Tài liệu chương 3: Những vấn đề cơ bản về pháp luật | Pháp luật đại cương

Tài liệu chương 3: Những vấn đề cơ bản về pháp luật | Pháp luật đại cương với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

I. Bản án hình sự cá nhân phạm tội
Căn cư pháp lý :
- Bản án 394/2023/HS-PT ngày 19/09/2023 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Bản án 58/2023/HS-ST ngày 27/04/2023 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Bộ Luật Hình sự 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017 )
- Bộ luật tố tụng hình sự 2015
- Bộ Luật Dân sự 2015
- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
Tóm tắt nội dung vụ án
1. Nội dung chính:
Lâm Thanh T là nhân viên tiếp thị và Nguyễn Khoa H là nhân viên giao hàng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên thương mại dịch vụ vận tải DN (gọi tắt là Công ty DN) ở địa chỉ số 18x đường 76y, ấp L, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai
do chị Vũ Thiên Ng là người đại diện theo pháp luật. Nhiệm vụ của T được giao là nhân viên tiếp thị giới thiệu sản phẩm
hàng hóa ra thị trường và tìm khách hàng. Khi có người mua hàng T lập danh sách báo lại cho Ng để chị Ng lên đơn hàng,
chuẩn bị hàng và sau đó giao hàng cho Nguyễn Khoa H (nhân viên giao hàng, thu tiền) đi giao cho người mua và nhận
tiền, nếu người mua nợ tiền hàng thì ký nợ vào phiếu giao hàng để H đem về cho Ng theo dõi chốt công nợ hàng tháng.
Sau khi được chị Ng xuất hàng đưa cho H đi giao thì T nói với H chở hàng đến giao cho T tại tổ 12, khu PT, thị trấn L,
huyện T để T bán cho một số khách hàng nhằm mục đích tăng doanh số bán hàng cho T. Tin tưởng T nói thật nên H giao
hàng cho T một số lần và để T giả mạo ký tên người mua ký bên nợ tiền vào phiếu giao hàng hóa rồi H đem về giao lại
cho chị Ng.
Bằng thủ đoạn gian dối này T đã giả chữ ký của những người mua hàng để chiếm đoạt hàng hóa của Công ty DN, cụ thể:
Ngày 30/11/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Hồng Ph” ở xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số
hàng hóa trị giá 40.052.000 đồng.
Ngày 15/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Phát T” ở xã Lộ X, huyện N, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số
hàng hóa trị giá 10.053.000 đồng.
Ngày 24/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Bích T” ở xã L, huyện Nh, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số hàng
hóa trị giá 20.000.000 đồng.
Ngày 25/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Đạo Tr” ở xã Đ, huyện Nh, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số
hàng hóa trị giá 20.217.000 đồng.
Ngày 28/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Siêu thị sữa Phước B” ở xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công
ty DN số hàng trị giá 10.000.000 đồng.
Ngày 07/01/2021 T giả chữ ký của cửa hàng “Siêu thị sữa Long Th” ở xã Th, huyện Nh, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của
Công ty DN hàng trị giá 53.574.000 đồng.
Đến cuối tháng 12/2020 sau khi đối chiếu thu hồi nợ chị Ng phát hiện, số hàng hóa trên không được chuyển giao cho
khách mua hàng mà bị T chiếm đoạt tương đương số tiền 153.896.000 đồng nên trình báo Công an. Qua làm việc T khai
nhận hành vi phạm tội nêu trên và không có khả năng hoàn trả số tiền chiếm đoạt của Công ty DN.
* Vật chứng vụ án: Toàn bộ số hàng hóa sau khi chiếm đoạt T đã bán cho người khác nên không thu hồi được. Riêng các
phiếu giao hàng do T giả chữ ký được thu giữ đưa vào hồ sơ vụ án.
* Về trách nhiệm dân sự: Vào ngày 21/12/2022 bị cáo T đã bồi thường cho Công ty DN số tiền 40.000.000 đồng. Tại
phiên tòa chị Ng yêu cầu bị cáo T tiếp tục bồi thường cho Công ty DN số tiền 198.501.000 đồng.
2. Quyết định của cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2023/HS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, đã quyết định
như sau:
1/ Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s, n khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự
năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Lâm Thanh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Lâm Thanh T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
2/ Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của ; Điều 30 của ; Điều 468, Điều 589 Bộ luật hình sự Bộ luật tố tụng hình sự
của .Bộ luật dân sự
Buộc bị cáo Lâm Thanh T phải bồi thường cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thương mại dịch vụ vận tải
DN số tiền 113.896.000đ (Một trăm mười ba triệu tám trăm chín mươi sáu ngàn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi
hành án chưa thanh toán thì hàng tháng còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
3. Kháng cáo:
Ngày 10/5/2023, bị cáo Lâm Thanh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin cho bị cáo hình phạt tù treo. Lý do: Gia đình
bị cáo neo đơn, nghèo khổ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, nếu bị cáo đi tù thì sẽ không ai nuôi mẹ già bị mù lòa
và 02 con nhỏ.
4. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Do hoàn cảnh khó khăn bị cáo lỡ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nên
bị cáo phải gánh chịu trách nhiệm. Chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có hoàn cảnh hết sức khó khăn, bị cáo là lao
động chính phải nuôi hai con nhỏ, mẹ già bị mù lòa và hiện tại bị cáo mang thai sắp đến ngày sinh nở, người sống chung
với bị cáo cũng đã bỏ đi, nếu bị cáo phải thi hành án tù thì không ai chăm sóc con, mẹ già và cũng để bị cáo có điều kiện
lao động có nguồn thu nhập khắc phục tiếp phần thiệt hại cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng các
tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s, n, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo và áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
5. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm, cho thấy cấp sơ thẩm giải quyết
là có cơ sở. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng mức hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp
với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Tại cấp phúc
thẩm, bị cáo cung cấp giấy xác nhận có hoàn cảnh khó khăn, phải nuôi 02 con và mẹ già, giấy kết quả siêu âm bị cáo đang
mang thai sắp sinh, đây là tình tiết mới đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo theo quy định.
6. Nhận định của tòa án cấp phúc thẩm
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo của bị cáo Lâm Thanh T trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về tội danh:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với mô tả
và nhận định trong bản án của cấp sơ thẩm.
Như vậy, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lâm Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2
Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi
thường một phần thiệt hại cho bị hại; bị cáo đang có thai là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s, n khoản 1
Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Về xét kháng cáo:
Bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp đơn xác nhận có hoàn cảnh khó khăn, đang phải nuôi 02 con còn nhỏ, nuôi mẹ già và
đang mang thai sắp đến ngày sinh, nên áp dụng cho bị cáo thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51
của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
thì bị cáo không đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
Do đó, chỉ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo là giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng
của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[6] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Xét quan điểm của các Luật sư bào chữa cho bị cáo có phần phù hợp nên chấp nhận phần phù hợp.
[8] Xét quan điểm của đại diện của Viện kiểm sát: Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có phần phù hợp
nên chấp nhận phần phù hợp.
7. Quyết định của cấp phúc thẩm
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lâm Thanh T, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2023/HS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện T.
7.1. Quyết định hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bô Luât
hinh sư năm 2015 (đươc sưa đôi, bô sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Lâm Thanh T 02 (hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính
từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
7.2. Về án phí: Căn cứ ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lâm Thanh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
7.3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
7.4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
1. Chủ thể của vụ án hình sự
Lâm Thanh T, sinh năm 1984 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 12, Khu PT, thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam;
con ông Lâm Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1948; Chồng Lê Thanh M, sinh năm 1983 (đã ly hôn); Sống
chung như vợ chồng với Nguyễn Trung S, sinh năm 1993 (không đăng ký kết hôn); Con: có 02 người con, trong đó có 01
con chung (sinh năm 2008) với ông Lê Thanh M và 01 con chung (sinh năm 2017) với ông Nguyễn Trung S. Tiền án, tiền
sự: Không.
Đủ tuổi và đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
2. Đối tượng của vụ án hình sự
- Bị cáo có kháng cáo:
Lâm Thanh T, sinh năm 1984 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 12, Khu PT, thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:Nữ; Tôn giao: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Lâm Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1948; Chồng Lê Thanh M, sinh năm 1983 (đã ly
hôn); Sống chung như vợ chồng với Nguyễn Trung S, sinh năm 1993 (không đăng kết hôn); Con: 02 người
con, trong đó 01 con chung (sinh năm 2008) với ông Thanh M 01 con chung (sinh năm 2017) với ông
Nguyễn Trung S.Tiền án, tiền sự: Không.
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật Trương Văn B, Luật Nguyễn Văn A - Luật sư thuộc Đoàn luật tỉnh
Đồng Nai.
- Ngoài ra, vụ án còn có bị hại nhưng không có kháng cáo, kháng nghị nên không có triệu tập.
3. Thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự
Thẩm quyền điều tra :
Theo khoản 1, 2 và khoản 3 Điều 163 quy định về thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
như sau:
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV Bộ luật Hình
sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội bao gồm:
Cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành
hoạt động tư pháp.
Thẩm quyền xét xử :
- Phúc thẩm : Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai
- Sơ thẩm : Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
4. Thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự
Giai đoạn 1: Khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Chương 9 .Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Khi có căn cứ khởi tố vụ án hình sự các cơ quan sau đây sẽ có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:
- Cơ quan điều tra;
- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Viện kiểm sát nhân dân;
- Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 2: Điều tra vụ án hình sự quy định từ Chương 10 đến chương 17 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì giai đoạn tiếp theo trong quy trình giải quyết vụ án hình sự là điều
tra vụ án hình sự.
Thời hạn điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội vụ án hình sự
phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hết thời
hạn điều tra cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự có thể gia hạn thêm theo quy định.
Giai đoạn 3: Truy tố vụ án hình sự quy định tại Phần 3 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Sau khi hoàn thành điều tra cơ có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự sẽ chuyển hồ sơ đề nghị Viện Kiểm vụ án hình sự
sát truy tố vụ án hình sự.
Viện kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó quyết định việc truy tố.
Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ án.
Thời hạn truy tố vụ án hình sự là 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Giai đoạn 4: Xét xử vụ án hình sự quy định tại Phần 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự bao gồm:
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự;
Trong gia đoạn này Tòa án sẽ quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Việc xét xử được tiến hành bằng lời nói và
được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm ngừng phiên tòa.
Kết thúc giai đoạn xét xử vụ án hình sự Tòa án phải đưa ra bản án. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Bản án phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 5: Thi hành bản án quy định tại Phần 5 .Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Sau khi đã có bản án Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho
Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ
ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Giai đoạn 6: Xét lại bản án đã có hiệu lực quy định tại Phần 6 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực bao gồm: Thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết
định đó.
II. Bản án hình sự pháp nhân thương mại phạm tội
Căn cứ pháp lý :
- Bản án 22/2023/HS-PT ngày 12/09/2023 về tội trốn thuế
- Bản án 28/2023/HS-ST ngày 14/06/2023 về tội trốn thuế
- Thông tư số 26/2015/TT-BTC
- Bộ luật Hình sự năm 2015
- Luật Thi hành án hình sự
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14
Tóm tắt nội dung vụ án
Công ty cổ phần T (viết tắt là Công ty), có trụ sở tại: Thôn S, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn được thành lập từ năm
2010, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4900483068, do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Lạng Sơn cấp lần đầu
ngày 06-01-2010 và đăng ký thay đổi lần thứ 8 ngày 18-7-2018. Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty là sản xuất
gạch xây dựng từ đất sét, khai thác chế biến khoáng sản, xây dựng công trình dân dụng, trồng rừng và thu hoạch các sản
phẩm từ rừng… Công ty có thành lập Nhà máy gạch Tuynel N để sản xuất gạch xây dựng các loại từ đất sét. Từ ngày
thành lập Công ty cho đến nay có sự thay đổi về địa chỉ, Hội đồng quản trị, Giám đốc và một số cổ đông. Tính từ năm
2017 đến năm 2020, Công ty có 03 cổ đông tham gia, gồm: Ông Hoàng T, là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc
Công ty, có 55% cổ phần; ông Trần Văn L, là cổ đông ủy quyền của ông Hoàng Lại Nam, có 30% cổ phần; ông Đỗ Văn M,
có 15% cổ phần. Về công việc kế toán, tài chính, Công ty có hợp đồng với Nguyễn Thị M (từ năm 2017 đến đầu năm
2020) và Cao Thị T (từ đầu năm 2020 đến khi bị khởi tố) làm sổ sách kế toán nội bộ, thu chi hàng ngày của Công ty. Ngoài
ra, Hoàng T còn thuê Dương Văn T và Hoàng Minh Đ làm kế toán kê khai báo cáo thuế, báo cáo tài chính năm.
Từ năm 2017 đến năm 2020, Hoàng T đã chỉ đạo kế toán nội bộ là Nguyễn Thị M và Cao Thị T lập 02 hệ thống sổ sách kế
toán của Công ty, trong đó 01 sổ ghi toàn bộ các số liệu liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh của Công ty và 01
sổ ghi các số liệu có chứng từ, hóa đơn giá trị gia tăng mua vào, bán ra, các chứng từ Ngân hàng…. Ngoài ra, Hoàng T còn
chỉ đạo Nguyễn Thị M và Cao Thị T trong quá trình kinh doanh, nếu khách hàng không yêu cầu lấy hóa đơn giá trị gia tăng
thì Công ty không xuất hóa đơn, nếu có khách hàng nào yêu cầu lấy hóa đơn giá trị gia tăng thì phải báo cáo, nếu Hoàng
T đồng ý thì mới được xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho khách hàng. Theo khoản 7 Điều 3 Thông tư số 26/2015/TT-
BTC ngày 27-02-2015 của Bộ Tài chính quy định trường hợp khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ từ 200.000đồng trở lên
mỗi lần người mua không lấy hóa đơn hoặc không cung cấp tên, địa chỉ, mã số thuế (nếu có) thì vẫn phải lập hóa đơn và
ghi rõ: Người mua không lấy hóa đơn hoặc người mua không cung cấp tên, địa chỉ, mã số thuế. Đồng thời, chỉ đạo
Nguyễn Thị M, Cao Thị T khi chuyển hóa đơn, chứng từ để làm báo cáo thuế, báo cáo tài chính hàng năm chỉ được
chuyển các hóa đơn giá trị gia tăng đầu vào, đầu ra và các tài liệu như bảng lương, các khoản vay ngân hàng… cho
Dương Văn T và Hoàng Minh Đ để kê khai thuế, báo cáo tài chính theo quy định, không cho Dương Văn T và Hoàng Minh
Đ biết việc sản xuất, kinh doanh thực tế của Công ty. Theo đó, từ năm 2017 đến năm 2020 Công ty để ngoài doanh thu,
không kê khai thuế, báo cáo tài chính nhằm mục đích trốn thuế với số lượng rất lớn, cụ thể như sau:
Năm 2017: Doanh thu thực tế của Công ty là 43.752.042.004đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
8.696.664.548đồng, để ngoài doanh thu là 35.055.377.456đồng, số tiền trốn thuế là 2.696.175.294đồng.
Năm 2018: Doanh thu thực tế của Công ty là 31.850.522.813đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
5.578.481.019đồng, để ngoài doanh thu 26.272.041.794 đồng, số tiền trốn thuế là 1.355.672.484đồng.
Năm 2019: Doanh thu thực tế của Công ty là 33.842.777.310đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
11.745.643.226đồng, để ngoài doanh thu 22.097.134.084đồng, số tiền trốn thuế là 1.657.242.530đồng.
Năm 2020: Doanh thu thực tế của Công ty là 36.912.256.334đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
7.733.463.186đồng, để ngoài doanh thu 29.178.793.148 đồng, số tiền trốn thuế là 2.378.963.525đồng.
Như vậy, tính từ năm 2017 đến năm 2020, doanh thu thực tế của Công ty là 146.357.598.461đồng, nhưng theo sự chỉ
đạo của Hoàng T, Công ty chỉ báo cáo tài chính và kê khai thuế số tiền là 33.754.251.979đồng, số doanh thu để ngoài
không báo cáo tài chính, kê khai thuế là 112.603.346.482đồng. Tổng số tiền Công ty đã trốn thuế là 8.088.053.834đồng.
Trong đó xác định, năm 2017 2018, 2019 Nguyễn Thị M để ngoài doanh thu không kê khai thuế với số tiền là
82.754.998.694đồng, thuế giá trị gia tăng sau khi trừ thuế đầu vào còn lại là 5.709.090.309đồng; năm 2020 Cao Thị T để
ngoài doanh thu không kê khai thuế với số tiền là 29.848.347.788đồng, thuế giá trị gia tăng sau khi trừ thuế đầu vào còn
lại là 2.378.963.525đồng.
Về pháp nhân Công ty Cổ phần T: Từ năm 2017 đến năm 2020 Công ty để ngoài doanh thu, không kê khai thuế, nhằm
mục đích trốn thuế giá trị gia tăng với tổng số tiền là 8.088.053.834đồng. Toàn bộ số tiền trốn thuế này Công ty sử dụng
vào hoạt động của công ty như: Trả lương công nhân, mua máy móc, thiết bị đầu tư sản xuất, làm nhà xưởng, trả lãi
ngân hàng, giải phóng mặt bằng. Số tiền 4.234.000.000đồng chia cổ tức trong các năm 2017 đến 2020 cho các cổ đông
theo tỷ lệ vốn góp, cụ thể: Hoàng T được chia 2.161.500.000đồng, Trần Văn L được chia 1.280.000.000đồng và Đỗ Văn
M được chia 792.500.000đồng. Trong vụ án, Hoàng T là Giám đốc, đại diện theo pháp luật của Công ty đã chỉ đạo
Nguyễn Thị M, Cao Thị T thực hiện hành vi trốn thuế. Số tiền trốn thuế được sử dụng cho mục đích chung của Công ty và
chia cổ tức cho các cổ đông góp vốn như đã nêu trên. Vì vậy, Công ty phải chịu trách nhiệm hình sự với tư cách pháp
nhân.
Tại Kết luận giám định số: 45/KL-CT ngày 08-9-2022 của Hội đồng Giám định tư pháp trong lĩnh vực thuế kết luận: Tổng
số tiền thuế giá trị gia tăng Công ty phải nộp ngân sách Nhà nước đối với số tiền không kê khai báo cáo thuế trong các
năm 2017, 2018, 2019, 2020 là 8.088.053.834đồng. Đối với số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên, phí
bảo vệ môi trường không xác định được.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã
quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, r, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17,
Điều 58 của đối với bị cáo Hoàng T; căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, t khoản 1 Điều 51, điểm Bộ luật Hình sự năm 2015
g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T; căn cứ Điều 46,
điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-
12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên bố các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T phạm tội Trốn thuế.
Xử phạt bị cáo Hoàng T 04 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 02 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Cao Thị T
02 năm tù. Buộc bị cáo Hoàng T nộp lại số tiền 2.161.500.000đồng; ông Trần Văn L nộp lại số tiền 1.280.000.000đồng;
ông Đỗ Văn M nộp lại số tiền 792.500.000đồng; Pháp nhân thương mại Công ty nộp lại số tiền là 3.854.053.834đồng cho
Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, Bản án còn xử phạt Công ty số tiền 3.000.000.000đồng, tuyên về xử lý vật chứng, án phí
và quyền kháng theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định, bị cáo Hoàng T kháng cáo xin giảm hình phạt tù; bị cáo Nguyễn Thị M kháng cáo xin hưởng mức
án dưới khung hình phạt và được hưởng án treo; bị cáo Cao Thị T kháng cáo xin giảm hình phạt và được hưởng án treo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L kháng cáo về biện pháp tư pháp, đề
nghị không thu lại số tiền các ông được chia lãi cổ tức từ Công ty.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Hoàng T giữ nguyên nội dung đã kháng cáo.
Bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T kháng cáo xin được hưởng án treo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề
nghị hủy bỏ các lệnh phong tỏa tài khoản đối với họ. Ông Trần Văn L nhất trí xét xử vụ án vắng mặt người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự là bà Chu Thị Nguyễn P.
Người đại diện cho nguyên đơn dân sự đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án; đề nghị xem xét kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm kết án bị
cáo về tội Trốn thuế là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng T và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều giữ nguyên nội dung kháng cáo; bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T kháng cáo xin được
hưởng án treo. Xét thấy, bản án sơ thẩm nhận định, đánh giá về tính chất mức độ hành vi phạm tội và vai trò của các bị
cáo chưa phù hợp; chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T được
hưởng; áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Cao Thị T không chính xác. Dẫn đến việc quyết
định mức hình phạt với bị cáo Hoàng T có phần hơi nghiêm khắc. Ngoài ra, cấp sơ thẩm không xem xét và quyết định về
các quyết định, lệnh phong tỏa tài khoản của bị cáo, của Công ty, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Hoàng T đã tác động gia đình nộp số tiền 50.200.000đồng theo quyết định của Bản án sơ
thẩm. Bị cáo Nguyễn Thị M cung cấp thêm các tài liệu mới thể hiện ông nội của bị cáo là được tặng thưởng Huy chương
Kháng chiến, bị cáo nhiều lần ủng hộ quỹ của Trung tâm hy vọng L, tỉnh Lạng Sơn. Bị cáo Cao Thị T có chồng năm 2019 bị
tai nạn chấn thương sọ não; mẹ chồng hiện nay đang điều trị bệnh ung thư; bố chồng được tặng thưởng Huy hiệu thợ
mỏ ngành than, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 mà các bị cáo được hưởng. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng T, giảm hình phạt tù cho bị cáo xuống còn 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; chấp
nhận kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T và ấn định thời gian thử thách theo quy định
của pháp luật. Xét thấy, cấp sơ thẩm áp dụng biện pháp tư pháp buộc ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L nộp lại số tiền được
chia lãi cổ tức từ năm 2017 đến năm 2020 là có căn cứ pháp lý, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, ông Đỗ
Văn M, ông Trần Văn L không có tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo đã đưa ra. Căn cứ điểm
a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Văn M, ông
Trần Văn L về biện pháp tư pháp. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các Quyết định và Lệnh phong tỏa tài khoản
theo quy định của pháp luật.
Ông Bế Quang H là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trần Văn L trình bày: Việc Công ty và các bị cáo có
hành vi trốn thuế, ông Trần Văn L không biết và cũng không có lỗi, số tiền hưởng lợi từ hành vi trốn thuế và số tiền lãi cổ
tức đã được trộn lẫn và phân chia lợi nhuận cho cổ đông. Việc truy thu số tiền trốn thuế là đúng pháp luật, nhưng trước
tiên Công ty phải bị truy thu toàn bộ số tiền trốn thuế. Sau này, Công ty có quyền khởi kiện ông Trần Văn L bằng một vụ
kiện khác theo quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không truy thu số tiền 1.280.000.000đồng của
ông Trần Văn L, hủy bỏ Lệnh phong tỏa tài khoản của ông Trần Văn L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, tất cả 03 bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân đúng như Bản án sơ thẩm đã
tuyên, cụ thể: Công ty cổ phần T có người đại diện theo pháp luật là bị cáo Hoàng T. Từ năm 2017 đến năm 2019, bị cáo
Hoàng T đã chỉ đạo bị cáo Nguyễn Thị M và năm 2020 đã chỉ đạo bị cáo Cao Thị T để lập 02 hệ thống sổ sách kế toán,
không xuất hóa đơn giá trị gia tăng khi khách hàng không có nhu cầu lấy hóa đơn và để ngoài doanh thu không kê khai
báo cáo thuế, báo cáo tài chính với mục đích là để trốn nộp thuế cho Nhà nước. Các bị cáo Nguyễn Thị M và Cao Thị T
nhận thức được việc lập 02 hệ thống sổ sách kế toán, không xuất hóa đơn giá trị gia tăng khi bán hàng và không cung
cấp đầy đủ doanh thu cho Dương Văn T và Hoàng Minh Đ để kê khai thuế, báo cáo tài chính là vi phạm pháp luật. Công
ty cổ phần T thực hiện hành vi trốn thuế từ năm 2017 đến năm 2020 với tổng số tiền 8.088.053.834đồng , trong đó bị
cáo Nguyễn Thị M đã có hành vi giúp sức cho bị cáo Hoàng T từ năm 2017 đến năm 2019 với số tiền trốn thuế là
5.709.090.308đồng, bị cáo Cao Thị T đã giúp sức cho bị cáo Hoàng T trốn thuế trong năm 2020 với số tiền là
2.378.963.525đồng. Số tiền trốn thuế được sử dụng cho mục đích chung của Công ty và chia cổ tức cho các cổ đông góp
vốn. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T về tội Trốn thuế theo quy định tại
khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng T, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân và
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này đã khởi tố
pháp nhân thương mại là Công ty cổ phần T với tổng số tiền trốn thuế là 8.088.053.834đồng. Toàn bộ tiền trốn thuế đã
được đưa vào Công ty, trong đó tiền chia cổ tức là 4.234.000.000đồng và đưa vào hoạt động của Công ty là
3.854.053.834đồng. Bị cáo Hoàng T chỉ được chia cổ tức số tiền 2.161.500.000đồng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã
đánh giá chưa chính xác vai trò của bị cáo Hoàng T trong vụ án này. Do đó, mức hình phạt 04 năm 06 tháng tù mà cấp sơ
thẩm đã tuyên đối với bị cáo có phần nghiêm khắc, chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã gây
ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tác động để bà Hoàng Thị T (vợ bị cáo) nộp thay bị cáo số tiền 50.200.000đồng tại
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn theo quyết định của Bản án sơ thẩm (về biện pháp tư pháp). Đây là tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì
vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, nhưng mức giảm hình phạt vẫn phải đảm bảo
theo luật định và phù hợp với mức hình phạt của các đồng phạm khác.
[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Thị M, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân và
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định của pháp luật. Do Tòa án cấp sơ thẩm đã
đánh giá chưa chính xác vai trò của bị cáo Hoàng T trong vụ án này nên đương nhiên việc đánh giá vai trò của bị cáo
Nguyễn Thị M cũng không chính xác. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa đánh giá về việc bị cáo chỉ là người làm công ăn lương
nên phải thực hiện theo sự chỉ đạo của giám đốc Công ty. Bản thân bị cáo không được hưởng lợi từ hành vi trốn thuế
của pháp nhân thương mại, bị cáo chỉ đóng vai trò giúp sức trong vụ án. Tuy nhiên, mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù
mà cấp sơ thẩm đã tuyên về cơ bản là khá phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo có cung cấp thêm các tài liệu mới thể hiện
ông nội của bị cáo là ông Nguyễn Đình S được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng nhất, bị cáo nhiều lần ủng hộ
tiền cho các cháu tại Trung tâm hy vọng L, tỉnh Lạng Sơn trong năm 2023. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo bị phạt
tù không quá 03 năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1,
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở
lên nhưng các lần phạm tội bị cáo đều chỉ tham gia với vai trò là đồng phạm giúp sức không cao và là vụ án xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế. Mặt khác, trong quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp
luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, trong thời gian tại
ngoại vừa qua không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành
hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không ảnh
hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp
luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt tù cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng cho
bị cáo được hưởng án treo.
[4] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Cao Thị T, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân và tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định của pháp luật. Do Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chưa
chính xác vai trò của bị cáo Hoàng T, bị cáo Nguyễn Thị M trong vụ án này nên đương nhiên việc đánh giá vai trò của bị
cáo Cao Thị T cũng không chính xác. Theo quy định, báo cáo tài chính hàng của Công ty thường tính từ 01-01 đến 31-12
hàng năm. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa đánh giá về việc bị cáo chỉ là người làm công ăn lương nên phải thực hiện theo sự
chỉ đạo của giám đốc Công ty. Bản thân bị cáo không được hưởng lợi từ hành vi trốn thuế của pháp nhân thương mại. Bị
cáo Hoàng T và bị cáo Cao Thị T đều thừa nhận: Tháng 3-2020 khi tiếp nhận công việc từ bị cáo Nguyễn Thị M, thì bị cáo
Cao Thị T đã tham mưu cho bị cáo Hoàng T về những sai phạm trong nộp thuế và có đề nghị xuất hóa đơn nộp thuế bổ
sung nhưng bị cáo Hoàng T không đồng ý; đến năm 2021, Công ty mới kê khai nộp thuế đúng quy định. Trong vụ án này,
từ 19-3-2020 bị cáo mới được giao nhiệm vụ làm kế toán Công ty đến thời điểm hành vi phạm tội bị phát hiện, việc các
bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M thực hiện hành vi trốn thuế trong những năm trước đó bị cáo không biết, không phải chịu
trách nhiệm. Nên bị cáo không phạm tội nhiều lần mà chỉ thực hiện tội phạm duy nhất một lần vào năm 2020. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ
luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo là không đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức hình phạt 02 năm tù mà cấp sơ thẩm đã
tuyên về cơ bản là khá phù hợp.
[5] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Cao Thị T cung cấp thêm các tài liệu, chứng cứ mới thể hiện chồng bị cáo là Hoàng Văn H
năm 2019 bị tai nạn chấn thương sọ não; mẹ chồng hiện nay đang điều trị bệnh ung thư; bố chồng là ông Hoàng Văn M
được tặng thưởng Huy hiệu thợ mỏ ngành than, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Đây là
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo bị phạt tù không quá 03 năm, có nhân thân tốt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo không có tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; thực hiện tội phạm với vai trò đồng phạm thấp nhất và là vụ án xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế. Trong quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, trong thời gian tại ngoại vừa qua
không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì
không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không ảnh hưởng xấu đến
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội
đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt tù cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng cho bị cáo được
hưởng án treo.
[6] Xét kháng cáo của ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L, thấy rằng: Theo Điều lệ của Công ty cổ phần T năm 2015 và Luật
Doanh nghiệp năm 2014 thì Công ty chỉ được trả cổ tức sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính
theo quy định. Trong vụ án này, Công ty đã thực hiện trả cổ tức khi chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.
Ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L đều là các cổ đông của Công ty được hưởng lợi từ tiền trốn thuế của Công ty. Số tiền
ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L đã hưởng là tiền do phạm tội mà có, nên việc Tòa án cấp sơ thẩm truy thu số tiền có được
từ hành vi phạm tội là đúng quy định. Mặt khác, cần ưu tiên hoàn trả tiền trốn thuế cho Ngân sách Nhà nước. Xét thấy,
nếu quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi người đại diện của Công ty thì ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L có quyền khởi kiện
bằng vụ án kinh doanh thương mại khác để đảm bảo lợi ích của bản thân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do
vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L.
[7] Đối với các tài khoản Ngân hàng hiện đang bị phong tỏa, thấy rằng: Để đảm bảo cho công tác điều tra, Cơ quan điều
tra đã thực hiện phong tỏa tài khoản đối với 06 tài khoản Ngân hàng, bao gồm Công ty 02 tài khoản, bị cáo Hoàng T 02
tài khoản, ông Đỗ Văn M 01 tài khoản, ông Trần Văn L 01 tài khoản. Kết thúc điều tra, giai đoạn xét xử Tòa án cấp sơ
thẩm không tuyên về việc tiếp tục duy trì hay hủy bỏ đối với các quyết định, lệnh phong tỏa này là không đúng quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L đã có kháng cáo với đối với phần quyết định về biện pháp tư
pháp đối với số tiền buộc các ông phải nộp lại. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, khắc phục sai sót và tuyên bổ
sung về nội dung này. Như đã nhận định ở trên, tiền do phạm tội mà có cần phải ưu tiên tịch thu nộp Ngân sách Nhà
nước nên cần tiếp tục duy trì các quyết định, lệnh phong tỏa tài khoản để đảm bảo thi hành án đối với các tài khoản còn
tiền, tài khoản không còn tiền thì hủy bỏ quyết định phong tỏa.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn là có căn cứ pháp lý, phù hợp với các quy định của
pháp luật nên được chấp nhận.
[9] Xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự là không có căn cứ pháp lý, không phù hợp với
các quy định của pháp luật nên không được chấp nhận.
[10] Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Do kháng cáo không được
chấp nhận nên ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[11] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; chấp nhận kháng
cáo xin giảm hình phạt tù của bị cáo Hoàng T, chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Thị M,
Cao Thị T; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn đối với phần hình phạt tù của các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T, cụ thể như sau:
1.1. Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, r, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 của Bộ
luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hoàng T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Trốn thuế. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 05-10-2022.
1.2. Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, t khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, khoản 1, khoản 2,
khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng
án treo về tội Trốn thuế. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-9-2023.
1.3. Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật
Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Cao Thị T 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo về tội Trốn thuế. Thời gian thử thách là
04 (bốn) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-9-2023.
Giao các bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T cho Uỷ ban nhân dân thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn để giám sát và giáo dục
trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều
92 .Luật Thi hành án hình sự
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định
buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo về biện
pháp tư pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L; giữ nguyên quyết
định của Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
về phần biện pháp tư pháp, cụ thể: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Truy thu của bị cáo Hoàng T số tiền 2.161.500.000đồng (hai tỷ một trăm sáu mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng) để
sung vào ngân sách Nhà nước. Xác nhận bị cáo Hoàng T (bà Hoàng Thị T nộp thay Hoàng T) đã nộp số tiền
50.200.000đồng (năm mươi triệu hai trăm nghìn đồng) tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn theo Biên lai thu tiền số
AA/2021/0005596 ngày 07 tháng 9 năm 2023.
Truy thu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Văn L số tiền 1.280.000.000đồng (một tỷ hai
trăm tám mươi triệu đồng), để sung vào ngân sách Nhà nước Truy thu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án ông Đỗ Văn M số tiền 792.500.000đồng (bảy trăm chín mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng), để sung vào ngân sách
Nhà nước Truy thu của Pháp nhân thương mại Công ty cổ phần T số tiền là 3.854.053.834đồng (ba tỷ tám trăm năm
mươi tư triệu không trăm năm mươi ba nghìn tám trăm ba mươi tư đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
3. Hủy bỏ Quyết định phong tỏa tài khoản của pháp nhân số: 01/QĐ- CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan cảnh
sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đối với tài khoản 35110000198639 tại Ngân hàng thương mại cổ phần cổ phần Đ, Chi
nhánh tỉnh Lạng Sơn của Công ty cổ phần T.
4. Tiếp tục duy trì:
Lệnh phong tỏa tài khoản số: 01/LPT-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lạng
Sơn đối với số tiền 149.767đồng trong tài khoản 21110001197638, số tiền 51.334đồng trong tài khoản 35110000214702
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, Chi nhánh Lạng Sơn của bị cáo Hoàng T, để đảm bảo thi hành án.
Lệnh phong tỏa tài khoản số: 02/LPT-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lạng
Sơn đối với số tiền 3.940.265đồng trong tài khoản 106871391363 tại Ngân hàng thương mại cổ phần C, Chi nhánh Lạng
Sơn của ông Trần Văn L, để đảm bảo thi hành án.
Lệnh phong tỏa tài khoản số: 03/LPT-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lạng
Sơn đối với số tiền 13.954.748đồng trong tài khoản 35110000533106 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, Chi nhánh
Lạng Sơn của ông Đỗ Văn M, để đảm bảo thi hành án.
Quyết định phong tỏa tài khoản của pháp nhân số: 02/QĐ-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều
tra, Công an tỉnh Lạng Sơn đối với số tiền 12.011.114đồng trong tài khoản 119000052764 tại Ngân hàng thương mại cổ
phần C, Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn của Công ty cổ phần T, để đảm bảo thi hành án.
5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 của , điểm h khoản 2 Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L mỗi người phải chịu 200.000đồng (hai
trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
1. Đối tượng trong vụ án hình sự
-Cácbịcáocókhángcáo:
1. Hoàng T, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1963 tại quận H, Thành phố Hà Nội. Nơi đăng ký thường trú: Đường L, phường P,
quận H, Thành phố Hà Nội. Nơi tạm trú: Đường L, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Đường L, phường V,
thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Thế M (đã chết) và bà Quách Thị V; có vợ là Hoàng Thị T và có 03 con; tiền
án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 83/2008/HSST ngày 21, 22, 25-02-2008, bị
cáo bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 06 năm tù về tội Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc (đã được xóa), chưa
bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo bị bắt để tạm giam từ ngày 05-10-2022 đến nay; có mặt.
2. Nguyễn Thị M, sinh ngày 24 tháng 01 năm 1987 tại huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đăng ký thường trú: Thôn V, xã C,
huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Chỗ ở: Thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa: 12/12; dân
tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình V (đã chết) và bà Phan Thị T; có
chồng là Nguyễn Văn P và có 02 con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, hiện tại ngoại; có mặt.
3. Cao Thị T, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1990 tại huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Nơi đăng ký thường trú: Xã L, huyện Đ, tỉnh
Nghệ An. Chỗ ở: Thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới
tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Tiến S và bà Nguyễn Thị H; có chồng là Hoàng Văn H và có 02
con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, hiện tại ngoại; có mặt.
-Bịcáokhôngcókhángcáo:Công ty Cổ phần T. Trụ sở tại: Thôn S, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
-Nguyênđơndânsựkhôngcókhángcáo: Chi cục Thuế khu vực, trực thuộc Cục thuế tỉnh Lạng Sơn.
Ngườiđạidiệnhợppháp: Ông Đỗ Văn C: Đội trưởng Đội Kiểm tra thuế, Chi cục Thuế khu vực, thuộc Cục thuế tỉnh Lạng
Sơn (văn bản ủy quyền ngày 12- 12-2022); có mặt.
-Ngườicóquyềnlợi,nghĩavụliênquanđếnvụáncókhángcáo:
1. Ông Đỗ Văn M. Trú tại: Phố C, phường T, quận N, Thành phố Hà Nội; có mặt.
2. Ông Trần Văn L. Trú tại: Thôn S, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
-NgườibảovệquyềnvàlợiíchhợpphápcủaôngTrầnVănL:
1. Ông Bế Quang H, Luật sư Văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
2. Bà Chu Thị Nguyễn P, Luật sư Văn phòng Luật sư N, cùng thuộc đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
Ngoàira,trongvụáncòncó02ngườicóquyềnlợi,nghĩavụliênquan đếnvụánkhôngcókhángcáo,khôngbịkháng
cáo,khôngbịkhángnghị.
2. Thẩm quyền của vụ án hình sự
Thẩm quyền điều tra :
Theo khoản 1, 2 và khoản 3 Điều 163 quy định về thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
như sau:
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV Bộ luật Hình
sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội bao gồm:
Cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành
hoạt động tư pháp.
Thẩm quyền xét xử :
- Phúc thẩm : Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
- Sơ thẩm : Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn
3. Thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự
Giai đoạn 1: Khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Chương 9 .Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Khi có căn cứ khởi tố vụ án hình sự các cơ quan sau đây sẽ có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:
- Cơ quan điều tra;
- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Viện kiểm sát nhân dân;
- Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 2: Điều tra vụ án hình sự quy định từ Chương 10 đến chương 17 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì giai đoạn tiếp theo trong quy trình giải quyết vụ án hình sự là điều
tra vụ án hình sự.
Thời hạn điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội vụ án hình sự
phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hết thời
hạn điều tra cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự có thể gia hạn thêm theo quy định.
Giai đoạn 3: Truy tố vụ án hình sự quy định tại Phần 3 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Sau khi hoàn thành điều tra cơ có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự sẽ chuyển hồ sơ đề nghị Viện Kiểm vụ án hình sự
sát truy tố vụ án hình sự.
Viện kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó quyết định việc truy tố.
Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ án.
Thời hạn truy tố vụ án hình sự là 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Giai đoạn 4: Xét xử vụ án hình sự quy định tại Phần 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự bao gồm:
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự;
Trong gia đoạn này Tòa án sẽ quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Việc xét xử được tiến hành bằng lời nói và
được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm ngừng phiên tòa.
Kết thúc giai đoạn xét xử vụ án hình sự Tòa án phải đưa ra bản án. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Bản án phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 5: Thi hành bản án quy định tại Phần 5 .Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Sau khi đã có bản án Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho
Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ
ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Giai đoạn 6: Xét lại bản án đã có hiệu lực quy định tại Phần 6 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực bao gồm: Thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết
định đó.
| 1/17

Preview text:

I. Bản án hình sự cá nhân phạm tội Căn cư pháp lý :
- Bản án 394/2023/HS-PT ngày 19/09/2023 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Bản án 58/2023/HS-ST ngày 27/04/2023 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Bộ Luật Hình sự 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017 )
- Bộ luật tố tụng hình sự 2015 - Bộ Luật Dân sự 2015
- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 Tóm tắt nội dung vụ án 1. Nội dung chính:
Lâm Thanh T là nhân viên tiếp thị và Nguyễn Khoa H là nhân viên giao hàng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên thương mại dịch vụ vận tải DN (gọi tắt là Công ty DN) ở địa chỉ số 18x đường 76y, ấp L, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai
do chị Vũ Thiên Ng là người đại diện theo pháp luật. Nhiệm vụ của T được giao là nhân viên tiếp thị giới thiệu sản phẩm
hàng hóa ra thị trường và tìm khách hàng. Khi có người mua hàng T lập danh sách báo lại cho Ng để chị Ng lên đơn hàng,
chuẩn bị hàng và sau đó giao hàng cho Nguyễn Khoa H (nhân viên giao hàng, thu tiền) đi giao cho người mua và nhận
tiền, nếu người mua nợ tiền hàng thì ký nợ vào phiếu giao hàng để H đem về cho Ng theo dõi chốt công nợ hàng tháng.
Sau khi được chị Ng xuất hàng đưa cho H đi giao thì T nói với H chở hàng đến giao cho T tại tổ 12, khu PT, thị trấn L,
huyện T để T bán cho một số khách hàng nhằm mục đích tăng doanh số bán hàng cho T. Tin tưởng T nói thật nên H giao
hàng cho T một số lần và để T giả mạo ký tên người mua ký bên nợ tiền vào phiếu giao hàng hóa rồi H đem về giao lại cho chị Ng.
Bằng thủ đoạn gian dối này T đã giả chữ ký của những người mua hàng để chiếm đoạt hàng hóa của Công ty DN, cụ thể:
Ngày 30/11/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Hồng Ph” ở xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số
hàng hóa trị giá 40.052.000 đồng.
Ngày 15/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Phát T” ở xã Lộ X, huyện N, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số
hàng hóa trị giá 10.053.000 đồng.
Ngày 24/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Bích T” ở xã L, huyện Nh, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số hàng
hóa trị giá 20.000.000 đồng.
Ngày 25/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Đạo Tr” ở xã Đ, huyện Nh, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công ty DN số
hàng hóa trị giá 20.217.000 đồng.
Ngày 28/12/2020 T giả chữ ký của cửa hàng “Siêu thị sữa Phước B” ở xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của Công
ty DN số hàng trị giá 10.000.000 đồng.
Ngày 07/01/2021 T giả chữ ký của cửa hàng “Siêu thị sữa Long Th” ở xã Th, huyện Nh, tỉnh Đồng Nai chiếm đoạt của
Công ty DN hàng trị giá 53.574.000 đồng.
Đến cuối tháng 12/2020 sau khi đối chiếu thu hồi nợ chị Ng phát hiện, số hàng hóa trên không được chuyển giao cho
khách mua hàng mà bị T chiếm đoạt tương đương số tiền 153.896.000 đồng nên trình báo Công an. Qua làm việc T khai
nhận hành vi phạm tội nêu trên và không có khả năng hoàn trả số tiền chiếm đoạt của Công ty DN.
* Vật chứng vụ án: Toàn bộ số hàng hóa sau khi chiếm đoạt T đã bán cho người khác nên không thu hồi được. Riêng các
phiếu giao hàng do T giả chữ ký được thu giữ đưa vào hồ sơ vụ án.
* Về trách nhiệm dân sự: Vào ngày 21/12/2022 bị cáo T đã bồi thường cho Công ty DN số tiền 40.000.000 đồng. Tại
phiên tòa chị Ng yêu cầu bị cáo T tiếp tục bồi thường cho Công ty DN số tiền 198.501.000 đồng.
2. Quyết định của cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2023/HS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, đã quyết định như sau:
1/ Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s, n khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự
năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Lâm Thanh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Lâm Thanh T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
2/ Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 30 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 468, Điều 589 của Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Lâm Thanh T phải bồi thường cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thương mại dịch vụ vận tải
DN số tiền 113.896.000đ (Một trăm mười ba triệu tám trăm chín mươi sáu ngàn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi
hành án chưa thanh toán thì hàng tháng còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định. 3. Kháng cáo:
Ngày 10/5/2023, bị cáo Lâm Thanh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin cho bị cáo hình phạt tù treo. Lý do: Gia đình
bị cáo neo đơn, nghèo khổ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, nếu bị cáo đi tù thì sẽ không ai nuôi mẹ già bị mù lòa và 02 con nhỏ.
4. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Do hoàn cảnh khó khăn bị cáo lỡ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nên
bị cáo phải gánh chịu trách nhiệm. Chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có hoàn cảnh hết sức khó khăn, bị cáo là lao
động chính phải nuôi hai con nhỏ, mẹ già bị mù lòa và hiện tại bị cáo mang thai sắp đến ngày sinh nở, người sống chung
với bị cáo cũng đã bỏ đi, nếu bị cáo phải thi hành án tù thì không ai chăm sóc con, mẹ già và cũng để bị cáo có điều kiện
lao động có nguồn thu nhập khắc phục tiếp phần thiệt hại cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng các
tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s, n, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo và áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
5. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm, cho thấy cấp sơ thẩm giải quyết
là có cơ sở. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng mức hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp
với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Tại cấp phúc
thẩm, bị cáo cung cấp giấy xác nhận có hoàn cảnh khó khăn, phải nuôi 02 con và mẹ già, giấy kết quả siêu âm bị cáo đang
mang thai sắp sinh, đây là tình tiết mới đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo theo quy định.
6. Nhận định của tòa án cấp phúc thẩm
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Về tố tụng:
Kháng cáo của bị cáo Lâm Thanh T trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm. [2] Về tội danh:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với mô tả
và nhận định trong bản án của cấp sơ thẩm.
Như vậy, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lâm Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2
Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi
thường một phần thiệt hại cho bị hại; bị cáo đang có thai là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s, n khoản 1
Điều 51 của Bộ luật hình sự. [4] Về xét kháng cáo:
Bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp đơn xác nhận có hoàn cảnh khó khăn, đang phải nuôi 02 con còn nhỏ, nuôi mẹ già và
đang mang thai sắp đến ngày sinh, nên áp dụng cho bị cáo thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
thì bị cáo không đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
Do đó, chỉ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo là giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[6] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Xét quan điểm của các Luật sư bào chữa cho bị cáo có phần phù hợp nên chấp nhận phần phù hợp.
[8] Xét quan điểm của đại diện của Viện kiểm sát: Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có phần phù hợp
nên chấp nhận phần phù hợp.
7. Quyết định của cấp phúc thẩm
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lâm Thanh T, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2023/HS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện T.
7.1. Quyết định hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bô Luât
hinh sư năm 2015 (đươc sưa đôi, bô sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Lâm Thanh T 02 (hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính
từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
7.2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lâm Thanh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
7.3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
7.4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
1. Chủ thể của vụ án hình sự
Lâm Thanh T, sinh năm 1984 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 12, Khu PT, thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam;
con ông Lâm Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1948; Chồng Lê Thanh M, sinh năm 1983 (đã ly hôn); Sống
chung như vợ chồng với Nguyễn Trung S, sinh năm 1993 (không đăng ký kết hôn); Con: có 02 người con, trong đó có 01
con chung (sinh năm 2008) với ông Lê Thanh M và 01 con chung (sinh năm 2017) với ông Nguyễn Trung S. Tiền án, tiền sự: Không.
 Đủ tuổi và đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
2. Đối tượng của vụ án hình sự
- Bị cáo có kháng cáo:
Lâm Thanh T, sinh năm 1984 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 12, Khu PT, thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:Nữ; Tôn giao: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Lâm Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1948; Chồng Lê Thanh M, sinh năm 1983 (đã ly
hôn); Sống chung như vợ chồng với Nguyễn Trung S, sinh năm 1993 (không đăng ký kết hôn); Con: có 02 người
con, trong đó có 01 con chung (sinh năm 2008) với ông Lê Thanh M và 01 con chung (sinh năm 2017) với ông
Nguyễn Trung S.Tiền án, tiền sự: Không.
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trương Văn B, Luật sư Nguyễn Văn A - Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai.
- Ngoài ra, vụ án còn có bị hại nhưng không có kháng cáo, kháng nghị nên không có triệu tập.
3. Thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự Thẩm quyền điều tra :
Theo khoản 1, 2 và khoản 3 Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự như sau:
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV Bộ luật Hình
sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội bao gồm:
Cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Thẩm quyền xét xử :
- Phúc thẩm : Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai
- Sơ thẩm : Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
4. Thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự
Giai đoạn 1: Khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Chương 9 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Khi có căn cứ khởi tố vụ án hình sự các cơ quan sau đây sẽ có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự: - Cơ quan điều tra;
- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Viện kiểm sát nhân dân; - Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 2: Điều tra vụ án hình sự quy định từ Chương 10 đến chương 17 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì giai đoạn tiếp theo trong quy trình giải quyết vụ án hình sự là điều tra vụ án hình sự.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội
phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hết thời
hạn điều tra cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự có thể gia hạn thêm theo quy định.
Giai đoạn 3: Truy tố vụ án hình sự quy định tại Phần 3 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Sau khi hoàn thành điều tra vụ án hình sự cơ có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự sẽ chuyển hồ sơ đề nghị Viện Kiểm
sát truy tố vụ án hình sự.
Viện kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó quyết định việc truy tố.
Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ án.
Thời hạn truy tố vụ án hình sự là 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Giai đoạn 4: Xét xử vụ án hình sự quy định tại Phần 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự bao gồm:
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự;
Trong gia đoạn này Tòa án sẽ quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Việc xét xử được tiến hành bằng lời nói và
được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm ngừng phiên tòa.
Kết thúc giai đoạn xét xử vụ án hình sự Tòa án phải đưa ra bản án. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Bản án phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 5: Thi hành bản án quy định tại Phần 5 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Sau khi đã có bản án Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho
Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ
ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Giai đoạn 6: Xét lại bản án đã có hiệu lực quy định tại Phần 6 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực bao gồm: Thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.
II. Bản án hình sự pháp nhân thương mại phạm tội Căn cứ pháp lý :
- Bản án 22/2023/HS-PT ngày 12/09/2023 về tội trốn thuế
- Bản án 28/2023/HS-ST ngày 14/06/2023 về tội trốn thuế
- Thông tư số 26/2015/TT-BTC
- Bộ luật Hình sự năm 2015
- Luật Thi hành án hình sự
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 Tóm tắt nội dung vụ án
Công ty cổ phần T (viết tắt là Công ty), có trụ sở tại: Thôn S, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn được thành lập từ năm
2010, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4900483068, do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Lạng Sơn cấp lần đầu
ngày 06-01-2010 và đăng ký thay đổi lần thứ 8 ngày 18-7-2018. Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty là sản xuất
gạch xây dựng từ đất sét, khai thác chế biến khoáng sản, xây dựng công trình dân dụng, trồng rừng và thu hoạch các sản
phẩm từ rừng… Công ty có thành lập Nhà máy gạch Tuynel N để sản xuất gạch xây dựng các loại từ đất sét. Từ ngày
thành lập Công ty cho đến nay có sự thay đổi về địa chỉ, Hội đồng quản trị, Giám đốc và một số cổ đông. Tính từ năm
2017 đến năm 2020, Công ty có 03 cổ đông tham gia, gồm: Ông Hoàng T, là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc
Công ty, có 55% cổ phần; ông Trần Văn L, là cổ đông ủy quyền của ông Hoàng Lại Nam, có 30% cổ phần; ông Đỗ Văn M,
có 15% cổ phần. Về công việc kế toán, tài chính, Công ty có hợp đồng với Nguyễn Thị M (từ năm 2017 đến đầu năm
2020) và Cao Thị T (từ đầu năm 2020 đến khi bị khởi tố) làm sổ sách kế toán nội bộ, thu chi hàng ngày của Công ty. Ngoài
ra, Hoàng T còn thuê Dương Văn T và Hoàng Minh Đ làm kế toán kê khai báo cáo thuế, báo cáo tài chính năm.
Từ năm 2017 đến năm 2020, Hoàng T đã chỉ đạo kế toán nội bộ là Nguyễn Thị M và Cao Thị T lập 02 hệ thống sổ sách kế
toán của Công ty, trong đó 01 sổ ghi toàn bộ các số liệu liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh của Công ty và 01
sổ ghi các số liệu có chứng từ, hóa đơn giá trị gia tăng mua vào, bán ra, các chứng từ Ngân hàng…. Ngoài ra, Hoàng T còn
chỉ đạo Nguyễn Thị M và Cao Thị T trong quá trình kinh doanh, nếu khách hàng không yêu cầu lấy hóa đơn giá trị gia tăng
thì Công ty không xuất hóa đơn, nếu có khách hàng nào yêu cầu lấy hóa đơn giá trị gia tăng thì phải báo cáo, nếu Hoàng
T đồng ý thì mới được xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho khách hàng. Theo khoản 7 Điều 3 Thông tư số 26/2015/TT-
BTC ngày 27-02-2015 của Bộ Tài chính quy định trường hợp khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ từ 200.000đồng trở lên
mỗi lần người mua không lấy hóa đơn hoặc không cung cấp tên, địa chỉ, mã số thuế (nếu có) thì vẫn phải lập hóa đơn và
ghi rõ: Người mua không lấy hóa đơn hoặc người mua không cung cấp tên, địa chỉ, mã số thuế. Đồng thời, chỉ đạo
Nguyễn Thị M, Cao Thị T khi chuyển hóa đơn, chứng từ để làm báo cáo thuế, báo cáo tài chính hàng năm chỉ được
chuyển các hóa đơn giá trị gia tăng đầu vào, đầu ra và các tài liệu như bảng lương, các khoản vay ngân hàng… cho
Dương Văn T và Hoàng Minh Đ để kê khai thuế, báo cáo tài chính theo quy định, không cho Dương Văn T và Hoàng Minh
Đ biết việc sản xuất, kinh doanh thực tế của Công ty. Theo đó, từ năm 2017 đến năm 2020 Công ty để ngoài doanh thu,
không kê khai thuế, báo cáo tài chính nhằm mục đích trốn thuế với số lượng rất lớn, cụ thể như sau:
Năm 2017: Doanh thu thực tế của Công ty là 43.752.042.004đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
8.696.664.548đồng, để ngoài doanh thu là 35.055.377.456đồng, số tiền trốn thuế là 2.696.175.294đồng.
Năm 2018: Doanh thu thực tế của Công ty là 31.850.522.813đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
5.578.481.019đồng, để ngoài doanh thu 26.272.041.794 đồng, số tiền trốn thuế là 1.355.672.484đồng.
Năm 2019: Doanh thu thực tế của Công ty là 33.842.777.310đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
11.745.643.226đồng, để ngoài doanh thu 22.097.134.084đồng, số tiền trốn thuế là 1.657.242.530đồng.
Năm 2020: Doanh thu thực tế của Công ty là 36.912.256.334đồng, Công ty chỉ kê khai báo cáo tài chính số tiền
7.733.463.186đồng, để ngoài doanh thu 29.178.793.148 đồng, số tiền trốn thuế là 2.378.963.525đồng.
Như vậy, tính từ năm 2017 đến năm 2020, doanh thu thực tế của Công ty là 146.357.598.461đồng, nhưng theo sự chỉ
đạo của Hoàng T, Công ty chỉ báo cáo tài chính và kê khai thuế số tiền là 33.754.251.979đồng, số doanh thu để ngoài
không báo cáo tài chính, kê khai thuế là 112.603.346.482đồng. Tổng số tiền Công ty đã trốn thuế là 8.088.053.834đồng.
Trong đó xác định, năm 2017 2018, 2019 Nguyễn Thị M để ngoài doanh thu không kê khai thuế với số tiền là
82.754.998.694đồng, thuế giá trị gia tăng sau khi trừ thuế đầu vào còn lại là 5.709.090.309đồng; năm 2020 Cao Thị T để
ngoài doanh thu không kê khai thuế với số tiền là 29.848.347.788đồng, thuế giá trị gia tăng sau khi trừ thuế đầu vào còn
lại là 2.378.963.525đồng.
Về pháp nhân Công ty Cổ phần T: Từ năm 2017 đến năm 2020 Công ty để ngoài doanh thu, không kê khai thuế, nhằm
mục đích trốn thuế giá trị gia tăng với tổng số tiền là 8.088.053.834đồng. Toàn bộ số tiền trốn thuế này Công ty sử dụng
vào hoạt động của công ty như: Trả lương công nhân, mua máy móc, thiết bị đầu tư sản xuất, làm nhà xưởng, trả lãi
ngân hàng, giải phóng mặt bằng. Số tiền 4.234.000.000đồng chia cổ tức trong các năm 2017 đến 2020 cho các cổ đông
theo tỷ lệ vốn góp, cụ thể: Hoàng T được chia 2.161.500.000đồng, Trần Văn L được chia 1.280.000.000đồng và Đỗ Văn
M được chia 792.500.000đồng. Trong vụ án, Hoàng T là Giám đốc, đại diện theo pháp luật của Công ty đã chỉ đạo
Nguyễn Thị M, Cao Thị T thực hiện hành vi trốn thuế. Số tiền trốn thuế được sử dụng cho mục đích chung của Công ty và
chia cổ tức cho các cổ đông góp vốn như đã nêu trên. Vì vậy, Công ty phải chịu trách nhiệm hình sự với tư cách pháp nhân.
Tại Kết luận giám định số: 45/KL-CT ngày 08-9-2022 của Hội đồng Giám định tư pháp trong lĩnh vực thuế kết luận: Tổng
số tiền thuế giá trị gia tăng Công ty phải nộp ngân sách Nhà nước đối với số tiền không kê khai báo cáo thuế trong các
năm 2017, 2018, 2019, 2020 là 8.088.053.834đồng.Đối với số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên, phí
bảo vệ môi trường không xác định được.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã
quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, r, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17,
Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hoàng T; căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, t khoản 1 Điều 51, điểm
g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T; căn cứ Điều 46,
điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-
12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên bố các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T phạm tội Trốn thuế.
Xử phạt bị cáo Hoàng T 04 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 02 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Cao Thị T
02 năm tù. Buộc bị cáo Hoàng T nộp lại số tiền 2.161.500.000đồng; ông Trần Văn L nộp lại số tiền 1.280.000.000đồng;
ông Đỗ Văn M nộp lại số tiền 792.500.000đồng; Pháp nhân thương mại Công ty nộp lại số tiền là 3.854.053.834đồng cho
Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, Bản án còn xử phạt Công ty số tiền 3.000.000.000đồng, tuyên về xử lý vật chứng, án phí
và quyền kháng theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định, bị cáo Hoàng T kháng cáo xin giảm hình phạt tù; bị cáo Nguyễn Thị M kháng cáo xin hưởng mức
án dưới khung hình phạt và được hưởng án treo; bị cáo Cao Thị T kháng cáo xin giảm hình phạt và được hưởng án treo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L kháng cáo về biện pháp tư pháp, đề
nghị không thu lại số tiền các ông được chia lãi cổ tức từ Công ty.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Hoàng T giữ nguyên nội dung đã kháng cáo.
Bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T kháng cáo xin được hưởng án treo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề
nghị hủy bỏ các lệnh phong tỏa tài khoản đối với họ. Ông Trần Văn L nhất trí xét xử vụ án vắng mặt người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự là bà Chu Thị Nguyễn P.
Người đại diện cho nguyên đơn dân sự đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án; đề nghị xem xét kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm kết án bị
cáo về tội Trốn thuế là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng T và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều giữ nguyên nội dung kháng cáo; bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T kháng cáo xin được
hưởng án treo. Xét thấy, bản án sơ thẩm nhận định, đánh giá về tính chất mức độ hành vi phạm tội và vai trò của các bị
cáo chưa phù hợp; chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T được
hưởng; áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Cao Thị T không chính xác. Dẫn đến việc quyết
định mức hình phạt với bị cáo Hoàng T có phần hơi nghiêm khắc. Ngoài ra, cấp sơ thẩm không xem xét và quyết định về
các quyết định, lệnh phong tỏa tài khoản của bị cáo, của Công ty, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Hoàng T đã tác động gia đình nộp số tiền 50.200.000đồng theo quyết định của Bản án sơ
thẩm. Bị cáo Nguyễn Thị M cung cấp thêm các tài liệu mới thể hiện ông nội của bị cáo là được tặng thưởng Huy chương
Kháng chiến, bị cáo nhiều lần ủng hộ quỹ của Trung tâm hy vọng L, tỉnh Lạng Sơn. Bị cáo Cao Thị T có chồng năm 2019 bị
tai nạn chấn thương sọ não; mẹ chồng hiện nay đang điều trị bệnh ung thư; bố chồng được tặng thưởng Huy hiệu thợ
mỏ ngành than, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 mà các bị cáo được hưởng. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng T, giảm hình phạt tù cho bị cáo xuống còn 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; chấp
nhận kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T và ấn định thời gian thử thách theo quy định
của pháp luật. Xét thấy, cấp sơ thẩm áp dụng biện pháp tư pháp buộc ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L nộp lại số tiền được
chia lãi cổ tức từ năm 2017 đến năm 2020 là có căn cứ pháp lý, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, ông Đỗ
Văn M, ông Trần Văn L không có tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo đã đưa ra. Căn cứ điểm
a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Văn M, ông
Trần Văn L về biện pháp tư pháp. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các Quyết định và Lệnh phong tỏa tài khoản
theo quy định của pháp luật.
Ông Bế Quang H là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trần Văn L trình bày: Việc Công ty và các bị cáo có
hành vi trốn thuế, ông Trần Văn L không biết và cũng không có lỗi, số tiền hưởng lợi từ hành vi trốn thuế và số tiền lãi cổ
tức đã được trộn lẫn và phân chia lợi nhuận cho cổ đông. Việc truy thu số tiền trốn thuế là đúng pháp luật, nhưng trước
tiên Công ty phải bị truy thu toàn bộ số tiền trốn thuế. Sau này, Công ty có quyền khởi kiện ông Trần Văn L bằng một vụ
kiện khác theo quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không truy thu số tiền 1.280.000.000đồng của
ông Trần Văn L, hủy bỏ Lệnh phong tỏa tài khoản của ông Trần Văn L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, tất cả 03 bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân đúng như Bản án sơ thẩm đã
tuyên, cụ thể: Công ty cổ phần T có người đại diện theo pháp luật là bị cáo Hoàng T. Từ năm 2017 đến năm 2019, bị cáo
Hoàng T đã chỉ đạo bị cáo Nguyễn Thị M và năm 2020 đã chỉ đạo bị cáo Cao Thị T để lập 02 hệ thống sổ sách kế toán,
không xuất hóa đơn giá trị gia tăng khi khách hàng không có nhu cầu lấy hóa đơn và để ngoài doanh thu không kê khai
báo cáo thuế, báo cáo tài chính với mục đích là để trốn nộp thuế cho Nhà nước. Các bị cáo Nguyễn Thị M và Cao Thị T
nhận thức được việc lập 02 hệ thống sổ sách kế toán, không xuất hóa đơn giá trị gia tăng khi bán hàng và không cung
cấp đầy đủ doanh thu cho Dương Văn T và Hoàng Minh Đ để kê khai thuế, báo cáo tài chính là vi phạm pháp luật. Công
ty cổ phần T thực hiện hành vi trốn thuế từ năm 2017 đến năm 2020 với tổng số tiền 8.088.053.834đồng , trong đó bị
cáo Nguyễn Thị M đã có hành vi giúp sức cho bị cáo Hoàng T từ năm 2017 đến năm 2019 với số tiền trốn thuế là
5.709.090.308đồng, bị cáo Cao Thị T đã giúp sức cho bị cáo Hoàng T trốn thuế trong năm 2020 với số tiền là
2.378.963.525đồng. Số tiền trốn thuế được sử dụng cho mục đích chung của Công ty và chia cổ tức cho các cổ đông góp
vốn. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T về tội Trốn thuế theo quy định tại
khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng T, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân và
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này đã khởi tố
pháp nhân thương mại là Công ty cổ phần T với tổng số tiền trốn thuế là 8.088.053.834đồng. Toàn bộ tiền trốn thuế đã
được đưa vào Công ty, trong đó tiền chia cổ tức là 4.234.000.000đồng và đưa vào hoạt động của Công ty là
3.854.053.834đồng. Bị cáo Hoàng T chỉ được chia cổ tức số tiền 2.161.500.000đồng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã
đánh giá chưa chính xác vai trò của bị cáo Hoàng T trong vụ án này. Do đó, mức hình phạt 04 năm 06 tháng tù mà cấp sơ
thẩm đã tuyên đối với bị cáo có phần nghiêm khắc, chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã gây
ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tác động để bà Hoàng Thị T (vợ bị cáo) nộp thay bị cáo số tiền 50.200.000đồng tại
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn theo quyết định của Bản án sơ thẩm (về biện pháp tư pháp). Đây là tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì
vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, nhưng mức giảm hình phạt vẫn phải đảm bảo
theo luật định và phù hợp với mức hình phạt của các đồng phạm khác.
[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Thị M, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân và
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định của pháp luật. Do Tòa án cấp sơ thẩm đã
đánh giá chưa chính xác vai trò của bị cáo Hoàng T trong vụ án này nên đương nhiên việc đánh giá vai trò của bị cáo
Nguyễn Thị M cũng không chính xác. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa đánh giá về việc bị cáo chỉ là người làm công ăn lương
nên phải thực hiện theo sự chỉ đạo của giám đốc Công ty. Bản thân bị cáo không được hưởng lợi từ hành vi trốn thuế
của pháp nhân thương mại, bị cáo chỉ đóng vai trò giúp sức trong vụ án. Tuy nhiên, mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù
mà cấp sơ thẩm đã tuyên về cơ bản là khá phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo có cung cấp thêm các tài liệu mới thể hiện
ông nội của bị cáo là ông Nguyễn Đình S được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng nhất, bị cáo nhiều lần ủng hộ
tiền cho các cháu tại Trung tâm hy vọng L, tỉnh Lạng Sơn trong năm 2023. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo bị phạt
tù không quá 03 năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1,
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở
lên nhưng các lần phạm tội bị cáo đều chỉ tham gia với vai trò là đồng phạm giúp sức không cao và là vụ án xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế. Mặt khác, trong quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp
luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, trong thời gian tại
ngoại vừa qua không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành
hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không ảnh
hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp
luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt tù cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng cho
bị cáo được hưởng án treo.
[4] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Cao Thị T, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân và tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định của pháp luật. Do Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chưa
chính xác vai trò của bị cáo Hoàng T, bị cáo Nguyễn Thị M trong vụ án này nên đương nhiên việc đánh giá vai trò của bị
cáo Cao Thị T cũng không chính xác. Theo quy định, báo cáo tài chính hàng của Công ty thường tính từ 01-01 đến 31-12
hàng năm. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa đánh giá về việc bị cáo chỉ là người làm công ăn lương nên phải thực hiện theo sự
chỉ đạo của giám đốc Công ty. Bản thân bị cáo không được hưởng lợi từ hành vi trốn thuế của pháp nhân thương mại. Bị
cáo Hoàng T và bị cáo Cao Thị T đều thừa nhận: Tháng 3-2020 khi tiếp nhận công việc từ bị cáo Nguyễn Thị M, thì bị cáo
Cao Thị T đã tham mưu cho bị cáo Hoàng T về những sai phạm trong nộp thuế và có đề nghị xuất hóa đơn nộp thuế bổ
sung nhưng bị cáo Hoàng T không đồng ý; đến năm 2021, Công ty mới kê khai nộp thuế đúng quy định. Trong vụ án này,
từ 19-3-2020 bị cáo mới được giao nhiệm vụ làm kế toán Công ty đến thời điểm hành vi phạm tội bị phát hiện, việc các
bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M thực hiện hành vi trốn thuế trong những năm trước đó bị cáo không biết, không phải chịu
trách nhiệm. Nên bị cáo không phạm tội nhiều lần mà chỉ thực hiện tội phạm duy nhất một lần vào năm 2020. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ
luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo là không đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức hình phạt 02 năm tù mà cấp sơ thẩm đã
tuyên về cơ bản là khá phù hợp.
[5] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Cao Thị T cung cấp thêm các tài liệu, chứng cứ mới thể hiện chồng bị cáo là Hoàng Văn H
năm 2019 bị tai nạn chấn thương sọ não; mẹ chồng hiện nay đang điều trị bệnh ung thư; bố chồng là ông Hoàng Văn M
được tặng thưởng Huy hiệu thợ mỏ ngành than, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Đây là
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo bị phạt tù không quá 03 năm, có nhân thân tốt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo không có tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; thực hiện tội phạm với vai trò đồng phạm thấp nhất và là vụ án xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế. Trong quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, trong thời gian tại ngoại vừa qua
không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì
không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không ảnh hưởng xấu đến
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội
đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt tù cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
[6] Xét kháng cáo của ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L, thấy rằng: Theo Điều lệ của Công ty cổ phần T năm 2015 và Luật
Doanh nghiệp năm 2014 thì Công ty chỉ được trả cổ tức sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính
theo quy định. Trong vụ án này, Công ty đã thực hiện trả cổ tức khi chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.
Ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L đều là các cổ đông của Công ty được hưởng lợi từ tiền trốn thuế của Công ty. Số tiền
ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L đã hưởng là tiền do phạm tội mà có, nên việc Tòa án cấp sơ thẩm truy thu số tiền có được
từ hành vi phạm tội là đúng quy định. Mặt khác, cần ưu tiên hoàn trả tiền trốn thuế cho Ngân sách Nhà nước. Xét thấy,
nếu quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi người đại diện của Công ty thì ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L có quyền khởi kiện
bằng vụ án kinh doanh thương mại khác để đảm bảo lợi ích của bản thân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do
vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L.
[7] Đối với các tài khoản Ngân hàng hiện đang bị phong tỏa, thấy rằng: Để đảm bảo cho công tác điều tra, Cơ quan điều
tra đã thực hiện phong tỏa tài khoản đối với 06 tài khoản Ngân hàng, bao gồm Công ty 02 tài khoản, bị cáo Hoàng T 02
tài khoản, ông Đỗ Văn M 01 tài khoản, ông Trần Văn L 01 tài khoản. Kết thúc điều tra, giai đoạn xét xử Tòa án cấp sơ
thẩm không tuyên về việc tiếp tục duy trì hay hủy bỏ đối với các quyết định, lệnh phong tỏa này là không đúng quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L đã có kháng cáo với đối với phần quyết định về biện pháp tư
pháp đối với số tiền buộc các ông phải nộp lại. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, khắc phục sai sót và tuyên bổ
sung về nội dung này. Như đã nhận định ở trên, tiền do phạm tội mà có cần phải ưu tiên tịch thu nộp Ngân sách Nhà
nước nên cần tiếp tục duy trì các quyết định, lệnh phong tỏa tài khoản để đảm bảo thi hành án đối với các tài khoản còn
tiền, tài khoản không còn tiền thì hủy bỏ quyết định phong tỏa.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn là có căn cứ pháp lý, phù hợp với các quy định của
pháp luật nên được chấp nhận.
[9] Xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự là không có căn cứ pháp lý, không phù hợp với
các quy định của pháp luật nên không được chấp nhận.
[10] Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Do kháng cáo không được
chấp nhận nên ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[11] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; chấp nhận kháng
cáo xin giảm hình phạt tù của bị cáo Hoàng T, chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Thị M,
Cao Thị T; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn đối với phần hình phạt tù của các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T, cụ thể như sau:
1.1. Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, r, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 của Bộ
luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hoàng T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Trốn thuế. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 05-10-2022.
1.2. Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, t khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, khoản 1, khoản 2,
khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng
án treo về tội Trốn thuế. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-9-2023.
1.3. Căn cứ khoản 3 Điều 200, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật
Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Cao Thị T 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo về tội Trốn thuế. Thời gian thử thách là
04 (bốn) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12-9-2023.
Giao các bị cáo Nguyễn Thị M, Cao Thị T cho Uỷ ban nhân dân thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn để giám sát và giáo dục
trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều
92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định
buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo về biện
pháp tư pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M và ông Trần Văn L; giữ nguyên quyết
định của Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
về phần biện pháp tư pháp, cụ thể: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Truy thu của bị cáo Hoàng T số tiền 2.161.500.000đồng (hai tỷ một trăm sáu mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng) để
sung vào ngân sách Nhà nước. Xác nhận bị cáo Hoàng T (bà Hoàng Thị T nộp thay Hoàng T) đã nộp số tiền
50.200.000đồng (năm mươi triệu hai trăm nghìn đồng) tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn theo Biên lai thu tiền số
AA/2021/0005596 ngày 07 tháng 9 năm 2023.
Truy thu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Văn L số tiền 1.280.000.000đồng (một tỷ hai
trăm tám mươi triệu đồng), để sung vào ngân sách Nhà nước Truy thu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án ông Đỗ Văn M số tiền 792.500.000đồng (bảy trăm chín mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng), để sung vào ngân sách
Nhà nước Truy thu của Pháp nhân thương mại Công ty cổ phần T số tiền là 3.854.053.834đồng (ba tỷ tám trăm năm
mươi tư triệu không trăm năm mươi ba nghìn tám trăm ba mươi tư đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
3. Hủy bỏ Quyết định phong tỏa tài khoản của pháp nhân số: 01/QĐ- CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan cảnh
sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đối với tài khoản 35110000198639 tại Ngân hàng thương mại cổ phần cổ phần Đ, Chi
nhánh tỉnh Lạng Sơn của Công ty cổ phần T. 4. Tiếp tục duy trì:
Lệnh phong tỏa tài khoản số: 01/LPT-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lạng
Sơn đối với số tiền 149.767đồng trong tài khoản 21110001197638, số tiền 51.334đồng trong tài khoản 35110000214702
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, Chi nhánh Lạng Sơn của bị cáo Hoàng T, để đảm bảo thi hành án.
Lệnh phong tỏa tài khoản số: 02/LPT-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lạng
Sơn đối với số tiền 3.940.265đồng trong tài khoản 106871391363 tại Ngân hàng thương mại cổ phần C, Chi nhánh Lạng
Sơn của ông Trần Văn L, để đảm bảo thi hành án.
Lệnh phong tỏa tài khoản số: 03/LPT-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lạng
Sơn đối với số tiền 13.954.748đồng trong tài khoản 35110000533106 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, Chi nhánh
Lạng Sơn của ông Đỗ Văn M, để đảm bảo thi hành án.
Quyết định phong tỏa tài khoản của pháp nhân số: 02/QĐ-CSKT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Cơ quan Cảnh sát điều
tra, Công an tỉnh Lạng Sơn đối với số tiền 12.011.114đồng trong tài khoản 119000052764 tại Ngân hàng thương mại cổ
phần C, Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn của Công ty cổ phần T, để đảm bảo thi hành án.
5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Các bị cáo Hoàng T, Nguyễn Thị M, Cao Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đỗ Văn M, ông Trần Văn L mỗi người phải chịu 200.000đồng (hai
trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
1. Đối tượng trong vụ án hình sự
-Cácbịcáocókhángcáo:
1. Hoàng T, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1963 tại quận H, Thành phố Hà Nội. Nơi đăng ký thường trú: Đường L, phường P,
quận H, Thành phố Hà Nội. Nơi tạm trú: Đường L, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Đường L, phường V,
thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Thế M (đã chết) và bà Quách Thị V; có vợ là Hoàng Thị T và có 03 con; tiền
án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 83/2008/HSST ngày 21, 22, 25-02-2008, bị
cáo bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 06 năm tù về tội Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc (đã được xóa), chưa
bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo bị bắt để tạm giam từ ngày 05-10-2022 đến nay; có mặt.
2. Nguyễn Thị M, sinh ngày 24 tháng 01 năm 1987 tại huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đăng ký thường trú: Thôn V, xã C,
huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Chỗ ở: Thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa: 12/12; dân
tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình V (đã chết) và bà Phan Thị T; có
chồng là Nguyễn Văn P và có 02 con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, hiện tại ngoại; có mặt.
3. Cao Thị T, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1990 tại huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Nơi đăng ký thường trú: Xã L, huyện Đ, tỉnh
Nghệ An. Chỗ ở: Thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới
tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Tiến S và bà Nguyễn Thị H; có chồng là Hoàng Văn H và có 02
con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, hiện tại ngoại; có mặt.
-Bịcáokhôngcókhángcáo:Công ty Cổ phần T. Trụ sở tại: Thôn S, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
-Nguyênđơndânsựkhôngcókhángcáo: Chi cục Thuế khu vực, trực thuộc Cục thuế tỉnh Lạng Sơn.
Ngườiđạidiệnhợppháp: Ông Đỗ Văn C: Đội trưởng Đội Kiểm tra thuế, Chi cục Thuế khu vực, thuộc Cục thuế tỉnh Lạng
Sơn (văn bản ủy quyền ngày 12- 12-2022); có mặt.
-Ngườicóquyềnlợi,nghĩavụliênquanđếnvụáncókhángcáo:
1. Ông Đỗ Văn M. Trú tại: Phố C, phường T, quận N, Thành phố Hà Nội; có mặt.
2. Ông Trần Văn L. Trú tại: Thôn S, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
-NgườibảovệquyềnvàlợiíchhợpphápcủaôngTrầnVănL:
1. Ông Bế Quang H, Luật sư Văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
2. Bà Chu Thị Nguyễn P, Luật sư Văn phòng Luật sư N, cùng thuộc đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
Ngoàira,trongvụáncòncó02ngườicóquyềnlợi,nghĩavụliênquan đếnvụánkhôngcókhángcáo,khôngbịkháng
cáo,khôngbịkhángnghị.
2. Thẩm quyền của vụ án hình sự Thẩm quyền điều tra :
Theo khoản 1, 2 và khoản 3 Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự như sau:
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV Bộ luật Hình
sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội bao gồm:
Cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Thẩm quyền xét xử :
- Phúc thẩm : Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
- Sơ thẩm : Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn
3. Thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự
Giai đoạn 1: Khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Chương 9 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Khi có căn cứ khởi tố vụ án hình sự các cơ quan sau đây sẽ có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự: - Cơ quan điều tra;
- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Viện kiểm sát nhân dân; - Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 2: Điều tra vụ án hình sự quy định từ Chương 10 đến chương 17 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì giai đoạn tiếp theo trong quy trình giải quyết vụ án hình sự là điều tra vụ án hình sự.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội
phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hết thời
hạn điều tra cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự có thể gia hạn thêm theo quy định.
Giai đoạn 3: Truy tố vụ án hình sự quy định tại Phần 3 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Sau khi hoàn thành điều tra vụ án hình sự cơ có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự sẽ chuyển hồ sơ đề nghị Viện Kiểm
sát truy tố vụ án hình sự.
Viện kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó quyết định việc truy tố.
Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ án.
Thời hạn truy tố vụ án hình sự là 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Giai đoạn 4: Xét xử vụ án hình sự quy định tại Phần 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự bao gồm:
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự;
Trong gia đoạn này Tòa án sẽ quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Việc xét xử được tiến hành bằng lời nói và
được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm ngừng phiên tòa.
Kết thúc giai đoạn xét xử vụ án hình sự Tòa án phải đưa ra bản án. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Bản án phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng xét xử.
Giai đoạn 5: Thi hành bản án quy định tại Phần 5 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Sau khi đã có bản án Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho
Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ
ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Giai đoạn 6: Xét lại bản án đã có hiệu lực quy định tại Phần 6 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực bao gồm: Thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.