưu
thông về hàng hóa, con người, dịch vụ và tiền vốn giữa các nước thành viên được đảm bảo…
CHƯƠNG 5: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM
5.1. Quan điểm, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
- Không phải bây giờ VN ta mới sẵn sàng hội nhập quốc tế mà ngay từ ngày đầu giành Độc
lập
(cách đây hơn 70 năm), chúng ta đã chủ động, tự tin sẵn sàng hội nhập quốc tế.
- Năm 1946, trong Lời kêu gọi Liên Hiệp Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho các nước: Anh,
Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên Xô... đã tuyên bố rằng"Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách
mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”
a) Nước Việt Nam giành sự tiếp nhận đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài
trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay, đường sá giao thông cho việc buôn
bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên
Hiệp Quốc...“
- Công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
một sự nghiệp vĩ đại, cao cả và rất mới mẻ vì chưa có tiền lệ.
- Đảng ta luôn dành sự quan tâm sâu sắc cho việc phân tích bối cảnh quốc tế, bám sát
bước đi của nhân loại, tận dụng sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đưa đất nước vượt qua
18

lOMoARcPSD|61096548
nhiều khó khăn, thách thức, vừa phát triển nhanh, bền vững, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng,
giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
*QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Tại Đại hội VI - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta nhận định: Cách mạng
khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh
tế - xã hội của thế giới. Đồng thời, Đại hội đưa ra chủ trương hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ
thuật đối với các nước.
- Đại hội VII, Đảng đưa ra định hướng đa dạng hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức
kinh tế.
- Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong Văn kiện của Đảng: “Xây
dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.
- Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Đại hội X, Đảng nhấn mạnh chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”.
- Đại hội XI khẳng định chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (không chỉ
hội nhập về kinh tế), nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ và phát triển nhanh, bền vững”.
- Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và
cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và
thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập
kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế;
hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình
huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”.
*CHIẾN LƯỢC KT-XH 2001-2010
- “Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh rất phức
tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự
kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công
ty xuyên quốc gia. Đối với nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế trong thời gian tới được nâng lên
một bước mới gắn với việc thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao
hiệu quả, năng lực cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả
vào phân công lao động quốc tế.”
19
Bấm Tải xuống để xem toàn bộ.