


Preview text:
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, ủng hộ quốc tế vào giải quyết các
vấn đề quốc tế hiện nay
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam 
luôn tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến 
chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của 
Người mà ở Pháp và Mỹ đã dấy lên phong trào các tầng lớp nhân dân đòi chính phủ 
phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan xen lẫn 
nhau, vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có 
những thuận lợi và khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự 
ủng hộ quốc tế là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ 
trương, đường lối đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế:
Một là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính 
làm nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát 
triển bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa  dân tộc
Năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam, Hồ
Chí Minh nói rõ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng 
tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”(5).
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, 
hội nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình và hữu nghị. Chiến tranh, 
xung đột cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố và những hành vi tàn ác chà đạp 
quyền sống của con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc 
cực đoan đã kéo theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của
nước khác, bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp ở Biển 
Đông đã, đang và tiếp tục gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và
các nước trong khu vực. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng 
các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên 
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam kiên định
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là 
đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng 
quốc tế; không ngừng nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược,
đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Đối với các nguy cơ và thách thức về an 
ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… 
Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, 
tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau.
Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng 
hóa quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khéo léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông 
cáo về Chính sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm 
đối ngoại thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn 
trọng nền độc lập của Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc 
nhược tiểu trên toàn cầu thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ.
Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta 
được hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh bày tỏ mong muốn của Việt Nam là làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và 
không gây thù oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, 
ngoại giao Việt Nam đã phá được thế bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp 
pháp, hợp hiến của chính quyền cách mạng ở khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc 
kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công 
cuộc đổi mới, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt
Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, 
góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu 
tranh bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường quốc 
tế hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các 
nước lớn để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước
Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân tộc 
cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau, 
cùng nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn 
nhau, những dân tộc tự do và bình đẳng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn 
nhất” và “Thế giới hòa bình có thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là 
những nước lớn, đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương  lượng”(6).
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức quốc 
tế, đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX. 
Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ 
quốc tế là lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho 
chiến tranh, luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các 
quốc gia, dân tộc, giữa các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức 
đan xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận vững 
chắc, lâu dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời 
đại. Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất 
tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi 
xa: “… tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế 
bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh 
em”(7) và cũng thực hiện sự mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, 
góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng 
chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”(8). 
