-
Thông tin
-
Quiz
TÀI LIỆU NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO | Học viện Hành chính Quốc gia
Tên gọi, nguồn gốc và quá trình phát triển Sơ lược về quá trình phát triển của nghệ thuật chèo Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Quản lí công 172 tài liệu
Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
TÀI LIỆU NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO | Học viện Hành chính Quốc gia
Tên gọi, nguồn gốc và quá trình phát triển Sơ lược về quá trình phát triển của nghệ thuật chèo Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Quản lí công 172 tài liệu
Trường: Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:









Tài liệu khác của Học viện Hành chính Quốc gia
Preview text:
lOMoARcPSD|49605928
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO
1. Tên gọi, nguồn gốc và quá trình phát triển
Về tên gọi, đã từng có nhiều cách giải thích về tên gọi của chèo với những quan điểm khác nhau: -
Chữ “chèo” do “trào”, nghĩa là giễu cợt mà ra. Tác giả Nguyễn
ThúcKhiêm giải thích “Tiếng chèo là bởi chữ trào nói chệch ra. Trào có nghĩa là
cười. Ngoài Bắc Kỳ ta gọi là hát chèo, nghĩa là diễn cái sự tích bật cười của người
đời cố làm vui để mà xem cho thỏa thích, để dạy người ta răn chừa”1 -
Chữ “chèo” từ chữ “chầu” mà ra. Do các bản hát chèo ngày xưa ghi
lạibằng chữ Nôm, chữ chèo được tạo bởi chữ “khẩu” một bên và chữ “chầu” một
bên nên người ta cho rằng hát chèo là hát chầu thần, chầu thánh, nên “chèo” đọc lệch thành chữ “chầu”. -
Chữ “chèo” từ chữ “trèo” mà ra. Nhà nghiên cứu Vũ Khắc Khoan dẫn
sáchCa trù bị khảo của Vũ Ngọc Phác cho biết: “Đời vua Thần Tông nhà Lê (1649
1662), ngày sinh nhật, vua ngự ở điện Vạn Thọ, chúa Trịnh dẫn trăm quan vào làm
lễ chúc mừng. Trong cung yến ẩm suốt ngày và hát đủ mọi lối, có ban nữ nhạc hát
múa khúc Đại thực. Các quan dẫn người nhà vào chen chúc, ai cũng muốn đến gần
xem cho rõ. Vua thấy thế mới truyền cho tiểu giám lấy những hòn đá lớn để nữ nhạc
trèo lên đó mà hát, chủ ý cho mọi người cùng trông thấy và cùng nghe thấy. Từ đấy
thay đổi khúc hát là Đại thạch. Có thể do đấy mà gọi là hát trèo, rồi đọc chệch ra thành hát chèo?”2 -
Chữ “chèo” từ chữ “trò” mà ra. Xét về nghệ thuật biểu diễn chèo, ngoài
phầnca hát còn có phần pha trò, chọc cười người xem. Do đó tác giả Vũ Hiệp đưa ra
1 Nguyễễn Thúc Khiễm - Kh o sát vềề hát tuồềng và hát chèoả, t p chí Nam Phong, sốố 144, tr 461.ạ
2 Vũ Khắốc Khoan (1974), Tìm hi u sân khâấu chèoể, Nxb. L a Thiễng, Sài Gòn, tr. 30-34ử lOMoARcPSD|49605928
ý kiến: “Danh từ chèo bắt nguồn từ chữ trò mà ra, rồi lâu ngày chữ trò mới đọc trại đi thành chữ chèo” -
Chữ “chèo” từ chữ “chèo thuyền” mà ra. Do người Việt vốn gắn với
môitrường sông nước, chỉ động tác chèo thuyền. Sau đó nó trở thành động tác phổ
biến trong sinh hoạt và tín ngưỡng người Việt. Chẳng hạn nhiều nơi hiện nay còn
giữ được tục “Chèo đò đưa linh” trong đám tang của người già, người ta làm động
tác chèo đò đưa linh, đưa hồn người chết qua một con sông tưởng tưởng về thế giới
bên kia và hát. Những điệu hát đó cũng được gọi là “hát chèo”.
Về nguốc gốc của chèo, có hai quan điểm chính:
Quan điểm của các sử gia phong kiến, cho rằng : Hát chèo từ hát tuồng mà ra,
mà hát tuồng thì du nhập từ Trung Quốc vào. Cuốn Vũ trung tùy bút của Phạm Đình
Hổ chép: “Nước Nam ta từ đời Lý, có người đạo sĩ nhà Tống bên Trung Quốc qua
sang dạy người dân trong nước múa hát làm trò và trò tuồng ở nước ta khởi điểm ra
từ đấy”.3 Trong khi đó chính sử chép: “Lúc nhà Trần đánh phá quân Toa Đô (vào
khoảng 1279 - 1284) bắt được người hát là Lý Nguyên Cát, hát hay. Tử đệ các nhà
thế gia đua nhau theo Nguyên Cát học tập. Nguyên Cát diễn hý truyện xưa có các
mẩu chuyện Tây Vương Mẫu hiến bàn đào. Các vai có những danh hiệu quan nhân
(vua), châu tử (kép), đán nương (đào), sửu nô (hề)”. Cuốn Sơ thảo lịch sử văn học
Việt Nam cho rằng “Tuồng của ta khởi đầu từ Lý Nguyên Cát”.
Quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện đại, cho rằng : Chèo bắt nguồn từ dân
ca, dân vũ và các trò diễn trong dân gian. Hà Văn Cầu trong Quá trình hình thành
và phát triển của nghệ thuật chèo viết: “Chèo ra đời từ thời Đinh. Chèo là nghệ thuật
dân gian được xây dựng trên cơ sở trò nhại, múa và hát dân gian”. Vũ Khắc Khoan
trong Tìm hiểu sân khấu chèo cũng viết: “Nguồn gốc của chèo là một nền ca vũ cổ
3 Ph m Đình H (Đống Châu - Nguyễnễ H u Tiễnố d chạ ổ ữ ị ) (1989),
Vũ Trung tùy bút, Nxb Tr , Hà N i.ẻ ộ lOMoARcPSD|49605928
sơ của dân tộc, thường được biểu diễn trong các dịp tang lễ thời trước, lời ca than
vãn, điệu vũ hình dung những động tác chèo thuyền, chiếc thuyền thần thoại chở linh
hồn của người chết sang thế giới bên kia”4.
2. Sơ lược về quá trình phát triển của nghệ thuật chèo
Về quá trình hình thành và phát triển của chèo, có thể chia ra làm hai giai
đoạn: từ thế kỉ XX trở về trước và sau thế kỉ XX.
Trước thế kỉ XX: Chèo được hình thành từ thế kỷ XIII và đã phát triển cùng
với thời kỳ phục hưng dân tộc. Tới thê kỷ 15, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng nên
vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình. Lúc này
chèo lại trở về với người nông dân, kịch bản lấy từ truyện thơ Nôm. Tới thế kỷ XVIII,
hình thức chèo cổ hay còn gọi là chèo sân đình đã được phát triển mạnh ở vùng nông
thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX. Những
vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên
xuất hiện trong giai đoạn này. Chèo sân đình thường được biểu diễn ở các sân đình,
sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu rật thô sơ, thường chỉ là một
chiếc chiếu trải giữa sân, khán giả ngồi bao quanh cả bốn mặt “chiếu chèo”, không
có phông màn bài trí. Phục trang là y phục thường ngày, hoá trang đơn giản, chỉ vai
hề được vẽ mặt để gây cười..
Sau thế kỉ XX: Những năm đầu thế kỷ XX, chèo sân đình từ làng quê bước ra
sân khấu thành thị, với những cải tiến mới được gọi là chèo văn minh, với ban hát
Đồng Lạc và Sán Nhiêu ở Hà Nội, với sự cách tân nghệ thuật: bắt chước kịch Tây,
có người nhắc vở, vở diễn là những vở trong truyện Nôm, dã sử, truyện Tàu, có sân
khấu hộp. Sau đó chèo văn minh lại được cải tiến một lần nữa cho phù hợp với thị
hiếu của thị dân, trở thành chèo cải lương. Đó là những năm 20-30 của thế kỷ XX
mà Nguyễn Đình Nghị là chủ suý.
4 Vũ Khắốc Khoan, Sđd, tr.34. lOMoARcPSD|49605928
Những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, một số nhà hoạt động sân
khấu đưa đề tài cách mạng vào chèo, lúc này chèo bắt đầu có đề tài hiện đại.
Trong đề tài hiện đại có những vở chèo nói về chiến ứanh, hậu chiến tranh, đời sống
xã hội hiện nay hoặc những vấn đề diễn ra trong thời bao cấp. Tới những năm 1960,
một số tác giả đựa đề tài chống Mỹ và đề tài sản xuất vào chèo, dù thành công về
tuyên truyền nhưng lại thất bại về nghệ thuật. Các nhà lý luận phê bình sân khấu đã
không ít lần cảnh báo đừng cố đưa đề tài hiện đại vào chèo vì không những không
mang lại giá trị nghệ thuật mà còn biến thành chèo thông tấn. Cùng với thời gian,
chèo đã có những sự thay đổi khác nhau, về sân khấu biểu diễn, tò sân khấu ba mặt
ngoài trời chuyền vào sân khấu hộp hai mặt trong nhà. Về nội dung, chèo đã làm
mới nội dung, từ chỗ chỉ đưa những nội dung giáo huấn đạo đức tới việc đưa những
vấn đề chính trị, xã hội hiện đại vào trong mỗi vở chèo hiện đại như bây giờ cũng đã
cho ta thấy sự phát triển và thay đổi của chèo. Nhưng dù có phát triển tới đâu, thay
đổi thế nào thì những đặc trưng về nghệ thuật chèo vẫn được giữ nguyên bản.
3. Những đặc điểm cơ bản của sân khấu chèo
3.1.Chèo là sân khấu kịch hát có kịch bản được cấu trúc theo kiểu “mảnh trò”
Trong kịch hát dân tộc truyền thống Việt Nam, đặc biệt là trong chèo có một
loại hình cấu trúc rất đặc biệt, rất quen thuộc và cũng rất độc đáo, nổi bật, đó là cấu
trúc mảnh trò. Những mảnh trò này có sự tồn tại độc lập tương đối với nhau, do đó
từng mảnh có thể đem trích diễn tách riêng mà người xem vẫn có thể tiếp nhận đươc,
thậm chí tiếp nhận một cách rất lý thú. Và những mảnh trò đố được gọi theo cách
khác là những trích đoạn. Ta lấy ví dụ như vở Quan Âm Thị Kính. Xét về cấu trúc
thì vở chèo này tuyệt nhiên không thuộc cấu trúc hồi. Toàn bộ vở chèo dường như là
những mảnh trò kế tiếp nhau kết thành : Thiện Sĩ hỏi vợ, Thị Kính cắt râu chồng,
Thị Mầu lên chùa, Thị Mầu dụ Nô, Mẹ Đốp - Xã trưởng, Việc làng (Ngả vạ)... Trong
khi đó kịch của phương Tây được cấu trúc theo hồi, mỗi một vở kịch đều phải tuân lOMoARcPSD|49605928
thủ theo nguyên tắc gồm có năm hồi (từ giới thiệu nhân vật trong quan hệ xung đột
tới khi mâu thuẫn lên đỉnh điểm và tạm hoãn xung đột rồi kết thúc) thì nghệ thuật
chèo của Việt Nam lại được cấu trúc theo từng mảnh trò riêng biệt. Một vở chèo có
thể được tạo nên từ nhiều mảnh trò khác nhau chứ không nhất thiết bị bó buộc trong
một con số nhất định.
3.2.Chèo là sân khấu ước lệ, cách điệu, tượng trưng
Trong chèo, cuộc sống được tả ý, tả thần qua nghệ thuật ước lệ, cách điệu.
Cuộc sống được tái hiện qua nghệ thuật diễn xuất kịch của sân khấu chèo không là
cuộc sống ở trạng thái tự nhiên của đời thường. Cuộc sống ở đây đã được khái quát
bởi phương pháp ước lệ, cách điệu, tả thần, tả ý, và một tư duy sáng tạo đậm tính
biểu trưng, biểu cảm. Ước lệ trên sân khấu chèo là một cách giải quyết mối mâu
thuẫn của cái hữu hạn vật chất của sàn diễn và cái vô hạn của cuộc đời mà sân khấu
phải thể hiện. Bản chất của ước lệ trong chèo là dùng chính nhân thân người diễn
viên để biểu hiện hiện thực: không gian, thời gian, con người. Lấy cái bộ phận để
gợi lên cái toàn thể trong nghệ thuật biểu đạt của chèo là một đặc tính của nghệ thuật
biểu trưng, ước lệ. Chỉ có thông qua ước lệ các vật mới có ngữ, nghĩa. Cây quạt, cái
bàn gỗ, cái hòm, hay bất kỳ những đạo cụ sân khấu mang tính ước lệ, đều là những
vật thật, song bản thân chúng không mang tính chất nhất định của một vật thể nào.
Qua các động tác diễn xuất của người diễn viên chèo chúng mới có thể mang tên cái
này, hoặc cái kia. Các động tác diễn xuất với tư cách là một hệ thống tín hiệu nghệ
thuật đã gợi lên những cảnh trí, những tâm trạng, những hành động mà khán giả phải
tiếp tục tự hoàn chỉnh trong trí tưởng tượng và sự nhận thức của mình. Người diễn
viên không tái hiện toàn bộ cử chỉ thực tế, mà chỉ bằng một vài động tác mang tính
quy ước, anh ta làm xuất hiện trước mắt khán giả cái mà thật sự không tồn tại. Khi
diễn viên chưa ra, sân khấu chèo chỉ là một mặt phẳng trống trơn. Nhưng khi diễn
viên ra, chỉ bằng vài ba động tác, vài câu nói lối, mặt phẳng ấy biến thành dòng sông,
con đường, căn nhà, chiến trường... Chèo đã dựng nên không gian ảo bằng nghệ lOMoARcPSD|49605928
thuật ước lệ. Nghệ nhân chèo vận dụng không gian ước lệ, để khiến cho “trời đất,
thu nhỏ trên đôi chiếu diễn”. Trong sân khấu chèo, không gian ước lệ được gắn liền
với thời gian ước lệ qua xử lý nghệ thuật của người diễn. Chèo xử lý thời gian theo
trật tự tự nhiên, còn độ dài ngắn tùy thuộc vào yêu cầu của mảnh trò cũng như xử lý
của người diễn. Tính ước lệ trong chèo còn được thể hiện qua cách miêu tả hành
động nhân vật. Các khuôn diễn mang tính ước lệ, cách điệu thường được nghệ nhân
tài giỏi cấu thành từ những lời trò trau chuốt, cô đọng, giàu hình ảnh, tạo nên sức
miêu tả vừa mang tính bao quát vừa tinh tế vi diệu.
Nhìn chung ở nghệ thuật chèo, không gian và thời gian ước lệ gắn liền với
động tác ước lệ và động tác cách điệu, cùng với hát, múa, nhạc và diễn xuất của
nghệ nhân đã tạo nên những lớp, những mảng chèo đặc sắc
4. Đề tài và nội dung tư tưởng
4.1.Chèo phản ánh hiện thực đời sống xã hội
Cũng như nhiều thể loại văn học dân gian, chèo là tấm gương phản chiếu hiện
thực xã hội Việt Nam ngày trước. Chèo phản ánh những câu chuyện hàng ngày
thường xảy ra nơi thôn dã, hoặc trong nhà quân để thể hiện những mối quan hệ tốt
xấu về mẹ chồng nàng dâu, dì ghẻ con chồng, bè bạn, anh em, tớ thầy. Trong chèo,
ta thấy khá rõ những xung đột giai cấp. Đó là mâu thuẫn giữa người nghèo và người
giàu, giữa nông dân và địa chủ, quan lại. Qua chèo, ta còn thấy được những bi thương
ai oán của thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Những người phụ nữ không thể
làm chủ vận mệnh của mình, bị xã hội xô đẩy, bị thao túng, điều khiển. Trong chèo,
ta còn thấy có sự phản kháng của những người nghèo khổ. Nhiều vở chèo đã tố cáo
những kẻ cầm cân nảy mực cách sâu sắc. Góc chiếu giữa đình của ông cha ta ngày
xưa còn phô bày nhiều thực trạng khác, như cảnh bắt lính (Trương Sinh), cảnh loạn
ly, chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến (Trương Viên), cảnh bắt vạ ăn khoán (Quan Âm Thị Kính). lOMoARcPSD|49605928
4.2.Chèo là loại sân khấu khuyến giáo đạo đức
Đạo đức được thể hiện trong chèo là đạo đức Nho giáo đã được nhân dân
chấp nhận. Nhiều nhà nghiên cứu sân khấu truyền thống đã khẳng định tính giáo
huấn đạo đức chính là một đậc điểm quan trọng trong nội dung phản ánh của chèo.
Chèo ngợi ca những tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức như Trương Viên, Dương
Lễ, Kim Nham, Thị Phương, Châu Long, Cúc Hoa, phê phán những gương xấu về
nết ăn ở, cách ứng xử như Thiệt Thê, Sùng Bà,Tú Bà. Lại có những nhân vật, ngoài
sự phê phán, tác giả dân gian còn kín đáo thể hiện sự cảm thông, như đối với Thị
Mầu, Suý Vân... Và cũng như các câu chuyện cổ tích, trong chèo, cái thiện luôn
thắng cái ác, những con người nghèo khổ, lương thiện, có tâm hồn trong sạch, trải
qua bao gian nan oan trái cuối cùng được hưởng hạnh phúc, may mắn. Như vậy, có
thể nói, khuyến giáo đạo đức là một nội dung chủ yếu của chèo.
4.3.Chèo là sân khấu mang đậm tính hài
Có ý kiến cho rằng chèo không làm cho người ta cười thì không phải là chèo.
Chèo thường đưa lên sân khấu cốt truyện có tình tiết bi thảm, nhưng những màn trào
lộng, hài hước xen kẽ vào trong vở diễn là yếu tố không thể thiếu. Điều đáng bàn ở
đây là các lớp hài càng gây được sức hút mạnh bao nhiêu thì cấu trúc của các vở
chèo lại càng lỏng lẻo và phá vỡ không khí nhất quán cần thiết của nội dung tích
truyện bấy nhiêu. Tuy nhiên các lớp đó lại không thể thiếu được, tạo nên đặc trưng
thẩm mĩ của chèo, tạo nên sự cân bằng, độ căng giãn cần thiết của sân khấu chèo.
Người xem có thể vừa quá uất ức buồn đau cho nỗi oan của Thị Kính hiền hậu trong
cảnh trước thì ở cảnh sau lại cười ngặt ngẽo bởi các lớp hài xuất hiện liên tiếp sau
đó, như màn Mẹ Đốp - Xã trưởng, màn Ngả vạ.
Hài trong chèo được thể hiện thông qua nhân vật hề. Hề chèo có hai loại: Hề
áo ngắn và Hề áo dài. Hề áo ngắn (hề tích cực) đại diện cho những người lao động
nghèo khổ, địa vị thấp kém nhưng thông minh, thường đứng trên quan điểm của nhân
dân để châm biếm, đả kích giai cấp thống trị. Tiêu biểu là hề mồi, hề gậy, hề mõ. Lối lOMoARcPSD|49605928
đối đáp hoạt bát sắc sảo của hề làm quần chúng hả hê. Là những người có địa vị thấp
kém nhất trong xã hội, làm nghề hầu hạ nhưng nhiều khi hề chửi đốp chát vào mặt
quan lại, hương lý,...mà chúng phải chịu, vì hề chửi có chữ, có lý, không ai bắt bẻ
được hề. Hề áo dài (hề tiêu cực) là các nhân vật quan lại, hào lý, thầy đồ,thầy bói,
thầy cúng, thầy phù thủy. Các vai hề tiêu cực này thường tự bộc lộ bản chất tham
lam, ngu ngốc, giả dối, xấu xa của mình, tự giễu mình trên sân khấu. Hề chèo gây
cười chủ yếu thông qua thế tương phản của tính cách và đặc biệt của ngôn ngữ. Ngoài
ra, các nghệ nhân ta xưa đã tạo nên những nét chấm phá trong cách biểu diễn, từ sự
hóa trang, trang phục cho đến hành động cử chỉ, mỗi bước đi của anh hề cũng là một nghệ thuật gây cười. 4.4. Âm nhạc
Trong chèo, âm nhạc giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Chèo có một hệ thống
làn điệu phong phú, có tới khoảng trên dưới 150 làn điệu. Sự có mặt của những từ
như í a, í ơ, ối a, này a, này i...khiến cho giai điệu chèo trở nên uyển chuyển, mềm
mại. Từ sự đa thanh, đa nghĩa, đa hình, đa sắc của tiếng kết hợp với những ngữ khí
tình điệu, thích hợp khi ngâm ngợi đã hình thành nên kiểu nói lối mang sắc thái riêng
của chèọ. Khi diễn viên chuyển từ hát sang nói thường hay từ nói thường sang hát
đều phải dùng nói lối. Bên cạnh kiểu nói lối, âm nhạc trong chèo còn có điệu hình
thành từ việc phổ thơ của bản trò, chủ yếu là nhấn vào trọng âm và ý tứ câu thơ để
tạo vế trống vế mái, với nhịp nội, nhịp ngoại. Chúng đóng vai trò quan trọng trong
việc thể hiện nội tâm, tính cách nhân vật. Điệu và nói lối có cùng chất liệu với nhau
nhưng điệu có cấu trúc ổn định và mang tính ca khúc cao hon nói lối, đánh dấu sự
phát triển của loại hát nói phổ thơ kể chuyện dân tộc. Nhạc khí trong dàn nhạc chèo
khá phong phú. Bộ gõ có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Bộ dây có
đàn nguyệt, đàn nhị. Đồng thời còn có thêm cả sáo và chũm chọe. lOMoARcPSD|49605928 4.5.Múa
Múa trong chèo là sự kế thừa và phát triển truyền thống múa dân gian dân tộc
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Múa chèo thường mềm mại và linh hoạt. Trong chèo,
những động tác múa lễ thức của tín ngưỡng và tôn giáo cũng được khai thác để đưa
vào sử dụng. Múa trong chèo được chia ra làm hai loại: múa chuyên dụng và múa đa
dụng. Múa đa dụng là những động tác múa mà nhân vật nào cũng có thể sử dụng,
còn múa chuyên dụng là những động tác chỉ dùng cho một kiểu nhân vật như múa
chạy đàn của Thị Kính, múa giả điên của Súy Vân. Múa chèo chủ yếu dùng đôi tay,
có cả múa cánh tay, múa cổ tay, múa bàn tay, guộn ngón tay, kết hợp với động tác
múa toàn thân, đặc biệt là đôi mắt.
5. Một số phương diện khác
Hóa trang và phục trang: Hóa trang cho các nhân vật chèo thường đơn giản.
Khi xưa, người nông dân bước lên chiếc chiếu giữa đình diễn chèo thường để mặt
mộc. Ngoại trừ nhân vật hề có trang điểm chút ít để gây cười. Trang phục chèo truyền
thống không phức tạp về kiểu cách bởi được khai thác dựa trên quần áo thường ngày
của người dân Bắc Bộ. Trang phục phù hợp với các kiểu nhân vật: thư sinh, nữ chín,
nữ lệch, lão, mụ, hề áo ngắn, hề áo dài.
Đạo cụ: Đạo cụ trong chèo rất là những vật dụng quen thuộc hàng ngày như
quạt, gậy, nón, khăn. Trong đó, chiếc quạt là đạo cụ quan trọng nhất của sân khấu
chèo. Các vai lão, kép dùng cây quạt thước, vai đào thì dùng quạt hoa. Chiếc quạt
trong tay diễn viên rất đắc dụng trong việc bộc lộ nội tâm, tính cách nhân vật.
Tổ chức biểu diễn: Nguyên tắc tổ chức biểu diễn quan trọng nhất của chèo
truyền thống là đảm bảo tính cộng đồng trong sáng tạo và tiếp nhận. Điều đó được
thể hiện qua hai phương diện: sân khấu biểu diễn và tiếng đế.