-
Thông tin
-
Quiz
[TÀI LIỆU] Lịch sử cải cách Lê Thánh Tông | Trường Đại học Hồng Đức
Vấn đề tổ chức hành chính quốc gia là một trong những vấn đề then chốt của mọi chế độ chính trị trong lịch sử. Xã hội luôn luôn vận động, vì vậy, nền hành chính cũng phải luôn luôn có sự điều chỉnh, cách tân để đáp ứng sự biến đổi của xã hội. Do đó, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, cùng với sự biến đổi của thể chế chính trị - xã hội, thường dẫn đến những cải cách từng phần hoặc toàn diện nền hành chính trên phạm vi toàn quốc. Năm 1460, cuộc chính biến do nhóm cựu thần Lê Xớ, Lê Liệt chỉ huy đã lật đổ Lê Nghi Dân, đưa Bình nguyên vương Lê Tư Thành lên ngôi vua, tức Lê Thánh Tông. Với mong muốn khẳng định một thời thịnh trị của triều đại mỡnh, Lê Thánh Tông đó dựa vào những điều kiện mới của đất nước tiến hành hang loạt chính sách lớn, quan trọng về kinh tế, xã hội, quân sự và đặc biệt là thực hiện cuộc cải cách hành chính toàn diện từ trung ương xuống đến địa phương. Với công cuộc cải cách hành chính do Lê Thánh Tông thực hiện, nhà nước Đại Việt đã được phát triển đến mức cực thịnh, đạt đỉnh cao của triều đại phong kiến Việt Nam. Cách tổ chức chính quyền hợp lý, hiệu quả của vua Lê Thánh Tông đó được xem là khuôn vàng thước ngọc, được các triều vua kế tiếp noi theo, duy trì suốt hơn ba trăm năm đến tận cuối thế kỉ XVIII. Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết các mục tiêu sau: Về mặt khoa học: Trên cơ sở những tư liệu lịch sử phục dựng bức tranh toàn cảnh về công cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông, qua đó làm rõ nguyên nhân dẫn đến cải cách, nội dung và kết quả của nó đối với xã hội nước ta nửa sau thế kỉ XV. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam(ĐHHD) 5 tài liệu
Đại học Hồng Đức 235 tài liệu
[TÀI LIỆU] Lịch sử cải cách Lê Thánh Tông | Trường Đại học Hồng Đức
Vấn đề tổ chức hành chính quốc gia là một trong những vấn đề then chốt của mọi chế độ chính trị trong lịch sử. Xã hội luôn luôn vận động, vì vậy, nền hành chính cũng phải luôn luôn có sự điều chỉnh, cách tân để đáp ứng sự biến đổi của xã hội. Do đó, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, cùng với sự biến đổi của thể chế chính trị - xã hội, thường dẫn đến những cải cách từng phần hoặc toàn diện nền hành chính trên phạm vi toàn quốc. Năm 1460, cuộc chính biến do nhóm cựu thần Lê Xớ, Lê Liệt chỉ huy đã lật đổ Lê Nghi Dân, đưa Bình nguyên vương Lê Tư Thành lên ngôi vua, tức Lê Thánh Tông. Với mong muốn khẳng định một thời thịnh trị của triều đại mỡnh, Lê Thánh Tông đó dựa vào những điều kiện mới của đất nước tiến hành hang loạt chính sách lớn, quan trọng về kinh tế, xã hội, quân sự và đặc biệt là thực hiện cuộc cải cách hành chính toàn diện từ trung ương xuống đến địa phương. Với công cuộc cải cách hành chính do Lê Thánh Tông thực hiện, nhà nước Đại Việt đã được phát triển đến mức cực thịnh, đạt đỉnh cao của triều đại phong kiến Việt Nam. Cách tổ chức chính quyền hợp lý, hiệu quả của vua Lê Thánh Tông đó được xem là khuôn vàng thước ngọc, được các triều vua kế tiếp noi theo, duy trì suốt hơn ba trăm năm đến tận cuối thế kỉ XVIII. Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết các mục tiêu sau: Về mặt khoa học: Trên cơ sở những tư liệu lịch sử phục dựng bức tranh toàn cảnh về công cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông, qua đó làm rõ nguyên nhân dẫn đến cải cách, nội dung và kết quả của nó đối với xã hội nước ta nửa sau thế kỉ XV. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam(ĐHHD) 5 tài liệu
Trường: Đại học Hồng Đức 235 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Hồng Đức
Preview text:
lOMoARcPSD|50202050 A. PHẦN MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài:
Vấn đề tổ chức hành chính quốc gia là một trong những vấn đề then chốt
của mọi chế độ chính trị trong lịch sử. Xã hội luôn luôn vận động, vì vậy, nền hành
chính cũng phải luôn luôn có sự điều chỉnh, cách tân để đáp ứng sự biến đổi của
xã hội. Do đó, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, cùng với
sự biến đổi của thể chế chính trị - xã hội, thường dẫn đến những cải cách từng
phần hoặc toàn diện nền hành chính trên phạm vi toàn quốc. Năm 1460, cuộc
chính biến do nhóm cựu thần Lê Xớ, Lê Liệt chỉ huy đã lật đổ Lê Nghi Dân, đưa
Bình nguyên vương Lê Tư Thành lên ngôi vua, tức Lê Thánh Tông. Với mong muốn
khẳng định một thời thịnh trị của triều đại mỡnh, Lê Thánh Tông đó dựa vào
những điều kiện mới của đất nước tiến hành hang loạt chính sách lớn, quan
trọng về kinh tế, xã hội, quân sự và đặc biệt là thực hiện cuộc cải cách hành chính
toàn diện từ trung ương xuống đến địa phương. Với công cuộc cải cách hành
chính do Lê Thánh Tông thực hiện, nhà nước Đại Việt đã được phát triển đến
mức cực thịnh, đạt đỉnh cao của triều đại phong kiến Việt Nam. Cách tổ chức
chính quyền hợp lý, hiệu quả của vua Lê Thánh Tông đó được xem là khuôn vàng
thước ngọc, được các triều vua kế tiếp noi theo, duy trì suốt hơn ba trăm năm
đến tận cuối thế kỉ XVIII. Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết các mục tiêu
sau: Về mặt khoa học: Trên cơ sở những tư liệu lịch sử phục dựng bức tranh toàn
cảnh về công cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông, qua đó làm
rõ nguyên nhân dẫn đến cải cách, nội dung và kết quả của nó đối với xã hội nước ta nửa sau thế kỉ XV.
Về mặt thực tiễn: Hiện nay, vấn đề cải cách nền hành chính quốc gia đang
được đặt ra rất cấp thiết. Khảo sát và đánh giá một cách hệ thống công cuộc cải
cách hành chính dưới triều Lê Thánh Tông không chỉ là đáp ứng nhu cầu hiểu
biết mà cũn giỳp chúng ta tìm hiểu để kế thừa, phát huy và phát triển những kinh lOMoARcPSD|50202050
nghiệm của quá khứ để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề:
Viết về công cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông từ lâu
đã được nhiều nhà sử học quan tâm: Cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí” của
Phan Huy Chú trong phần quan chức chớ đó đề cập sơ qua đến vấn đề tổ chức
chính quyền của các triều đại nước ta từ thủa lập quốc đến triều Nguyễn. Tuy
nhiên, tác phẩm chỉ mang tính trình bày, phân tích, nghĩa là chỉ kể tờn cỏc cơ
quan cùng tên các quan chức chứ không hề có tính tổng hợp hay sự liên lạc giữa
các cơ quan đó với nhau. Trong “Đại Việt sử kí toàn thư” do Ngô Sĩ Liên và các sử
thần triều Lê biên soạn viết về lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến triều
Nguyễn, tuy nhiên chủ yếu là nêu sự kiện, không trình bày riêng lẻ về cải cách
hành chính của Lê Thánh Tông. “Khâm định việt sử thông giám cương mục” do
quốc sử quán triều Nguyễn in và Phan Thanh Giản đứng đầu bộ biên tập, phụng
mệnh vua Tự Đức soạn ra cũng có đề cập đến những chính sách của Lê Thánh
Tông về cải cách chính quyền, tuy nhiên cũng chỉ là sự ghi chép rời rạc theo lối
thông báo sự kiện, không tập hợp phân tích rõ về công cuộc cải cách này. Ở cuốn
“Mười cuộc cải cách đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam” do giáo sư Văn Tạo biên
soạn có mục riêng về cuộc cải cách của Lê Thánh Tông. Qua đó, giáo sư đã phân
tích khỏ rừ rang bối cảnh lịch sử cuộc cải cách, nội dung cuộc cải cách trong các
mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa – tư tưởng và khẳng định được tầm vóc
của Lê Thánh Tông, song cũng chưa đi riêng về phần cải cách hành chính. Trong
“ Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam” của NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, ta tìm
thấy bài viết thuộc chuyên đề một của PGS.TS Đào Tố Uyên “ lịch sử tổ chức bộ
máy nhà nước ở Việt Nam thời phong kiến”, trong đó có triều vua Lê Thánh Tông.
Ngoài ra, trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6 năm 1995, chúng ta cũng được
biết thêm một số ý kiến về công cuộc cải cách này thông qua những công trình
nghiên cứu của cố giáo sư Trương Hữu Quýnh “công cuộc cải tổ và xây dựng nhà lOMoARcPSD|50202050
nước pháp quyền thời kỡ Lê Thánh Tông” hay “Lê Thánh Tông, con người và sự
nghiệp rạng rỡ một thời”… Tuy nhiên, do các tác giả chủ yếu đi vào tìm hiểu toàn
bộ công cuộc cải cách của Lê Thánh Tông mà không đi sâu một cách cụ thể riêng
mặt hành chính nên em xem đây là tài liệu tham khảo quan trọng giúp em xây dựng đề tài này.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu: 3.1.
Đối tượng: Đề tài tìm hiểu và nghiên cứu về cuộc cải cách
hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông. 3.2.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thời vua
Lê Thánh Tông trị vì (1442 – 1522).
+ Về mặt không gian: Đề tài đi sâu tìm hiểu cải cách hành chính Lê Thánh
Tông trong phạm vi nước Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông. 3.3.
Nhiệm vụ đề tài:
+ Thông qua đề tài, nhằm giúp phục dựng lại một cách hệ thống, toàn diện
công cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông: Bối cảnh, nội dung,
kết quả công cuộc cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương.
+ Qua đó bước đầu hệ thống, đánh giá, nhận xét về công cuộc cải cách hành
chính để người đọc hiểu tại sao đây là cuộc cải cách hành chính toàn diện, là
“khuôn vàng thước ngọc” cho thời kì sau noi theo.
4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháplịch sử, kết
hợp phương pháp so sánh, phương pháp vừa phân tích vừa tổng hợp. Kết
hợp bình luận, miêu tả. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp sơ đồ hoá để
trình bày một cách cụ thể, dễ hiểu vấn đề nêu ra. lOMoARcPSD|50202050 PHẦN NỘI DUNG
Chương I BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA LÊ THÁNH
TÔNG VÀ CON NGƯỜI LÊ THÁNH TÔNG
1.1. Bối cảnh lịch sử trước cải cách của Lê Thánh Tông:
Trước khi đi tìm hiểu cải cách Lê Thánh Tông, chúng ta cần xem xét bối cảnh
của công cuộc cải cách, qua đó mới nhìn nhận được hết các khía cạnh của nó.
Mới nhìn, tưởng rằng cuộc cải cách này chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân đơn giản
trước mắt là sự yếu kém của bộ máy hành chính đã được cải tổ từ Lê Thái Tổ đến
Lê Nhân Tông. Nhưng thực tế nó bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, mà từ Lê Thái
Tổ đến Lê Nhân Tông tuy cũng muốn làm nhưng chưa thực hiện được. Nguyên
nhân trước hết là do khủng hoảng thiết chế chính trị diễn ra từ cuối Trần: Cơ cấu
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hành chính mang tính phân tán, quyền lực
của nhà nước quân chủ quan liêu trung ương tập quyền bị hạn chế. Cuộc cải cách
của Hồ Quý Ly nhằm thay thế thiết chế quân chủ quý tộc bằng một thiết chế mới
quân chủ quan liêu là đúng đắn, cần thiết, nhưng do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, nó đó thất bại nhanh chóng. Dưới thời thuộc Minh ( Trung
Quốc), Đại Việt trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh của nhà Minh do ba ty quản lý.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427) thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi
hoàng đế, bắt tay xây dựng cường quốc mới theo thiết chế cũ của nhà Trần. Ở
trung ương, dưới vua là các chức Tả, Hữu tướng quốc, Bình chương, Đại hành
khiển, Tả hữu bộc xạ là những trọng thần giúp vua bàn bạc các “quản quốc trọng
sự”. Dưới đó là các chức quan như: Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh…Cỏc bộ chỉ là
các ban, phòng nằm trong thượng thư sảnh. Ngoài ra cũn cú một số chức quan
chuyên môn: Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc sử viện…
Ở địa phương, đất nước rộng lớn đã thống nhất, nhưng Lê Thái Tổ mới chia
làm ba đạo, rồi Lê Thái Tôngchia làm 5 đạo. Lê Thái Tổ đã xác định xã là cấp cơ
sở và đặt xã quan. Nhưng các cấp trung gian lại còn quá nhiều và hỗn độn như: lOMoARcPSD|50202050
Phủ, huyện, lỵ, trấn… ở thời Lê Thái Tổ. Đến thời Lê Thái Tônglại vẫn thấy: Phủ, lộ, trấn, huyện…
Thiết chế chính trị như trên rõ ràng chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh, mang
tính phân tán. Nhược điểm này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV và từ đó đã
đặt ra yêu cầu cải cách. Giờ đây, trong hoàn cảnh mới nhưng vẫn duy trì thiết
chế chính trị đó rõ ràng không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước,
của xu thế thời đại. Yêu cầu đặt ra cần thiết lập một bộ máy hành chính mới phù
hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.
Mặt khác, sau khi Lê Thái Tổ qua đời, các vua kế vị thường còn ít tuổi (10
tuổi và 2 tuổi). Mọi việc quyết đoán trong triều đình đều nằm trong tay các đại
thần. Nhưng mặc dù đó cú với nhau gần 10 năm “nằm gai nếm mật”, họ vẫn
không thoát khỏi sự đố kị khi trở thành người nắm giữ vận mệnh quốc gia. Hàng
loạt “công thần khai quốc” như: Nguyễn Trãi, Lưu Nhõn Chỳ, Lê Sỏt, Lê Ngõn…
lần lượt bị giết. Tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn chơi sa đoạ khá
phổ biến, đến nỗi Lê Thỏi Tông phải ra lệnh chỉ, nêu:“ Nay các khanh khụng kớnh
giữ phép công, người giữ tiền bạc, sổ sách nhà nước thì chậm trễ hoặc gây khó
dễ. Thuế đáng thu hay đáng miễn thì không chịu phờ tõu dứt khoát để làm khổ
dân. Người coi quan thì không thương dân đau khổ, mượn đồ của dân vứt bỏ
bừa bãi đến nỗi hỏng, mất, đến khi có việc lại đến hạch sách. Còn kẻ coi dõn thỡ
chỉ vụ lợi riờng, khụng lo nuôi dưỡng dân, hoặc tha cho người giàu, bắt tội người
nghèo mua gỗ làm nhà làm cửa, xử kiện không công bằng, chỉ gây bè phái, lo
hối lộ…” [2,326]. Ngay trong bản Trung hưng kí, được viết sau khi Lê Thánh Tông
lên ngôi cũng cho thấy tình hình rối ren giai đoạn này: “ Nhân Tông mới lên hai
tuổi, sớm lên ngôi vua… kẻ thân yêu giữ việc, tự hối lộ công hành… phường dốt
đặc nổi dậy như ong…Văn giai như Đào Công Soạn tuổi gần 80, tế thần như Lê Ê
không biết một chữ. Người trẻ không biết nghĩ, tự ý làm càn; người già không
chết đi, thành ra tai hại. Bán quan, mua ngục, ưa giàu, …kẻ xiểm nịnh được nghe
theo, bọn dạn sỏt thỡ được bổ dụng” [2, 437]. lOMoARcPSD|50202050
Thực trạng đó cũng làm cho nhà nước tập quyền thêm suy yếu. Để xây dựng
một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh, đòi hỏi phải chấn chỉnh lại
kỉ cương phép nước, phải cải cách cả thiết chế chính trị, cả về cơ chế vận hành
của bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, khắc phục tình trạng bất
cập giữa tập trung và phân tán. Tình hình trên đặt ra yêu cầu cần tiến hành một
công cuộc cải cách, đặc biệt là mặt hành chính nhằm chấn chỉnh bộ máy hành
chính nhà nước, xây dựng một nhà nước tập quyền có đủ khả năng ổn định lại
tình hình, đưa đất nước phát triển đi lên. Lê Thánh Tông - Vị vua hiền trong triều
đại nhà Lê lên ngôi đã đảm đương công việc này.
1.2. Con người Lê Thánh Tông:
Lê Thánh Tông (tên huý là Tư Thành, lại huý là Hạo, là con thứ tư của Thỏi
Tụng. Ông sinh vào giờ Sửu, ngày Mậu Tí, hai mươi tháng bảy năm Nhâm Tuất
(1442). Mẹ ông là bà Tiệp Dư, Ngô Thị Ngọc Dao, người làng Động Bàng, huyện
Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Truyền thuyết về sự ra đời của vua có nhiều điều kì lạ:
Theo sách xưa để lại thì “khi còn là Tiệp Dư, thái hậu đi cầu tự, mơ thấy thượng
đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai… Vua sinh ra thiên tư tuyệt đẹp, thần
sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc
thông minh xứng đáng làm vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước”. [2,414]
Vua không được sinh ra trong cung mà lại sinh ở giữa chốn dân gian, tại
chùa Huy Văn, Ngay từ khi còn là Bình Nguyên Vương, do mẹ bị thất sủng, Lê
Thánh Tông sớm suy nghĩ về vị trí của mình, theo dõi thời thế, cố gắng học tập.
Năm Thái Hoà thứ ba, vua vâng mệnh làm phiên vương vào kinh sư, hàng ngày
cùng học với các vương khác. Bấy giờ, các quan dạy dỗ đã nhận thấy ở Lê Thánh
Tông một dáng điệu khác thường, thông minh, đường hoàng hơn hẳn người khác.
Khi vua Thái Tông mất (1442), thái tử Bang Cơ mới được hai tuổi lên nối
ngôi, tức vua Nhân Tông (1443 – 1459). Đến khoảng năm Diên Ninh (1459), Nghi
Dân tiếm ngôi, giết chết vua Nhân Tông và Tuyên từ thái hậu rồi tự lập làm vua.
Nghi Dân ở ngôi 8 tháng nhưng đã bộc lộ bản chất thích chém giết nên triều thần lOMoARcPSD|50202050
không phục.Bấy giờ các đại thần triều đình là Nguyễn Xớ, Lê Liệt, Lê Lăng cùng
họp bàn lật đổ Nghi Dân, cùng nhau đem cấm binh đánh bọn Đồn – Ban, rồi phế
Nghi Dõn, đún Tư Thành lên ngôi vua. Bấy giờ vua 18 tuổi, vào nối đại thống, tự xưng
Thiên Nam Động Chủ, niên hiệu là Thánh Tông. Vua đổi niên hiệu hai lần: Quảng
Thuận (1460 – 1469) và Hồng Đức (1470 – 1407).
Lê Thánh Tông ở ngôi 38 năm, thọ 56 tuổi. Đối với hạng nguyên thủ quốc
gia, 50 – 60 tuổi mới là tuổi đầy đủ kinh nghiệm và sự sâu, chín. Nhưng ở Lê
Thánh Tông, vào tuổi 20, con người này đã tỏ ra có một bản lĩnh khác thường.
Một lần trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 19 tuổi
này bảo họ: “Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tớnh… người bảo nước ta là hàng
phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là người theo đường chết, mang lòng
không vua” [2,431]. Chính ý chí tự cường dân tộc cao độ này là động lực mạnh
mẽ đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng phát triển
đất nước hồi thế kỷ XV. Được thừa hưởng cả một di sản lớn của cha ông để lại,
một đất nước an bình trong độc lập, đang từng bước đi vào thế ổn định sau
nhiều năm khôi phục kinh tế. ễng có thể, như nhiều vị vua trước đó bình tâm ở
ngôi cao với cuộc sống nhàn nhã cho đến cuối đời. Nhưng ông đã không làm như
vậy mà ngược lại, ụng đó làm hết sức mình để tạo nên một sự nghiệp thực sự
rang rỡ một thời. Với sự nghiệp đó, người xưa đã tôn kính ông, ca ngợi ụng, cũn
những nhà sử học ngày nay thỡ đó xem thời thống trị của ông là thời thịnh trị
nhất, đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam.
Trong suốt thời gian trị vì đất nước, Lê Thánh Tông đã thực hiện nhiều cải
cách vĩ đại khiến người đời sau còn phải lấy làm gương để noi theo. Sau khi lên
ngôi, Lê Thánh Tông biết sớm chấm dứt mọi chuyện mâu thuẫn cung đình, khẩn
trương bắt tay vào công việc xây dựng đất nước rồi bắt tay ngay vào công cuộc
cải cách. Khi mới lên ngôi, vua đã lưu ý ngay tới việc cải tổ toàn diện bộ máy cai
trị trong nước. Trước hết, về cơ cấu tổ chức, Lê Thánh Tông đó thay đổi lại, có lOMoARcPSD|50202050
thể núi, đó xoỏ bỏ hệ thống tổ chức đơn vị hành chính đặt ra thời Lê Thái Tổ. Vua
tổ chức lại cả hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương, định ra những
quy chế thật rõ ràng minh bạch cho các quan, đặt ra nhiều chức mới để phù hợp
yêu cầu mới của lịch sử.
Vua Lê Thánh Tông cũn tỏ ra là một nhà luật pháp có tài. Vua cho san định
lại các luật lệ có từ những đời trước, đặt thêm những điều khoản mới cho phù
hợp với sự đòi hỏi của xã hội nước ta thời đú. Chớnh thời gian này, bộ luật Hồng
Đức đã ra đời, đó là một niềm hãnh diện cho nền luật pháp nước nhà. Những
đòi hỏi kế tiếp sau mãi cho đến nay, mỗi khi bàn tới luật pháp, các luật gia đều
phải tham khảo bộ luật Hồng Đức để rút ra từ đó những điều cần thiết làm nền
tảng cho luật pháp nước nhà . Lê Thánh Tông thường bảo với quần thần rằng:
“Phỏp luật là phép công của nhà nước, ta và các người phải cùng theo”. Câu nói
đó thể hiện một nét vĩ đại trong tư tưởng Lê Thánh Tông về luật pháp.
Cùng với việc cải cách lại cơ chế nhà nước, xây dựng luật pháp, đưa đất
nước vào kỉ cương, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến các biện pháp phát triển
kinh tế như sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích cày cấy, trồng trọt,
khai khẩn đất hoang…Nhờ vậy, kinh tế thời Lê Thánh Tông trở nên cực thịnh, sử
sách hết Lêi ca ngợi. Với cái nhìn không khỏi phiến diện, các sử gia trước đây chỉ
tập trung vào công lao của Lê Thánh Tông trong việc mở mang biên giới phía Nam
đất nước, chứ chưa chú ý đến phương diện Lê Thánh Tông nhà tổ chức, nhà
chiến lược quân sự đại tài. Nhà vua cải tổ hẳn lại nền binh bị: Trước kia quân chia
làm năm đạo vệ quân, nay đổi làm năm phủ đô đốc, mỗi phủ có vệ, sở. Ngoài ra
cũn cú 2 đạo nội ngoại chủ quân, gồm nhiều ty, vệ. Tổng số quân đội thời Lê
Thánh Tông khoảng 16 vạn quân. Quân đội được tổ chức rất chặt chẽ, cơ động,
đồng thời được rèn luyện, học tập binh pháp, phộp đỏnh thuỷ, đánh bộ. Các cuộc
thi võ được tiến hành 3 năm một lần, thưởng phạt thích đáng, do đó có tác dụng
kích thích tinh thần thượng võ của toàn quân dõn. Chớnh vỡ đất nước thịnh
cường như vậy mà bọn phong kiến Minh một thời gian dài không hề dám có ý lOMoARcPSD|50202050
đồ nhòm ngó nước ta. Quan hệ ngoại giao, Lê Thánh Tông cũng thực thi một
đường lối ngoại giao mềm dẻo song cũng cương quyết. Do đó, nếu kể từ khi Việt
Nam – Trung Quốc chính thức nối lại quan hệ bang giao năm 1428 đến trước đời
Tây Sơn thì thời Lê Thánh Tông là giai đoạn ngoại giao nước ta thu nhiều thắng
lợi đẹp đẽ nhất. Những lần cầm phong nộp cống của nhà Lê với Trung Quốc nói
chung chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Vấn đề có nội dung thực sự phải giải quyết
trong quan hệ bang giao giữa triều Lê Thánh Tông và nhà Minh là một số rắc rối
xảy ra ở vùng biên giới phía Bắc và việc đối với Chiêm Thành. Nhưng cả hai lần,
Lê Thánh Tông đều giành phần thắng. Ông cũng rất có ý thức giữ gìn đất đai, bờ
cõi đất nước. Năm 1474, giữa ta và Trung Quốc có chuyện giằng co đất đai, Lê
Thánh Tông sắc cho cỏc viờn quan có trách nhiệm hội khám là bọn Kiến Dương,
Lê Cảnh Huy rằng: “…Một thước núi, một tấc sông của Thái Tổ, không được vứt
bỏ, người nên cố cãi, chớ cho họ lấn dần… Nếu người dám lấy một thước, một
tấc đất của ta mà đút mồi cho giặc thì tội chu di”. [2,458] Nếu như về chính trị,
quân sự, ngoại giao, Lê Thánh Tông đó để lại sự nghiệp rạng rỡ thì về văn học
ông cũng là người có công tạo lập cho thời đại một nền văn hoá với một diện
mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn học dân tộc.
Bên cạnh việc xây dựng thiết chế mới, luật pháp lễ nghi mới, Lê Thánh Tông đẩy
mạnh phát triển giáo dục, thi cử. Ở nước ta có lẽ chưa bao giờ nền giáo dục khoa
cử lại thịnh đạt cũng như có vai trò trí thức nho sĩ được đề cao như thời Lê Thánh
Tông. Ngoài Hàn Lâm Viện, Quốc sử viện, nhà Thái Học, Quốc Tử Giám là những
cơ quan văn hoá lớn của nhà nước, Lê Thánh Tông cũn cho xây dựng, sáng lập ra
hội Tao Đàn nổi tiếng. Tuy nhiên, nhắc đến Lê Thánh Tông, sự nghiệp lớn nhất và
được nhiều người đánh giá cao nhất của Lê Thánh Tông là cuộc cải cách hành
chính. Có thể khẳng định rằng, đây là cuộc cải cách hành chính toàn diện nhất
trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Vua đã hiểu và quan tâm tiến hành một cuộc
cải cách từ trên xuống dưới với tư tưởng chủ đạo là pháp quyền hoá bộ máy
hành chính và tư tưởng mọi quyền lực tập trung vào tay vua. Việc tìm hiểu bộ lOMoARcPSD|50202050
máy hành chính này chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau. Tóm lại, qua những nét
tóm lược trên, ta đó cú một cái nhìn tương đối toàn diện về Lê Thánh Tông. Một
con người như vậy, cũng là một minh chứng cho sự thành công của công cuộc
cải cách hành chính mà ông tiến hành. Vũ Quỳnh đã nhận xét thật xác đáng: “Vua
tự trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài thao lược, võ giỏi văn hay mà
thích học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, các sách
lịch toán cái gì cũng tinh thông. Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học… lại
sung chuộng nho thuật, dóng dả anh tài; khoa thi lấy học trò không phải chỉ một
khoá, lệ định ba năm một lần thi là bắt đầu từ vua…cho nên có thể sửa dựng
chính trị, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương, rõ ràng có thể cho hậu thế noi theo”. [2,479] lOMoARcPSD|50202050
Chương II CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở TRUNG ƯƠNG
Trong một nước, tổ chức nhà nước nói chung và chính quyền trung ương
nói riêng có một vai trò rất quan trọng trong việc điều hành toàn bộ các hoạt
động chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, xã hội và bảo vệ độc lập dân tộc, thúc
đẩy xã hội tiến lên. Một nước muốn mạnh trước hết phải có bộ máy lãnh đạo có
năng lực, tài cán, có khả năng giúp việc cho đất nước một cách có hiệu quả. Nhìn
nhận thấy tầm quan trọng của cải cách hành chính ở trung ương, ngay khi bắt
tay vào công cuộc cải cách, Lê Thánh Tông đó tiến hành trước hết từ trung ương
trở xuống. Nhiệm vụ công cuộc cải cách này được Lê Thánh Tông nêu rõ: “Đất
đai, bờ cõi ngày nay so với ngày trước khác nhau nhiều, ta phải tự mình giữ quyền
chế tác, hết đạo biến thụng” [2,429]. Tất nhiên, với tinh thần trọng đạo, sùng
Nho nên ngay từ Thái Tổ, Thái Tôngđã không thể không mô phỏng mẫu hình nhà
nước Trung Hoa, nhưng với tinh thần dân tộc cao, nhà nước pháp quyền mà Lê
Thánh Tông xây dựng cũng có nhiều sáng tạo, thể hiện nột riờng của người Việt.
2.1. Cải tổ cấu trúc bộ máy hành chính trung ương theo hướng tập trung
quyền hành vào tay vua, nâng cao hơn nữa mức độ chuyên chế:
Theo quan niệm chung của Đông phương, nhiệm vụ của vua là thừa mệnh
trời để trị dân, vì thế vua chỉ phải chịu trách nhiệm đối với trời. Và để thi hành
nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng đó, vua có quyền lực rộng rãi “đứng trờn muụn
người”. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam nói riêng và phong kiến thế giới nói
chung, các ông vua luôn luôn tìm cách xây dựng một chế độ chuyên chế mà
quyền hạn của nhà vua đạt uy quyền tuyệt đối. Tuy nhiên, điều đó không phải
ông vua nào cũng có thể làm được. Từ triều Lê Thánh Tông trở về trước, trong
cách tổ chức chính quyền, người đứng đầu quốc gia là vua, nhưng vua thường
giao quyền trực tiếp điều khiển các quan lại cho một vị tể tướng (hay tướng
quốc). Chính vì thế, quyền lực nhà vua bị hạn chế nhiều và đôi khi phụ thuộc vào
tể tướng. Cho đến Lê Thánh Tông, vua chủ trương xây dựng nhà nước tập trung
mọi quyền hạn vào tay vua. Ở cuối tờ dụ “hiệu định quan chế” ban hành ngày 26 lOMoARcPSD|50202050
tháng 9 năm Hồng Đức thứ hai (1471), vua Lê Thánh Tông đó nhấn mạnh quyền
hạn này: “Kẻ nào là bề tôi cũng kính giữ phép thường, mãi mãi giúp đỡ vua các
ngươi để kế tục công liệt của người xưa, để vĩnh viễn không còn lầm lỗi. Kẻ nào
dám dẫn bừa quy chế cũ mà bàn càn một quan nào, thay đổi một chức nào, chính
là kẻ bề tôi gian nghịch, làm loạn phép nước, phải xử tử, vứt xác ra chợ không
thương xót. Còn gia thuộc nó phải đầy đi nơi xa để tỏ rõ tội lỗi kẻ làm tôi bất
trung, ngõ hầu muôn đời sau này hiểu được ý nghĩa sâu xa của việc xác lập điển
chương chế độ”. Cuộc cải cách hành chính được bắt đầu từ năm 1465, hoàn
chỉnh vào năm 1471, với việc ban hành “sửa định Hoàng triều quan chế”. Tư
tưởng chủ đạo cho việc “sửa định Hoàng triều quan chế” được Lê Thánh Tông
nêu rõ: “Quy chế trước kia đặt quan phần nhiều lấy quan to, tước cao. Chế độ
ngày nay đặt quan đều lượng ít, trật thấp. Số quan đặt ra so với trước tăng rất
nhiều, nhưng tiền lương chi tiêu so với xưa cũng vẫn thế. Đã không có người nào
ăn hại mà trách nhiệm lại có nơi quy kết, khiến cho quan to, quan nhỏ đều ràng
buộc với nhau. Chức trọng, chức khinh cùng kiềm chế lẫn nhau. Uy quyền không
bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Hình thành thói quen giữ đạo lý, theo pháp
luật mà dứt bỏ tội khinh nhân nghĩa phạm ngục hình” [2,458]. Như vậy, xuất phát
từ mục tiêu muốn khắc phục yếu kém của bộ máy hành chính và tập trung quyền
hạn lớn nhất vào tay vua, Lê Thánh Tông đó tiến hành hàng loạt các biện pháp
trong cải cách hành chính: Trước hết, Lê Thánh Tông cho bãi bỏ hàng loạt các
chức quan: Vua bãi bỏ chức tể tướng là tam tư ( Tư đồ, Tư mã, Tư không). Việc
vua bãi chức này cũng nhằm tập trung quyền lực hơn nữa vào tay vua. Xét trong
bộ máy hành chính, tể tướng có phẩm trật cao nhất trong bộ máy hành chính,
chỉ đứng sau vua. Tể tướng trực tiếp điều khiển các quan lại trong triều, vì thế
mà thực quyền của chức quan này rất lớn. Thực tế ngay trong triều Lê cũng có
tấm gương tể tướng lộng quyền lấn vua như Đại tư đồ Lê Sỏt. Vì vậy, việc Lê
Thánh Tông nhìn thấy mối nguy cơ đe doạ đến quyền hành vua cũng là đúng và
hợp lí. Bên cạnh đó, vua cũng bãi bỏ các chức: Tả, Hữu Tướng Quốc, Bộc xạ, Đại lOMoARcPSD|50202050
hành khiển. Vua trực tiếp nắm toàn bộ quyền kể cả quyền tổng chỉ huy quân đội,
chỉ đạo mọi công việc trọng yếu và quan hệ làm việc trực tiếp với các cơ quan
thừa hành. Đồng thời, vua đặt ra các chức không có nhiệm vụ nhất định, chỉ giúp
vua những lúc cần thiết ở trung ương hay về địa phương: Chức Thái sư, Thái uý,
Thái phó, Thái bảo, Thiếu sư, Thiếu uý, Thiếu phó, Thiếu bảo. Bên cạnh xoá bỏ
một số chức quan, vua cũng bãi bỏ các cơ quan như: Nội mật viện, Chính sự viện,
Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Tụng nhõn phủ. Vua trực tiếp làm việc với sáu
bộ ( bộ Lại, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Công) và sáu tự (Đại Lý tự, Thái Thường
tự, Hồng Lô tự, Thượng Bảo tự, Quang Lộc tự) và sáu khoa (Lại khoa, Hộ khoa,
Lễ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Công khoa). Viện Ngũ Hình được đổi thành bộ
Hình. Một số thư, cục cấp dưới không còn nữa. Bộ máy nhà nước trung ương trở
nên đơn giản hơn, các bộ vẫn là những cơ quan làm việc chính. Sáu bộ Lại, Hộ,
Lễ, Binh, Hỡnh, Cụng được đặt ra từ thời Lý, song chỉ là các cơ quan phụ trợ. Ở
thế kỉ XIV, mới xuất hiện một số thượng thư (người đứng đầu các bộ). Song, vị
trí của bộ trong triều vẫn như cũ. Đầu thời Lê sơ, nhà nước chỉ có hai bộ Lại và
Lễ. Năm 1460, sau khi cướp ngôi, Lê Nghi Dân đặt sáu bộ, nhưng mãi đến 1465,
Lê Thánh Tông mới chính thức biến sáu bộ thành những cơ quan có quyền lực
thực sự, trông coi hầu hết các công việc triều chính của triều đình. Các bộ đều
có một thượng thư đứng đầu: Hai tả, hữu thị lang làm phó, một tư vụ cựng cỏc
chức lang trung, viên ngoại lang. Mỗi bộ có một số ty nhất định chuyên làm một
số công việc đặc biệt như: Bộ Lại có ty Thuyên khảo thanh lại do Lang trung phụ
trách, một viên ngoại lang và 80 viên thuộc lại. Bộ Hộ có 2 ty Thanh lại (Bản tịch
và Độ chi), mỗi ty có một lang trung và hai viên ngoại lang, với 110 thuộc lại.
Nhiệm vụ của các bộ được phân công phân nhiệm rất rõ ràng: - Bộ Lại: Có nhiệm
vụ cân nhắc nhân tài, tuyển bổ, khảo hạch, thăng giáng, lựa chọn các quan lại
(tuyển cử, bảo cử với thời gian 6 năm). Trong bộ Lại có cơ quan chuyên trách:
Thuyên khảo thanh lại ty có nhiệm vụ thuyên chuyển, chọn bổ, khảo sát quan lại
và một cơ quan thường trực điều hành công việc thường nhật trong bộ. - Bộ Hộ: lOMoARcPSD|50202050
Có nhiệm vụ coi sóc vấn đề ruộng đất, phụ trách việc tài chính và hộ khẩu, tô
thuế, trông nom kho tàng, thóc tiền và lương y quan quân, thu phát và các việc
về ruộng lộc, thuế má, muối , sắt. Trong bộ Hộ lại có cơ quan chuyên trách là Đô
thanh lại ty với nhiệm vụ phân bổ tô thuế trong toàn quốc. Để ý đến sản vật và
sự phồn thịnh hay nghèo kém từng miền mà đánh thuế, lựa chọn đường thuỷ
hay đường bộ thuận lợi hơn để đánh thuế cho công bằng. Hàng năm xét lượng
các khoản xuất, nhập về tiền tài, thuế má. Kiểm nhận các thứ tiền xem tốt, xấu,
hư, nát, sứt mẻ rồi cho vào kho.
- Bộ Lễ: Giữ công việc lễ nghi, tế tự, lễ mừng, yến tiệc, việchọc, việc thi cử,
các chi tiết mũ ấn, chương tấu, bài biểu, việc đi cống, đi sứ vào chầu, lại kiêm
trông coi các việc về tư thiên, về y, đạo, giáo, phường đồng văn, mục.
- Bộ Binh: Giữ công việc nhung binh, cấm vệ, xe, ngựa, phitrường, khí giới
và các việc về dõn biên giới, quõn trấn giữ, các dịch trạm, các dõn man di hiểm
mạt, những việc khẩn cấp.
- Bộ Hình: Có nhiệm vụ giữ công việc luật lệnh, hình pháp,xét lại ngục tụng, xử tội về năm hình.
- Bộ Công: Giữ công việc thành, trì, cầu, cống, đường xá,xây đắp, thợ
thuyền, việc sửa chữa, xây dựng. Ngoài các bộ chủ chốt kể trên cũn có các viện,
các, giám, đài, ty coi các nhiệm vụ chuyên môn như: Hàn Lõm Viện: Phụ trách
việc soạn thảo, chuyên đọc các sắc chỉ, chúc thư của nhà vua. Đông Các: Tập
trung những người giỏi lo việc duyệt, sửa văn kiện. Trung Thư Giám: Chuyên lưu
giữ và thu mua sổ sách, giấy tờ. Tư Thiên Giám: Chuyên làm lịch, theo dừi thời
tiết. Ngự Sử Đài: Chuyên lo việc đàn hặc, xét xử. Quốc Sử Viện: Chuyên lo ghi
chép, biên soạn lịch sử. Hà Đê Ty: Chuyên lo việc đê điều, trị thuỷ, thuỷ lợi.
Khuyến Nông Ty: Lo thúc đẩy nghề nông. Thông Chớnh Sứ Ty: Để tuyên đức hoá
của vua, đề đạt nguyện vọng của dõn. Về quõn sự, Lê Thánh Tông đặt 5 phủ quõn
(Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc), có đô đốc đứng đầu. Dưới là các vệ quõn bao gồm
thõn binh và quõn thường trực. Vua giữ quyền tiết chế những lúc có chiến tranh. lOMoARcPSD|50202050
2.2. Chấn chỉnh quy tắc làm việc trong các cơ quan:
Để khẳng định tớnh tập trung, xây dựng một bộ máy nhà nước một cách
chặt chẽ, Lê Thánh Tông đã quy định rừ quy tắc làm việc của các cơ quan: “Vua
chính sự bộn thì đặt sáu bộ cùng làm, ba ty cấm binh thủ ngự là để nanh vuốt
ruột gan, sáu khoa để xét hạch trăm quan, sáu tự để thừa hành việc vặt. Thông
Chính sự để tuyờn cỏc quan và xét ẩn tình của dõn chỳng… Cỏc chức thường phải
liên hệ lẫn nhau, chức lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cũng giữ gìn nhau,
lẽ phải của nước không bị chuyện riêng, việc lớn của nước không đến lung lay,
khiến cú thúi tốt làm hợp đạo đúng phép, không có lầm lỗi làm trái nghĩa phạm
hình, để theo trọn cỏi chớ của thánh tổ tông ta, mà giữ được trị an lâu dài”
[2,473]. Trong quy tắc làm việc, Lê Thánh Tông phân định rõ ràng: Vua là người
nắm mọi quyền hành, cả dân sự lẫn quân sự. Nhúm cỏc đại thần (bốn chức Thái
và bốn chức Thiếu) không hình thành một cơ quan tư vấn mà chỉ là những người
đáng cẩn, làm việc riêng lẻ, góp ý kiến cho vua hoặc được vua cử thay mặt mình
chỉ đạo một công việc nhất định. Sáu bộ là những cơ quan làm việc trực tiếp với
vua và điều hành mọi việc chủ yếu của nhà nước chờ tuyển chọn và sắp đặt quan
lại đến thu thuế, tính toán thu chi, xây dựng đường xá, công sở, sắm sửa vũ khớ…
Tuy nhiên, mỗi bộ chủ yếu chịu trách nhiệm một mặt hoạt động của nhà nước.
Năm 1478, dụ rằng: “Đường quan Hình bộ theo công bằng mà xét kỹ quan các
ty… tõu Lên rừ rang, đưa sang bộ Lại xét thực”.
Vào thế kỉ XVIII, nhà sử học Lê Quý Đôn cho rằng, bấy giờ “viờn Đụng Cỏc đại học
sĩ được cử làm người đứng đầu sáu bộ”. Tuy vậy, điều này không đúng, theo sử
cũ, Thân Nhân Trung chẳng hạn là Hàn lâm viện thị độc, mãi sau mới thăng lên
làm Hàn lâm viện thừa chỉ. Không có một người hay một cơ quan nào đứng bên
trên sáu bộ, ngoại trừ vua. Song, các bộ không được làm tuỳ tiện mà luôn luôn
chịu sự kiểm tra, theo dừi, đàn hặc của sỏu khoa (khoa nào chịu trách nhiệm bộ
đó). Cụ thể “Binh bộ nắm chung việc gọi lính, lấy quân, Binh khoa phải giúp đỡ.
Lại bộ nếu thăng, bổ lầm thì Lại khoa được phép bác bỏ. Lễ bộ nghi chế không lOMoARcPSD|50202050
hợp lệ thì Lễ khoa có quyền hặc tõu. Hỡnh khoa được xem xét công việc xử án ở
Hình bộ phải trái thế nào. Công khoa kiểm điểm quá trình làm việc của Công bộ,
siêng năng hay lười biếng” [1,156]. Sự theo dừi, đàn hặc rất chặt chẽ, mặc dù
theo tước phẩm thì viên Đô cấp sự trung (đứng đầu khoa) ở vị trí thấp hơn rất
nhiều so với viên Thượng Thư (đứng đầu bộ) vì người thứ nhất hàm chánh thất
phẩm, người thứ hai hàm tòng nhị phẩm. Trước kia, ngoài Ngự sử đài, tất cả các
quan lại đều được quyền dõng sớ góp ý hay phê phán một viên quan, một cơ
quan nào đó. Lê Thánh Tông bói bỏ lệ đó mà giao hẳn cho sỏu khoa chịu trách
nhiệm việc này. Trong các buổi chầu, Lê Thánh Tông đòi hỏi sự có mặt của các
các văn vừ đại thần, các viên phụ trách các bộ, khoa. Thượng bảo trợ, Thông
chớnh sứ ty, Đông Các, Ngự sử, sử quan, nghĩa là cố gắng tận dụng sự góp ý của
tất cả những người có chức trách. Do tình hình quan lại như trên đã nói, Lê Thánh
Tông rất xem trọng những Lêi tõu bày của các “ngôn quan”. Vì vậy, trong các buổi
chầu bàn việc với vua, Ngự sử đài và quan lại sỏu khoa bao giờ cũng được phát
biểu trước. Theo tờ chiếu năm 1487, “khi bàn việc ở triều đường, có trung quan
vâng thánh chỉ truyền hỏi, thì trước là sáu khoa và Ngự Sử Đài làm một thứ, rồi
đến sáu bộ, sáu tự làm một lượt, rồi đến công, hầu, bá, đô đốc phủ làm một
lượt… Tuỳ từng hạng mà bàn luận, cốt phải rõ ràng, không được mập mờ, hùa
theo” [2,466] Qua trình bày cải cách hành chính ở trung ương thời Lê Thánh
Tông, ta có thể thấy, cùng với quá trình hình thành, phát triển của chế độ phong
kiến, bộ máy nhà nước phong kiến trung ương ở Việt Nam ngày càng được tổ
chức một cách chặt chẽ, có quy mô và hệ thống. Với hệ thống hành chớnh xây
dựng nên, Lê Thánh Tông đã thành công trong việc xây dựng lên một hệ thống
chớnh quyền phong kiến tập trung cao độ, thể hiện sức mạnh chi phối của triều
đình trung ương xuống địa phương và quyền chuyên chế tuyệt đối của nhà vua.
Quá trình xây dựng nhà nước cũng đi liền với quá trình tuyển lựa quan lại bằng
nhiều con đường như: Tuyển cử, tập ấm, bảo cử, đặc biệt là nhờ chế độ khoa cử,
Lê Thánh Tông đã tuyển chọn được đội ngũ quan lại có năng lực làm việc trong lOMoARcPSD|50202050
bộ máy nhà nước. Về hình thức, bộ máy nhà nước trung ương ở Việt Nam thời
Lê Thánh Tông có ảnh hưởng và mô phỏng tổ chức bộ máy nhà nước trung ương
ở Trung Quốc, tuy nhiên nó vẫn mang đậm sắc thái của dõn tộc Việt Nam. Hơn
một ngàn năm phong kiến phương Bắc đô hộ, dõn tộc Việt Nam vừa phải đấu
tranh giành độc lập dõn tộc, vừa phải đấu tranh chống đồng hoá để giữ gìn bản
sắc văn hoá dõn tộc và để rồi vươn lên bởi sức sống của chớnh mình. Tuy có
phỏng theo hình thức tổ chức bộ máy nhà nước trung ương của phong kiến
Trung Hoa song ở thời Lê Thánh Tông, quyền hạn chức quan và các chức quan có
thay đổi, bổ sung chứ không rập khuôn máy móc, đó chớnh là nét đặc biệt trong
tổ chức bộ máy nhà nước trung ương thời Lê Thánh Tông. Bộ máy nhà nước
trung ương thời Lê Thánh Tông là một bộ máy nhà nước quõn chủ chuyên chế
trung ương tập quyền đến mức cao. Chế độ chớnh trị tập trung vào chớnh phủ
trung ương mà đứng đầu nhà nước là vua. Vua có quyền tối cao, thực tế 38 năm
trị vì của vua Lê Thánh Tông đã chứng tỏ ông là người tài năng và quyết tiến hành
cải tổ và xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh. Sự anh minh của vua Lê
Thánh Tông đã đưa Đại Việt lên đỉnh cao nền phong kiến Việt Nam. Quyền hạn
của mỗi cơ quan và từng chức quan trong bộ máy nhà nước được quy định một
cách rừ ràng cụ thể và chặt chẽ. Vì vậy hàng ngũ quan lại cũng như các cơ quan
đều thấy rừ trách nhiệm của mình trước vua nhưng đồng thời lại có sự ràng buộc
kiểm soát lẫn nhau và không dẫm đạp lên nhau.
Chương III CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở ĐỊA PHƯƠNG
Trong bộ máy nhà nước của một quốc gia, hệ thống chớnh quyền địa
phương giữ một vai trò quan trọng đặc biệt. Một mặt, nó là bộ phận trực tiếp
quan hệ với nhõn dõn, đối tượng thống trị của nhà nước nói chung, mặt khác nó
phản ánh mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, khẳng định tớnh thống
nhất đất nước và tớnh tập trung quyền lực của nhà nước. Chớnh vì thế mà bất
kỳ thời đại nào lên nắm quyền cũng rất lo lắng đến sự nghiệp thống nhất, cố
gắng xây dựng cho được một hệ thống hành chớnh địa phương. Thời Đinh - Tiền lOMoARcPSD|50202050
Lê, sau khi thống nhất đất nước, đặt quốc hiệu Đại Việt, triều đại này đã chia
nước thành 10 đạo, đưa hoàng tử đi trấn trị, nhưng chưa tạo ra được một tổ
chức chớnh quyền thực sự. Đến thế kỉ XI, nhà Lý lên nắm chớnh quyền chia cả
nước thành 24 lộ, chõu Hoan, chõu Ái làm trại, đặt chức An phủ sứ hoặc Trấn thủ
để cai trị. Thời Trần, năm 1242 chia nước làm 12 lộ. Bên cạnh lộ có phủ, chõu,
dưới có huyện. Từ năm 1242, nhà nước chớnh thức với tay đến xã. Đến thời Lê
sơ, đời vua Lê Thái Tổ, cả nước được chia làm 5 đạo, do các Hành khiển đứng
đầu. Bên dưới là lộ, phủ, huyện, chõu như thời Trần. Các lộ về mặt quy mô không
đồng đều, mối quan hệ giữa các cấp chưa thực sự chặt chẽ, chớnh quyền trung
ương chưa với tay đặt quan hệ chặt chẽ giữa trung ương và làng xã. Vì thế, đến
thời vua Lê Thánh Tông đã quyết định thực hiện cuộc cải cách hành chớnh địa
phương với mục đích thiết lập một chớnh quyền trung ương chặt chẽ và 20 gắn
bó mật thiết với bộ máy trung ương, từ đó tăng thêm tớnh chuyên chế cho bộ máy nhà nước.
3.1. Cải tổ đơn vị hành chính thống nhất trong cả nước:
Lê Thánh Tông đã thực hiện cải cách hệ thống hành chớnh từ cấp trung gian
đến cấp cơ sở với những đường lối cơ bản, quan trọng. Lê Thánh Tông xoá bỏ sự
phõn chia theo đạo, trấn, lộ, phủ và chia lại đất nước thành 13 đạo thừa tuyên
là: Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc
Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung
Đô. Lê Thánh Tông bói bỏ đơn vị trấn, lộ, đổi lộ làm phủ, trấn làm chõu. Ban đầu,
Lê Thánh Tông đặt hai ty: Đô ty và tuyên chớnh sứ ty (theo đúng tên gọi của nhà
Minh) và giao cho viện Đô tổng binh sứ (đứng đầu đô ty, phụ trách quõn sự)
trông coi tất cả. Về sau, Lê Thánh Tông đổi tuyên chớnh sứ ty thành Thừa tuyên
xứ ty, có thừa tuyên sứ đứng đầu, trông coi công việc hành chớnh, dõn sự, thuế
khoá. Đồng thời ông đặt thêm Hiến Sát xứ ty lĩnh nhiệm vụ kiểm tra quan lại địa
phương và thăm hỏi tình hình đời sống nhõn dõn. Việc phõn chia quyền hành ở
địa phương thành ba ty phỏng theo chế độ nhà Minh, song khác tên gọi và nhiệm lOMoARcPSD|50202050
vụ. Hệ thống quan lại ở phủ, huyện, chõu cũng được thống nhất. Phủ có tri phủ
chịu trách nhiệm kiểm tra hoạt động của các huyện, huyện có tri huyện phụ trách
chung các việc hộ hôn, điền thổ, kiện tụng trong huyện, chõu có tri chõu (miền
núi). Vấn đề quản lý xã, đơn vị hành chớnh cơ sở cũng được quan tõm. Ngoài
việc quy định số hộ xếp loại, nhà nước cũn quy định số xã trưởng được phép
bầu. Lê Thánh Tông quy định số xã trưởng theo từng loại xã. Đại xã thì 5 xã
trưởng, trung xã: 4 và tiểu xã: 2. Tiêu chuẩn phủ, huyện, chõu xét duyệt xã
trưởng, sau khi xã dõn đã bầu cử là trong cùng một nhiệm kỳ, các xã trưởng này
không được có quan hệ thõn thiết gần gũi là anh em ruột, chú bác với nhau. Đến
năm Hồng Đức thứ 20, triều đình đã xác định được bản đồ toàn quốc: “13 xứ
thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322
thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường” [1,124]. Riêng về cấp
xã, năm 1489 đã quy định rừ quy mô lớn nhỏ để quản lý: “Định lệnh tỏch xó, xó
nào đủ 500 hộ rồi mà số hộ dư ra lại được 100 trở lên có thể tách thành 1 xã nhỏ
nữa thì phải báo, rồi xếp lại tõu Lên, để xếp thành xó” [2,437]. Để xây dựng được
bản đồ Hồng Đức, tức bản đồ toàn quốc gồm cả 13 xứ thừa tuyên vào năm 1489,
thì năm 1467, Lê Thánh Tông đã “ra lệnh cho 12 xứ thừa tuyên điều tra hình thế
núi sông, sự tích xưa nay của các nơi trong hạt mình, vẽ thành bản đồ, ghi chú rõ
ràng rồi gửi về Hộ Bộ làm bản đồ địa lớ” [2.489]. Theo quy định của bản đồ thì
sự phõn cấp từng tỉnh được đặt như sau: - Thanh Hoá: 4 phủ, 16 huyện, 4 chõu.
- Nghệ An: 9 phủ, 27 huyện, 2 chõu. - Thuận Hoá: 2 phủ, 7 huyện, 4 chõu. - Hải
Dương: 4 phủ, 18 huyện. Sơn Nam: 11 phủ, 42 huyện. - Sơn Tõy: 6 phủ, 24 huyện.
- Kinh Bắc: 4 phủ, 16 huyện. - An Bang: 1 phủ, 3 huyện, 3 châu. Tuyên Quang: 1
phủ, 2 huyện, 5 châu. - Hưng Hoá: 3 phủ, 4 huyện, 17 châu. - Lạng Sơn: 1 huyện,
7 chõu. - Ninh Sóc: 1 phủ, 7 huyện. - Phủ Phụng Thiên (trung đô): 2 huyện. [2,479]
22 Như vậy, cho đến thời Lê Thánh Tông, hệ thống hành chớnh địa phương đã
khá chặt chẽ, thiết lập từ trung ương đến địa phương xuống đến tận làng xã.
3.2. Phân công, phân nhiệm cụ thể cho các chức quan: lOMoARcPSD|50202050
Cùng việc cải tổ hệ thống đơn vị hành chớnh thống nhất trong cả nước là
việc tổ chức lại bộ máy tổ chức chớnh quyền các cấp. Ở đạo thừa tuyên đều có
3 ty ngang quyền nhau, cùng quản lý công việc chung. Đô tổng binh sứ ty (tức đô
ty) phụ trách quõn sự. Hiến sát sứ ty (hiến ty) phụ trách công việc thanh tra, giám
sát các quan lại địa phương mình, thăm nom tình hình đời sống nhõn dõn. Cụ
thể: Đô tổng binh sứ: Phụ trách quõn đội và phòng vệ địa phương. Thừa tuyên
sứ ty trông coi mọi công việc địa phương. Viên quan đứng đầu thừa tuyên sứ có
hàm tong tam phẩm. Song, cũng như ở trung ương, Thừa ty và các quan lại phủ,
huyện chịu sự kiểm sát của Hiến sát sứ ty. Theo quy định của nhà vua, Hiến ty có
nhiệm vụ tõu bày, đàn hặc, khám đoán, xét hỏi, hội đồng kiểm soát, khảo khoá
và tuần hành. Chức Hiến sát sứ chỉ được hàm chánh lục phẩm, nhưng trách
nhiệm rất nặng nề. Hàng năm, Hiến sát sứ phải đi kinh lý xứ mình để thăm hỏi
cuộc sống nhõn dõn, nghĩa là “giữ việc đàn hặc các nha môn, Đô ty thừa ty, phủ
huyện chõu ở bản xứ và cùng Thừa ty khảo xét công các quan viên trong hạt”,
“lại xem các huyện trong bản hạt hoặc có tai ương, lụt hạn và tình cảnh xã nào
bị phiờu tỏn, sầu khổ, cùng là các nha môn trong hạt có kẻ nào tham ô, trỏi
phộp… hàng năm phải đi tuần trong hạt, dò hỏi cho được sự thật” [1,124] Như
vậy, 3 ty có nhiệm vụ và quyền hạn riêng, các chức Đô tổng binh sứ hay Thừa
tuyên sứ chỉ có quyền hạn đối với ty của mình và trực tiếp chịu trách nhiệm trước
vua và các bộ trung ương, không có một chức quan đứng đầu đạo thừa tuyên
chỉ đạo mọi công việc. Song, ngoài Hiến ty, Lê Thánh Tông cũn đặt 13 cai đạo
giám sát ngự sử chuyên theo dõi, kiểm tra hoạt động quan lại địa phương. Năm
1489, Lê Thánh Tông quy định: “Nếu là 3 ty bên ngoài cai trị nhân dân, hoặc có
phát hiện về quan lại gian ham, hoặc có tố cáo về kiện tụng oan ức, hết thảy việc
tư ở các phủ, huyện, chõu thỡ do phân ty cai đạo xét xử thi hành” [2,490]. Vẫn
chưa đủ, theo quy định năm 1471, nếu ở địa phương “có tai biến mà Thừa ty,
Hiến ty phủ huyện không đến xem xét ngay, để chậm quá hạn thì Ngự Sử Đài sai
vệ sỹ cấm y đi xét hỏi, biết còn có việc tiện lợi nên làm và mối tệ hại nên bỏ mà