



















Preview text:
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
(TÀI LIỆU HỌC TẬP)
Đà Nẵng, năm 2019 1
CHƢƠNG 1. VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
1.1. Dẫn luận Văn hoá hqc
1.1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Văn hóa
Sự phát triển của loài người gắn liền với văn hóa ngay từ những bước đi sơ khởi, tuy
không phải ngay lúc ấy đã có một khái niệm văn hóa độc lập song có thể nói rằng văn hóa
xuất hiện khá sớm từ thời cổ đại, trong ngôn ngữ của các dân tộc văn minh như Trung Hoa,
Ấn Độ, Ai Cập, Hi Lạp.
Ở phương Đông, từ văn hóa mà chúng ta dùng có cội nguồn từ tiếng Hán. Trong
ngôn ngữ Hán, hai chữ văn và hóa xuất hiện khá sớm, như hai từ đơn có nghĩa riêng biệt.
Theo những tài liệu cổ xưa của Trung Quốc thì văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa có nghĩa là
“biến đổi”, biến hóa. Văn hóa gộp lại theo nghĩa gốc là “làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ”.
Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỷ III TCN. Xét về nguồn gốc,
văn hóa là khái niệm gắn với sản xuất nông nghiệp. Văn hóa trong tiếng Latinh bắt nguồn từ
chữ Cultus có nghĩa gốc là trồng trọt, cày cấy, vun trồng. Về sau, thuật ngữ văn hóa mở
rộng thành Cultus animi và được chuyển nghĩa, nói về sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, bồi
dưỡng tâm hồn con người. Từ thuật ngữ gốc Latinh này mà xuất hiện từ Culture trong tiếng
Anh, Pháp, Kultur trong tiếng Đức và Kultura trong tiếng Nga đều có nghĩa là văn hóa.
Theo tiến trình lịch sử, khái niệm văn hóa dần phong phú hơn về nội hàm, trong rất
nhiều thế kỷ nó được dùng để chỉ những khái niệm và hiện tượng hết sức khác nhau. Năm
1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of concept
and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa],
trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở
nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về
tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một
thành viên của xã hội” . Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm
tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì
đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người.
F. Boas định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những
hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính
tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những
nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với 2
nhau”. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng
trong việc hình thành văn hóa của con người.
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm
toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của
Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những
lĩnh vực liên quan đến đời sống con người.
Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong
phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến
con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử…
(văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ
và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản
lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn
mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con
người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài
khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào
năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần,
vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng,
vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn
cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống,
tín ngưỡng…”; còn hiểu theo nghĩa hẹp: “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký
hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”,…
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Chúng tôi dựa trên các
định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho
việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm
của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân
tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của
từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật
khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở
mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.
1.1.1.2. Các khái niệm liên quan với văn hóa * Văn minh
Văn minh là danh từ Hán – Việt, văn là vẻ đẹp, minh là sáng, chỉ tia sáng của đạo
đức biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật.
Trong tiếng Anh, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc Latinh là
civitas với nghĩa gốc là đô thị, thành phố và các nghĩa phái sinh là thị dân, công dân.
Văn minh chủ yếu liên quan tới kĩ thuật làm chủ thế giới, biến đổi thế giới sao cho
đáp ứng được đòi hỏi của con người. Cho nên một thành tựu của văn minh thường lan rộng
khắp thế giới. Nghiên cứu văn minh là nghiên cứu mặt động của trí tuệ, tâm thức con người.
Nếu như văn minh của loài người tiến lên không ngừng thì văn hóa lại không thể. Có những
nước văn minh rất cao nhưng văn hóa lại suy giảm. Thế giới đã trải qua nhiều nền văn
minh: văn minh đồ đá, văn minh du mục, văn minh nông nghiệp, văn minh thương nghiệp,
văn minh công nghiệp và đang bước vào văn minh hậu công nghiệp.
Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau ở các điểm sau:
- Văn hóa là khái niệm bao trùm gồm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần còn văn minh
thiên về giá trị vật chất.
- Văn hóa luôn có bề dày của quá khứ còn văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, chỉ “trình độ phát triển.
- Văn hóa mang tính dân tộc, văn minh mang tính quốc tế.
- Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp còn văn minh gắn bó
nhiều hơn với phương Tây đô thị.
Theo đấy, văn minh là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô
thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.
* Văn hiến dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải
(Văn là văn hóa, hiến là hiền tài).
*Văn vật là truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ tài và
hiện vật trong lịch sử.
Để dễ dàng cho việc phân biệt các thuật ngữ trên, Trần Ngọc Thêm đã thể hiện thông qua bảng so sánh: VĂN HÓA VĂN HIẾN VĂN VẬT VĂN MINH
Chứa cả giá trị vật chất lẫn Thiên về giá trị Thiên về giá trị Thiên về giá trị vật tinh thần tinh thần vật chất chất- kỹ thuật Có bề dày lịch sử
Chỉ trình độ phát triển Có tính dân tộc Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều với Phương Đông nông nghiệp Gắn bó nhiều với phương Tây đô thị
Bảng 1: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật 4
1.1.1.3. Văn hóa học
Để nghiên cứu các biểu thị của văn hóa, người ta sử dụng nhiều môn khoa học khác
nhau như Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học, Xã hội học, Khảo cổ học, Tâm lý học…Tuy
nhiên chỉ có văn hóa học là nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể tự biến đổi và phát triển.
Người đầu tiên đặt nền móng cho cách tiếp cận tổng thể trong nghiên cứu văn hóa và
cũng được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho văn hóa học là Edward B.Tylor – nhà
nhân học nổi tiếng người Anh với cuốn Văn hóa nguyên thủy (1871).
Tuy nhiên, công sáng lập ra văn hóa học thì thuộc về nhà nhân học Hoa Kỳ Leslie
Alvin White (1900-1975). Ông nổi tiếng với những công trình lý luận về sự tiến hóa của văn
hóa và với những nghiên cứu khoa học về văn hóa mà ông gọi là “văn hóa học”. Trong các
tác phẩm “Khoa học về văn hóa” (The Science of Culture - 1949), “Sự tiến hóa của văn
hóa” (The Evolution of Culture - 1959), “Khái niệm văn hóa” (The concept of Culture -
1973) L.A.White đã đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một môn khoa học độc lập,
lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ phạm vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa học…
Cuối thế kỷ XX, khi tiến trình toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ lên đời sống của các
cá thể và cộng đồng trên thế giới, người ta mới thực sự chú ý đến vai trò của các tác nhân
văn hóa đối với các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, và do đó mới quan tâm đầu tư để
thúc đẩy văn hóa học phát triển và lan rộng trên khắp thế giới. Nhờ thế mà các bộ môn
nghiên cứu về văn hóa có điều kiện để phát triển, dẫn đến việc phổ biến khoa học về văn
hóa ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, khái niệm về Văn hóa học cũng được bàn luận nhiều nhưng vẫn chưa đi
đến thống nhất. Có thể tham khảo một vài quan điểm sau :
Trong công trình Đại cương văn hóa Việt Nam, Phạm Thái Việt cho rằng: Văn hóa
học là một bộ môn khoa học tương đối mới, một khoa học tích hợp, vừa nghiên cứu văn hóa
nói chung vừa nghiên cứu các hiện tượng văn hóa riêng biệt. Mục đích của văn hóa học là
phát hiện ra và phân tích tính quy luật của những biến đổi văn hóa – xã hội.
Còn Trần Ngọc Thêm thì cho rằng: “Văn hóa học là một ngành khoa học nhân văn
giáp ranh với khoa học xã hội, có đối tượng nghiên cứu là văn hóa với tư cách một hệ
thống giá trị mang tính biểu tượng, bằng hệ phương pháp lý luận định tính mang tính liên
ngành với độ bao quát rộng các sự kiện và tính khái quát cao trong yêu cầu khảo cứu”.
1.1.2. Đặc trưng và chức năng của văn hóa
Tính hệ thống là đặc trưng hàng đầu của văn hóa. Chính nhờ có tính hệ thống mà
văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được
một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã hội . Chính văn hóa
thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần
thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Đặc trưng thứ hai của văn hóa là tính giá trị ("văn hóa là một hệ thống . . của các
giá trị vật chất và tinh thần. .").Văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn
hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con
người. Đặc trưng tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của văn hóa hoặc
những hiện tượng phi văn hóa.
Nhờ thường xuyên xem xét, phân loại các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức
năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, nó định hướng các giá
trị, điều chỉnh các ứng xử, nó là động lực cho sự phát triển của xã hội, giúp cho xã hội duy
trì được trạng thái cân bằng động của mình.
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính lịch sử ("văn hóa. . do con người. . tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn. .)" . Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng
hình thành trong một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn
hóa một bề dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến
hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống
(truyền = chuyển giao, thống = nối tiếp ) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua
không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối
ổn định (những kinh nghiệm tập thể ) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy
và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hoá dưới
dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận. .
Truyền thống văn hóa được tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng
quan trọng thứ ba của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ
bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành.
Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực
mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành
nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Từ chức năng giáo dục, văn
hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Văn hóa còn có tính nhân sinh (văn hóa. . do con người sáng tạo. . ). Nó là một hiện
tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Nói một cách hình tượng, văn
hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người, là "phần giao" giữa tự
nhiên và con người. Đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên
chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người (như các tài nguyên khoáng sản trong lòng đất).
Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng
để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, tạo truyền
thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành Sơn, hòn Vọng Phu. ).
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở
thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ tư của văn 6
hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng
với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những
người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa.
1.1.3. Cấu trúc của hệ thống văn hóa
Như đã nói, lâu nay, tính hệ thống của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên
cũng chưa có được một mô hình hệ thống văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục. Để tiếp cận
văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính Lí thuyết hệ thống. Trên cơ sở này, hợp
lí hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (4 tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại
có hai vi hệ nhỏ hơn như sau: HỆ THỐNG TIỂU HỆ VI HỆ
a) Nhận thức về vũ trụ
1. Văn hóa nhận thức
b) Nhận thức về con người
a) Tổ chức đời sống tập thể
2. Văn hóa tổ chức cộng đồng b)Tổchứcđờisốngcánhân HỆ THỐNG a) Văn hóa tận dụng môi
3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên VĂN HÓA trường tự nhiên
b) Văn hóa đối phó với môi trường tự nhiên a) Văn hóa tận dụng môi
4. Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội trường xã hội
b) Văn hóa đối phó với môi trường xã hội
Bảng 2: Cấu trúc của Hệ thống văn hóa
1.1.4. Đối tượng của Văn hoá hqc
Mặc dù trong việc định nghĩa thế nào là văn hóa có rất nhiều quan điểm khác nhau,
thậm chí đối lập nhau nhưng trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học văn
hóa thì các nhà nghiên cứu đều đi đến chỗ thống nhất: đối tượng của văn hóa học chính là
văn hóa. Vậy nên, công việc của chúng ta là đã rõ ràng:
- Tìm hiểu văn hóa là gì ?
- Đặc trưng và chức năng ?
- Các quy luật vận động và biến đổi của văn hóa ?. .
1.1.5. Các phương pháp nghiên cứu
1.1.5.1. Phương pháp chung
Hệ thống - chỉnh thể: khi xem xét bất cứ thành tố văn hóa nào cũng phải đặt nó trong
chính hệ thống, chỉnh thể mà nó tồn tại nhằm tìm ra giá trị, vai trò thực chất của nó.
Liên ngành: Văn hóa vốn dĩ là một khái niệm hàm chứa những nội dung rất phong
phú và rộng lớn. Để tiếp cận được, đặc biệt hơn là để có thể hiểu được, con đường tất yếu là
phải tạo ra sự kết hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau.
Lịch sử (cách tiếp cận lịch đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ thời gian, bao gồm
diễn trình văn hóa của một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử
Lôgich (cách tiếp cận đồng đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ không gian, thời
gian cụ thể, mang tính chất khách quan nhất, không áp đặt quan điểm của bản thân.
1.1.5.2. Phương pháp chuyên biệt
Nhân học văn hoá: một trong những đối tượng nghiên cứu của ngành Nhân học là
lịch sử hình thành, phát triển và không ngừng biến đổi của các tộc người. Nghiên cứu văn
hóa dưới góc độ nhân học sẽ chỉ ra được đặc trưng văn hóa tộc người.
Sử học văn hoá: thực hiện phương pháp này, chúng ta nghiên cứu văn hóa trong tiến
trình hình thành, phát triển với những quy luật nội tại của chúng, nghiên cứu văn hóa gắn
với lịch sử tư tưởng, lịch sử xã hội của mỗi dân tộc và nhân loại.
Xã hội học văn hoá: vận dụng những phương pháp nghiên cứu tối ưu của Xã hội học
như quan sát, miêu tả, điều tra hiện tượng văn hóa để có cái nhìn đa chiều, cả chất và lượng.
Kinh tế học văn hoá: Cơ sở kinh tế - xã hội quy định nội dung, bản chất của một nền
văn hóa và của các thành tố văn hóa. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế sẽ không hiểu được nội
dung, bản chất của văn hóa. Cơ sở kinh tế - xã hội góp phần xác định mục tiêu, xu hướng
phát triển của văn hóa; bởi văn hóa mang tính giai cấp. 1.2. Văn hoá Việt Nam
1.2.1. Khái niệm văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam như đang tồn tại là nền văn hóa của một quốc gia đa tộc người.
Hiện nay Việt Nam gồm có tất cả 54 tộc người, trong đó tộc người Việt/ Kinh là tộc người
chủ thể. Chỉnh thể văn hóa Việt Nam được thể hiện bởi một nền văn hóa thống nhất của một
quốc gia dân tộc bao gồm 54 sắc thái văn hóa của 54 tộc người, với đặc điểm là một nền văn
hóa đa tộc người vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Tiếp cận văn hóa Việt Nam
cần phải hiểu và phản ánh được tính thống nhất trong sự đa dạng ấy.
Hiện trạng văn hóa Việt Nam là kết quả của một quá trình phát triển lịch sử lâu dài,
bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn hóa thời Tiền sử và Sơ sử cho đến nay, đã
hình thành những hằng số văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Hằng số và bản sắc
văn hóa luôn được gìn giữ và phát huy, và nó đang là nền tảng cho việc xây dựng một “nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. 8
1.2.2. Định vị văn hoá Việt Nam
1.2.2.1. Địa - văn hoá
Địa – văn hóa vừa là một phương pháp dùng để định vị văn hóa theo vùng địa lý,
đồng thời cũng là phương pháp kiến giải các đặc điểm văn hóa dựa vào điều kiện địa lý và
hoàn cảnh tự nhiên. Phương pháp này cùng với những phương pháp khác đã góp phần lý
giải tính đồng nhất (tương đồng) văn hóa của các cộng đồng người cùng sống trên một vùng
lãnh thổ - nơi có điều kiện tự nhiên khá giống nhau.
Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng xét từ trong
cội nguồn, không gian văn hóa Việt Nam vốn được định hình trên nền của không gian văn
hóa khu vực Đông Nam Á. Có thể hình dung không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á này
như một hình tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
Dù rộng hay hẹp thì đặc trưng địa lý cố hữu của khu vực này vẫn là: nhiệt độ, độ ẩm
cao và có gió mùa. Điều kiện tự nhiên quy định cho khu vực này loại hình văn hóa nông
nghiệp với những đặc điểm sau:
+ Trồng lúa nước, khác với văn hóa khô mạch của Trung Hoa – phía Bắc sông Dương Tử.
+ Sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên.
+ Đề cao vai trò của phụ nữ (một đặc trưng của văn hóa thực vật, nơi chế độ mẫu hệ
dựa trên kinh tế hái lượm, trồng trọt là hình thái thống trị).
+ Sùng bái mùa màng, sinh nở (văn hóa phồn thực).
Do nằm trong vùng địa lý này nên văn hóa Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất nói
trên và chúng cấu thành các yếu tố đặc thù (mang tính khu vực) trong nội dung văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, điều kiện địa lý riêng có của Việt Nam cũng tạo ra những phẩm chất
văn hóa độc đáo (các yếu tố riêng thuộc về bản sắc). Đó là:
+ Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao (ảnh hưởng của môi trường nước).
+ Tính dung chấp cao (do là đầu mối giao thông đường thủy và đường bộ - cửa ngõ
của Đông Nam Á nên người dân thường xuyên giao lưu với khu vực bên ngoài và tiếp thu
nhiều kiến thức từ hoạt động giao lưu đó).
+ Không có các công trình kiến trúc đồ sộ (ngoại trừ hệ thống đê điều và thủy lợi), do
là vùng đất trẻ lấn dần ra biển nên không có kết cấu bền vững và cư dân của khu vực này
thường phải sống chung với nước.
+ Tồn tại nhiều loại hình nghệ thuật gắn với sông nước như chèo, múa rối nước, đua thuyền…
1.2.2.2. Nhân học - văn hoá
Cùng với thời gian lịch sử, dân số trên hành tinh ngày càng tăng, điều kiện tự nhiên ở
một số vùng trên trái đất cũng thay đổi và do cả những cuộc xâm lược lẫn nhau của chính
con người đã dẫn đến những làn sóng di cư nhân khẩu từ vùng địa lý này sang vùng địa lý khác.
Di cư đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của thứ văn hóa vốn trước kia bị chi phối bởi
hoàn cảnh địa lý. Sự phát tán các cộng đồng người đã làm cho một không gian địa lý có thể
hàm chứa vô số các không gian văn hóa khác nhau. Đây là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự
ra đời của phương pháp nhân học – văn hóa nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp địa – văn hóa.
Phương pháp này xác định thực thể văn hóa chủ yếu dựa vào sự phân bố chủng người
và thổ ngữ. Bằng cách gắn các phẩm chất văn hóa với chủ thể - con người (vừa là vật mang,
vừa là chủ thể, vừa là kết quả của văn hóa), phương pháp này đã giảm thiểu việc lệ thuộc
vào hoàn cảnh địa lý khi tiến hành lý giải các hiện tượng văn hóa. Nó chuyển sang xem xét
văn hóa như một quá trình tự thân có khả năng tái sản xuất ra chính nó trong khuôn khổ của
một cồng đồng xác định.
Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, có thể thấy văn hóa Việt Nam là nền
văn hóa thống nhất trong đa dạng. Tính đa dạng văn hóa là kết quả của sự đa dạng tộc người
(có 54 tộc người đang sinh sống tại Việt Nam), trong đó, tộc người Kinh (Việt) đóng vai trò
chủ thể (chiếm 90% tổng dân số). Bởi vậy, văn hóa Việt Nam tuy đa dạng song vẫn hướng
tâm vào văn hóa chủ thể - văn hóa Việt.
* Về mặt chủng tộc, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:
- Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dòng người thuộc đại
chủng Mongoloid từ phía dãy Himalaya thiên di về hướng đông nam, tới vùng Đông Nam Á
cổ đại thì dừng lại và hợp chủng với dân cư Melanesien bản địa (thuộc đại chủng
Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn
sóng, tầm vóc thấp. . Từ đây lan tỏa ra, người Indonesien cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại.
- Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5000 năm về trước), tại khu vực
nay là nam Trung Hoa và bắc Đông Dương, trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình
Indonesien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ
phía bắc đã hình thành chủng mới là chủng Nam – Á. Dần dà, chủng Nam – Á này đã được
chia tách thành một loạt các dân tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng
danh từ Bách Việt, bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt,
Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt. . sinh sống khắp khu vực phía nam sông Dương tử cho tới 10
Bắc Trung Bộ ngày nay, hợp thành những khối cư dân lớn như Môn – Khmer, Việt –
Mường, Tày – Thái, Mèo – Dao. .
- Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dẫn đến sự hình thành các tộc người cụ
thể, trong đó người Việt (Kinh) chiếm gần 90% dân số cả nước. Ở phía nam Việt Nam là
nơi cư trú của các tộc người Chăm, Giarai, Êđê, Churu, Hroi. . gọi chung là Nam Đảo.
* Về mặt ngôn ngữ, ngôn ngữ phổ thông hiện nay (tiếng Việt của tộc người Kinh) là
kết quả của quá trình hòa hợp các thổ ngữ của các tộc người trong cộng đồng Bách Việt và quá trình Hán hóa.
- Lúc đầu ngôn ngữ của người Kinh gồm các thổ ngữ của người Bách Việt. Cùng với
sự hòa huyết và chung sống, và xuất phát từ nhu cầu giao tiếp, các thổ ngữ này bị biến đổi
để trở thành một thứ ngôn ngữ chung cho cả cộng đồng, đó là ngôn ngữ Việt – Mường. Các
yếu tố cấu thành ngôn ngữ Việt – Mường là Môn – Khơme, Tày – Thái.
- Quá trình giao lưu văn hóa với Hán ngữ, chủ yếu diễn ra vào giai đoạn Bắc thuộc,
ngôn ngữ Việt – Mường đã hấp thụ Hán ngữ để làm giàu và phát triển.
- Cuộc giao lưu với văn hóa phương Tây – từ thời Pháp thuộc đến nay đã đem lại cho
tiếng Việt một diện mạo mới, được đánh dấu bằng sự ra đời chữ Quốc ngữ và một cấu trúc
ngữ pháp cũng như vốn từ vựng ổn định như ngày nay.
1.2.2.3. Tôn giáo
Trong thiên niên kỷ thứ ba này, quá trình toàn cầu hóa đang kiến tạo nên các hệ
thống chuẩn mực chung cho toàn nhân loại. Điều đó có nghĩa là, khía cạnh văn minh đang
gia tăng một cách tỷ lệ thuận với sự tiến triển của toàn cầu hóa. Chính điều này đã làm cho
các nền văn hóa ngày càng trở nên giống nhau hơn, xét từ góc độ văn minh.
Trong tình huống đó, tôn giáo với bản tính phi duy lý cố hữu của nó đã không bị biến
dạng bởi tính duy lý của khoa học và công nghệ. Nhờ đó, tôn giáo đã trở thành chỗ dựa cho
bản sắc văn hóa của nhiều cộng đồng trong điều kiện toàn cầu hóa. Đó chính là lý do khiến
việc định vị văn hóa bằng tôn giáo trở thành một phương pháp thịnh hành trong các nghiên
cứu hiện nay về văn hóa.
Có thể coi Chiristopher Dawson (1889 - 1970) là ông tổ sáng lập ra phương pháp
định vị này. Theo ông, tôn giáo không phải là một hình thái ý thức trừu tượng mà là truyền
thống văn hóa hay tập tục văn hóa. Cũng theo ông thì một xã hội giàu sức sống tất có một
tôn giáo, mà tôn giáo này ở mức độ rất lớn lại quyết định phương thức văn hóa của xã hội ấy.
Do đó, việc nghiên cứu tôn giáo trong sự thống nhất với văn hóa sẽ mở ra một cái nhìn mới,
hay nói đúng hơn là cho phép đánh giá lại các vấn đề có liên quan đến sự phát triển xã hội.
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, Việt Nam thuộc cộng đồng các
quốc gia Phật giáo (cùng với Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma…). Cách phân loại này đã
không xếp Nho giáo vào hàng tôn giáo.
Một số khác coi Việt Nam nằm trong cộng đồng của các nước chịu ảnh hưởng của
Nho giáo (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. .).
Tồn tại quan điểm thứ ba, mà chủ yếu là các học giả trong nước, đó là coi tôn giáo ở
Việt Nam mang tính tổng hợp theo nguyên lý “Tam giáo đồng nguyên” (Nho – Phật –
Đạo). Trong đó, Phật giáo giữ vai trò cơ sở, chất dung môi để hòa trộn hai yếu tố còn lại.
Như vậy, đối với Việt Nam, việc định vị văn hóa dựa trên dấu hiệu tôn giáo là rất khó
khăn, do thiếu tính thuần nhất về tín ngưỡng và tôn giáo. Bởi vậy, việc sử dụng lý thuyết
giao lưu – tiếp biến văn hóa để định vị trong trường hợp này là rất cần thiết.
1.2.2.4. Giao lưu và tiếp biến văn hoá
Với vị trí địa lí giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển lịch sử - xã hội
của Việt Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi với Đông
Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Dưới giác độ giao lưu tiếp biến, văn hóa Việt
Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn hóa lớn trong khu vực:
+ Giao lưu với văn hóa các tộc người bản địa qua văn hóa Chămpa ở Trung Bộ và văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ;
+ Giao lưu với văn hóa Trung Hoa: chủ yếu bằng con đường cưỡng chế (bị xâm lược, đô hộ và đồng hóa);
+ Giao lưu với văn hóa Ấn Độ: chủ yếu bằng con đường hòa bình, tự nguyện;
+ Giao lưu với văn hóa phương Tây: trong lịch sử, sự giao lưu này diễn ra chủ yếu
thông qua các kênh: buôn bán đường biển, sự đô hộ của thực dân Pháp, và sau đó là đế quốc Mĩ.
1.2.3. Diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam
1.2.3.1. Văn hoá Việt Nam thời Tiền sử và Sơ sử
Giai đoạn bản địa của văn hóa Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt
trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỷ I.TCN. Đây là một giai đoạn dài và có tính
chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hóa Việt Nam. Giai
đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: thời Tiền sử từ buổi đầu đến cuối thời đại đá mới; thời
Sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm.
1.2.3.1.1. Thời Tiền sử
Những kết quả nghiên cứu khoa học hiện nay của Khảo cổ học và Cổ nhân học đã
khẳng định: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài
người. Cách đây khoảng 40 – 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc
trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết tích còn
lại là các di cốt người – vượn trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn) và hang
Thẩm Ồm (Nghệ An) và những phát hiện di cốt người hiện đại trong hang Hùm (Yên Bái)
và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) đã chứng tỏ ở Việt Nam, con người đã có mặt từ rất sớm và 12
đã trải qua sự tiến hóa từ dạng người vượn đến dạng người hiện đại (người khôn ngoan – Homo sapien).
Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là văn hóa Núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kỳ
thời đại đồ đá cũ (cách đây khoảng 300.000 năm) phát hiện ở núi Đọ - Thiệu Hóa – Thanh Hóa).
Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học thuộc
hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam, đó là văn hóa Sơn Vi – Lâm Thao, Phú Thọ (tồn tại trong khoảng
từ 30.000 đến 11.000 năm cách ngày nay).
Trong giai đoạn Tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm, loài người cũng bước vào
thời đại đá mới. Thời kỳ này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên
vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ… Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới
đỉnh cao, loại hình công cụ nhiều. Đặc biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động
vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hóa Hòa Bình.
Cư dân văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi, nhất là khu
vực gần cửa hang thoáng đãng, có ánh sáng. Người Hòa Bình cũng sống chủ yếu bằng săn
bắt và hái lượm theo phổ rộng.
Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hóa
thuộc trung kỳ và hậu kỳ đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến
quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ
phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn, họ đã chinh phục
được hai vùng sinh thái là núi, trước núi và ven biển.
Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng
xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội, những
mảnh thổ hoàng… Tư duy về thời gian vũ trụ được con người thể hiện bằng những hoa văn
kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ… vẽ trên đồ gốm. Thời kỳ này cũng xuất
hiện những tín ngưỡng nguyên thủy. Là cư dân nông nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt
trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người.
1.2.3.1.2. Thời Sơ sử
Cách đây 4.000 năm, các cộng đồng cư dân từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông
Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí/ thời đại đồ đồng. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt
Nam có ba trung tâm văn hóa:
- Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
- Văn hóa Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa.
- Văn hóa Đồng Nai (miền Nam) là một trong những cội nguồn hình thành văn hóa
Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai – Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công
nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay văn hóa Óc Eo thường được gắn với vương
quốc Phù Nam, một nước tồn tại từ thế kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long. * Văn hóa Đông Sơn - Quá trình hình thành
Quá trình hình thành và phát triển của văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc là một quá
trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và Nhà nước đầu tiên của người Việt cổ.
Quá trình này là một sự phát triển có ý nghĩa nhảy vọt trong lịch sử Việt Nam. Bởi lẽ, về
mặt xã hội sự phát triển từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ,
từ bộ lạc đến liên minh bộ lạc, tiến đến hình thành Nhà nước sơ khai là Nhà nước Văn Lang
của các vua Hùng, rồi Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương. Về mặt văn hóa thì từ
những tiền đề của văn hóa thời Tiền sử đã hình thành nên nền văn minh đầu tiên của người
Việt cổ là văn minh sông Hồng – quá trình văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương để hòa
chung vào một nền văn hóa thống nhất trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt – Trung cho
đến bờ sông Gianh (Quảng Bình) với chủ nhân là một cộng đồng cư dân nhiều thành phần
tộc người (54 tộc người) thuộc 4 ngữ hệ lớn: Nam Á, Thái, Tạng – Miến, Nam Đảo.
- Thành tựu văn hóa Đông Sơn
+ Văn hóa tổ chức xã hội
Xã hội Đông Sơn là một xã hội đã có phân hóa nhưng chưa sâu sắc, Nhà nước thì
mới hình thành. Đơn vị cơ sở của xã hội là công xã nông thôn – một tổ chức mang tính chất
vùng địa lý, tập hợp một số gia đình gần gũi nhau cùng chung sống, quan hệ huyết thống
dòng họ được duy trì. Đơn vị kinh tế là gia đình nhỏ.
Ở phạm vi quốc gia, ngay từ thời kỳ này đã xác lập thể kết hợp “Nhà – Làng – Nước”
mang sắc thái riêng của xã hội truyền thống Việt Nam. Trong đó, làng là đơn vị xã hội – văn
hóa giữ vai trò chủ yếu trong sáng tạo, bảo tồn và tái tạo các truyền thống văn hóa. + Văn hóa vật chất
Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước dùng cày với sức kéo trâu bò phát triển, với sản
phẩm chủ yếu là lúa. Bên cạnh đó là các ngành sản xuất thủ công như luyện kim, chế tạo đồ
gốm, thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt vải cũng phát triển.
Cơ cấu bữa ăn là Cơm – Rau - Cá. Có tục uống nước chè, uống rượu, tục ăn trầu,
nhuộm răng, xăm mình… Y phục: sau một thời kỳ dùng vỏ cây làm áo, người Việt cổ tiến
tới trồng gai, đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải lụa. Từ các chất liệu đó, người xưa
làm ra khố, váy, yếm, thắt lưng, khăn đội đầu… Nhà ở chủ yếu là nhà sàn có nhiều kiểu
dáng, vật dụng sinh hoạt chủ yếu bằng gốm, tre nứa… Phương tiện đi lại là bằng thuyền, bè,
mảng… Ngoài ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai trên lưng, con người cũng biết
thuần dưỡng voi để chuyển chở. Nghề mộc phát triển nên người xưa đã đóng được những
thuyền lớn chở được vài chục người, họ còn đóng cả thuyền chiến, thuyền đua… + Văn hóa tinh thần 14
Tín ngưỡng người Đông Sơn chủ yếu liên quan đến nông nghiệp trồng lúa. Đó là
hình thái tín ngưỡng sùng bái tự nhiên với tục thờ mặt trời, thờ thần sông, thần biển… Tiếp
đến là tín ngưỡng phồn thực biểu hiện ở tục thờ cơ quan sinh dục nam nữ và thờ hành vi
giao phối. Tục thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng và thủ lĩnh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng… + Văn hóa nghệ thuật
Các nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa thời Đông Sơn khá phát triển. Nhạc khí phong
phú và đa dạng như trống các loại, chiêng, cồng, chuông, sênh, phách, khèn… Nghệ thuật
múa gồm có múa hóa trang và múa vũ trang.
Lễ hội là một sinh hoạt quan trọng của cư dân nông nghiệp Đông Sơn. Tính chất của
lễ hội là lễ hội làng, thường mở vào mùa xuân và mùa thu, có nội dung cầu mùa, cầu bình
an vô sự. Các thần thoại, truyền thuyết cũng hình thành trong thời gian này, biểu hiện tư duy
của người Đông Sơn trong sự nhận thức về thế giới với đặc điểm chính là tư duy lưỡng phân.
Biểu tượng của văn hóa Đông Sơn, văn minh sông Hồng là trống đồng Đông Sơn. * Văn hóa Sa Huỳnh - Quá trình hình thành
Trung tâm hay đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ đèo
Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng
Ngãi, đó là văn hóa Sa Huỳnh.
Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau (hơn 4.000 năm cách ngày nay)
cho tới sơ kỳ thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7-6 T.CN tới thế kỉ 1-2 S.CN). Chủ nhân văn
hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với chủ nhân văn hóa Bàu Tró là người tiền Mã Lai –
Pôlinêdi và chủ nhân của văn hóa sơ kì đồng thau miền cao nguyên Lâm Đồng là người tiền
Môn – Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân
kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này
nói tiếng Nam Đảo hay Malai – Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á. - Thành tựu văn hóa
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm
với nhiều hình dạng như hình cầu, hình trứng, hình trụ… Trong và ngoài chum chứa nhiều
đồ tùy táng với các chất liệu đá, thủy tinh, đồng, sắt…
Công cụ lao động và vũ khí chủ yếu bằng đồng, sắt như dao, rựa, giáo, mai, liềm,
thuổng, kiếm, qua… Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo đồ sắt, cư dân
văn hóa Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo đồ gốm, làm đồ trang sức.
Nền kinh tế của cư dân văn hóa Sa Huỳnh là nền kinh tế đa thành phần. Bên cạnh
làm nông họ còn biết khai thác những nguồn lợi từ biển, rừng, biết phát triển các nghề thủ
công, mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải
đảo, và rộng hơn là với Ấn Độ, với Trung Hoa. * Văn hóa Đồng Nai
Cư dân Đồng Nai có mặt ở vùng đồng bằng Nam Bộ cách ngày nay khoảng 4.000 –
5.000 với không gian sinh sống gắn chặt với vùng đất cửa sông, giáp biển. Các cư dân ấy là
lớp người đầu tiên đến lập nghiệp ở vùng đất này và xây dựng nên văn hóa Đồng Nai, đặt
nền móng cho thời kì chinh phục vùng châu thổ sông Cửu Long, tức thời kì của văn hóa Óc
Eo vào những thế kỉ đầu công nguyên sau này.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Đồng Nai là nghề nông và nghề thủ công.
Trong trồng trọt, lúa là loại cây lương thực chính. Người Đồng Nai còn khai thác các sản vật
rừng và săn bắn. Nghề thủ công của họ khá phát triển, thể hiện ở chế tác các đồ trang sức
bằng đá, thủy tinh, sắt, đồng…
Đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai còn nặng tín ngưỡng bái vật giáo được thể
hiện qua nghệ thuật tạo hình: các di vật như tượng lợn rừng, rùa bằng sa thạch, tượng chó
săn mồi bằng đồng… Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh.
Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hóa láng giềng như trống đồng
Đông Sơn, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hóa Sa Huỳnh…
1.2.3.2. Văn hoá Việt Nam thiên niên kỷ đầu công nguyên
1.2.3.2.1. Văn hóa ở châu thổ Bắc bộ thời Bắc thuộc
* Bối cảnh văn hóa lịch sử
Vào những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ trước công nguyên, nền văn hóa Việt cổ bắt
đầu chịu những thử thách lớn. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa
mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 T.CN,
Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông - Trung Quốc ngày nay)
xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111
T.CN, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ,
dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là Thứ sử, đầu quận là Thái thú. Thời kỳ này
kéo dài từ năm 179 T.CN tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỷ
nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kỳ này thường được gọi là thời
nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc vì người
Việt chưa bao giờ chịu khuất phục.
Trong diễn trình lịch sử văn hóa, bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán
hóa mạnh mẽ, gìn giữ bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh
thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc đã tiến hành
đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa. Trong thời kỳ này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt
là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình, chống lại chính sách đồng hóa, đồng thời 16
vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.
* Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán
Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người Việt, giai cấp thống trị Hán
đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt trên mọi phương diện.
+ Ở lĩnh vực chính trị - xã hội, kẻ thống trị Hán có ý thức di thực mô hình tổ chức
chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt với mục đích thiết lập trên đất này
một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, một phương thức canh tác và một phong tục tập
quán giống như Trung Hoa. Đó là các chính sách bắt dân bản xứ học tập như người Hán, ăn
mặc, tổ chức xã hội, làm ruộng giống người Hán. Ngoài ra còn có những cuộc di cư ồ ạt từ
phương Bắc xuống sống lẫn với người Việt để đồng hóa người Việt.
+ Ở lĩnh vực tư tưởng là sự truyền bá các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông,
là sự du nhập của đạo Nho, đạo Lão – Trang… vào Việt Nam.
+ Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán còn để lại dấu ấn trong
những lĩnh vực khác như cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ xã hội, tiếng nói…
Nhưng Hán hóa với mục tiêu là đồng hóa thì bọn xâm lược phương Bắc không thành
công. Điều đó là do trong suốt thời gian này, bên cạnh hướng Hán hóa đã có một chiều
hướng khác luôn hạn chế và làm biến chất cái áp đặt từ bên ngoài. Đó là chiều hướng chống
Hán hóa để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Vì thế từ đầu công nguyên trở đi, nền văn minh
Đông Sơn mà sợi dây liên kết là Nhà nước Âu Lạc với thiết chế xã hội là chế độ Lạc tướng
đã bị giải thể cấu trúc. Những mảnh vụn của nền văn minh này cùng với cái “thần thái Đông
Sơn” của nó tuy không bị mất đi nhưng một mặt đã hòa tan vào nền văn hóa dân gian của
các làng Việt cổ và các thành phần tộc người khác của miền Đông Dương và Đông Nam Á;
mặt khác đã và sẽ gá lắp với những thể chế văn minh ngoại sinh tới từ phía Trung Hoa, Ấn
Độ… để dần dần tạo nên một sắc thái văn minh mới.
* Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn
Ngay từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến hành giao lưu rộng rãi với nhiều vùng
trong khu vực. Trong giai đoạn thiên niên kỉ I sau công nguyên, bên cạnh giao lưu với văn
hóa Hán, luồng ảnh hưởng của văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo
Phật giáo du nhập vào nước ta. Phật giáo từ Ấn Độ truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc,
rồi từ Trung Quốc truyền dội sang đất nước ta từ rất sớm, khoảng thế kỉ I, II đầu công nguyên.
Ở đời Hán, ba trung tâm Phật giáo là Lạc Dương ở Hà Nam (kinh đô nhà Hậu Hán),
Bành Thành ở Giang Tô và trung tâm Luy Lâu ở đất nước ta. Trung tâm Luy Lâu có thể
được hình thành do sự viếng thăm của những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà
tới bằng đường biển và đường sông. Đạo Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền
sang trực tiếp, mãi về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống.
Thương gia Ấn Độ đến Giao Châu phải ở lại đây cho đến năm tới, chờ gió mùa Đông
Bắc để trở về Ấn Độ. Một số tăng sĩ có thể ở lại hẳn Luy Lâu. Họ sống với người Việt và
Hoa kiều, và đã ảnh hưởng tới những người này bằng tiếng nói, lối sống và đạo Phật. Người
Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có Phật giáo.
* Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn
liếng văn hóa bản địa, nội sinh tích lũy được qua hàng nghìn năm trước.
Trên cơ sở vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tố văn hóa Đông
Nam Á, Ấn Độ, Trung Á và Tây Á… có tác dụng trung hòa những ảnh hưởng văn hóa
Trung Hoa, khiến cho văn hóa Việt cổ thời Bắc thuộc vẫn mang tính chất độc đáo, đặc thù,
khác và vẫn có thể phân biệt được với văn hóa Trung Hoa. Nhân dân ta đã biến những của
cải đi vay thành tài sản của dân tộc để bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa dân tộc.
Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Ví dụ
như từ chỗ tiếp thu kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc, nhân dân ta đã biết tìm tòi, khai thác
nguyên liệu địa phương để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng và có phần hơn giấy sản
xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Hay là trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung
Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện có
đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang” của đồng bào Mơnông gần đây.
Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn nòi giống và văn hóa Việt là sự bảo tồn tiếng Việt –
tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt
chẽ, tiếng Hán và chữ Hán được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được
tiếng Việt bởi lý do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao
động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình, cho nên họ duy
trì được tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn Việt. Nói như vậy
không có nghĩa là tiếng Việt không có sự thay đổi dưới tác động của ngôn ngữ Hán. Tiếng
Việt đã phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó do có tiếp thu nhiều yếu tố của
ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán, và chúng được nhân dân biến đổi để trở
thành những từ Hán – Việt. Ngoài ra, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn
ngữ Mã Lai, Tạng-Miến và nhất là Ấn Độ làm cho vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Về
mặt chữ viết, người Việt cũng tiếp nhận một cách sáng tạo loại hình chữ khối vuông của chữ
Hán để ghi âm tiếng Việt đã dẫn đến sự hình thành chữ Nôm. 18
Phong tục, lễ giáo, văn học nghệ thuật trong thời kỳ Bắc thuộc vẫn được duy trì và
phát huy mạnh mẽ. Nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn như tục cạo tóc hay búi
tóc, tục xăm mình, tục chôn người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng,
tục nhuộm răng, ăn trầu…
Tục thờ cúng các anh hùng huyền thoại và các anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng,
Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan… được người Việt thực hiện thường
niên. Các tín ngưỡng và lễ hội nông nghiệp của cư dân lúa nước vẫn giữ được sức sống của
nó trong lòng các làng xã.
Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ chịu ảnh hưởng của Trung Hoa như khánh,
chuông… chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Á như trống cơm, hồ cầm,… vẫn tồn tại
những dụng cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống, khèn, cồng chiêng…
Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói, trong
thời Bắc thuộc người Việt mất nước chứ không mất làng. Giống như một học giả phương
Tây đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà
không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền Bắc thuộc và cũng
là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, giành lại độc lập dân tộc.
1.2.3.2.2. Văn hóa Chămpa
Người Chăm lập quốc vào khoảng thế kỉ thứ II, sau khi thoát khỏi ách độ hộ của
phong kiến Trung Quốc, và cho đến tận thế kỉ XV, vương quốc Chămpa tan rã. Trong quá
khứ, vương quốc này trải dài dọc theo Trung Bộ: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang, Khánh Hoà, Phan Rang - Phan
Thiết. Từ rất sớm (vào những thế kỉ trước công nguyên), thông qua các hoạt động thương
mại và truyền giáo, người Chăm đã giao lưu với văn hoá Ấn một cách hoà bình. * Đời sống kinh tế
Người Chăm có một nền kinh tế đa thành phần mà trước hết là nghề nông trồng lúa
nước – dâu tằm – bông – hoa màu; nghề rừng khai thác lâm thổ sản như quế, trầm hương,
hạt tiêu. .; nghề biển; nghề thủ công như rèn, dệt vải lụa, làm gốm, chế tạo đồ thủy tinh, đá ngọc. .
Người Chăm có những tiến bộ về nông nghiệp mà đầu tiên là phát hiện ra giống lúa
chịu hạn (lúa Chiêm), gieo cấy cả hai vụ từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa trắng ở ruộng
bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 trồng lúa đỏ ở ruộng xích điền. Để thích ứng với đất khô
hạn, người Chăm có hàng loạt biện pháp thủy lợi như cọn nước, giếng, hồ đập. . đặc biệt là
hệ thống khai thác nước mạch chảy ra từ những cồn cát, đồi gò mà vết tích hiện nay vẫn còn
thấy ở Ninh Thuận, Bình Thuận. . * Đời sống tôn giáo
Hầu như tất cả các tôn giáo của Ấn Độ đều có mặt trong văn hoá Chăm, trong đó
Bàlamôn giáo là tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất.
- Brahmanism là tiền thân của Hinđu giáo (Ấn Độ giáo ngày nay), với ý niệm trung
tâm là bộ ba gồm các thần: Brahma (thần sáng tạo đầy quyền năng) - Visnu (thần bảo trợ và
bảo tồn) - Siva (thần huỷ diệt). Trong bộ ba này, người Chăm đặc biệt coi trọng vai trò của
Thần Siva, khiến cho việc thờ phụng Siva trở thành một nhánh tôn giáo phát triển khá độc
lập, khiến có thể hiểu Brahmanism của người Chăm là Siva giáo.
- Siva giáo và tín ngưỡng phồn thực bản địa của người Chăm hoà trộn với nhau để
tạo thành một thứ tôn giáo hỗn dung. Theo đó, Siva được hoá thân dưới dạng Linga hay
hiện diện đi kèm với Linga - với tư cách là những đối tượng thờ cúng của người Chăm.
* Kiến trúc – điêu khắc
Người Chăm để lại một di sản kiến trúc đầy tính nghệ thuật và tinh tế. Đó là các quần
thể kiến trúc - điêu khắc mà chủ yếu là quần thể các tháp Chàm.
Tháp Chăm đứng sừng sững uy nghi trước sóng gió, chúng có mặt rải rác từ ven biển
lên đến Tây Nguyên, suốt dọc miền Trung từ Bắc vào Nam – khắp nơi có người Chăm cư
trú. Thống kê cho biết hiện còn 19 khu tháp với hơn 40 kiến trúc lớn nhỏ. Số lượng các phế
tháp do bom đạn tàn phá và hủy diệt là chưa thể xác định được. Theo khảo sát và thống kê
của H. Parmentier vào năm 1904-1909, riêng lòng chảo Mĩ Sơn (Quảng Nam) đã có tới trên 70 kiến trúc.
Về kiến trúc quần thể, tháp Chăm có hai loại: Loại thứ nhất là các quần thể kiến trúc
bộ ba gồm tháp song song thờ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva. Loại thứ hai là các quần thể
kiến trúc có một tháp trung tâm thờ Siva và các tháp phụ vây quanh. Loại này thường xuất
hiện muộn hơn (khoảng thế kỉ IX); có những nơi trước vốn là quần thể kiến trúc bộ ba, đến
khi tu chỉnh đã được chuyển thành loại quần thể có một tháp trung tâm.
Về chức năng, hầu hết tháp Chăm đều mang tính chất lăng mộ thờ vua (ta theo hình
thức mà gọi là “tháp”, nhưng người Chăm thì gọi chúng là kalăn, có nghĩa là “lăng”). Ngoài
chức năng lăng mộ thờ vua, tháp Chăm còn là đền thờ thần bảo trợ của nhà vua. Chính vì
chức năng lăng mộ và đền thờ nên nội thất tháp Chăm rất chật hẹp, nó chỉ đủ chỗ cho các
pháp sư hành lễ chứ không phải là nơi tín đồ hội tụ và cầu nguyện.
* Văn tự, lịch pháp, âm nhạc
Người Chăm tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn - Sancrit) để tạo ra chữ viết riêng của họ.
Từ thời xưa, người Chăm đã biết dùng lịch. Có một lịch pháp Ấn Độ đã du nhập vào
Chămpa và người Chăm đã dùng lịch này từ đó đến nay.
Âm nhạc và múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm,
nhất là những nghi lễ và hội lễ mang tính chất tín ngưỡng, tôn giáo như lễ Tết Katê, lễ mở
cửa thánh, lễ cầu đảo, các lễ Chà Và lớn và nhỏ, những buổi lên đồng. Trống Baranưng và
trống Kynăng là hai loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, 20 
