Tài liệu Ngôn ngữ học đối chiếu | Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Tài liệu Ngôn ngữ học đối chiếu | Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu gồm 30 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Ngôn ngữ học đối chiếu (KHXH&NV-ĐHQGHCM)
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Lời chào tới lớp Ngôn ngữ học đối chiều EN04.034
Xin chào anh chị, Tôi là Nguyễn Thị Toàn, thạc sĩ ngành ngôn ngữ. Giảng viên Online của
Trung tâm đào tạo E-Learning, Đại học Mở, Hà Nội. Chào mừng anh/chị đến với diễn đàn môn
học Ngôn ngữ học đối chiều . Một bộ môn vô cùng thú vị và mang đến một góc nhìn sâu hơn về
mối tương quan giữa các ngôn ngữ. Hy vọng qua khóa học, anh chị có thể hiểu sâu sắc hơn về
ngôn ngữ mình đang sử dụng, cũng như ứng dụng ngôn ngữ trong công việc. Rất mong anh/chị
ngoài việc nghiên cứu, làm bài tập sẽ tham gia tích cực trên diễn đàn để tiếp cận kiến thức một
cách nhanh chóng và thuận lợi nhất. Xin chúc anh/chị sức khỏe và hoàn thành xuất sắc khóa học!
Tuần 1 …………………
Vai trò của đối chiếu ngôn ngữ trong việc học ngoại ngữ
Chào các bạn, hi vọng tuần học đầu tiên đã giúp bạn nắm được những khái niệm đầu tiên về đối
chiếu ngôn ngữ. Xin giới thiệu tới các bạn một bài thảo luận về "Vai trò của đối chiếu ngôn ngữ
trong học ngoại ngữ" của TS. Đào Hồng Thu đăng trong Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học
Liên Á lần thứ VI, Việt Nam. Hy vọng các bạn cùng tích cực tham gia thảo luận.
Đối chiếu các ngôn ngữ
Đối chiếu các ngôn ngữ cho khả năng xác định không chỉ các dữ kiện và hiện tượng có các
chức năng tương tự trong các ngôn ngữ được đối chiếu, mà còn xác định vị trí của chúng
trong các hệ thống theo chức năng. Ví dụ, khi đề cập đến hệ thống các phương tiện mang nghĩa
chỉ hành động, có thể nói rằng trong tiếng Anh tiếp tố -er chắc chắn là hạt nhân của hệ thống
chức năng các phương tiện tạo ra danh từ chỉ vật mang hành động, hơn nữa, tiếp tố này có khả
năng to lớn trong việc tạo lập các danh từ trên cơ sở một động từ bất kì. Trong tiếng Việt, nhân
tố được dùng để tạo từ chỉ người hành động thường là từ riêng biệt và được gọi là từ tố, ví dụ
"viên" trong các từ nhân viên, sinh viên, viên chức và v.v.
Nghiên cứu đối chiếu ngữ pháp trong văn bản khoa học giải quyết các quan hệ tương đồng
và không tương đồng về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ khoa học. Trong phân tích đối
chiếu ngôn ngữ, các hiện tượng ngôn ngữ càng giống nhau thì càng có nhiều tương đồng về cấu
trúc và hoạt động của ngôn ngữ được đối chiếu. Ví dụ, khi đối chiếu tiếng Việt với tiếng Hán
hoặc với tiếng Thái thì mức độ giống nhau nhiều hơn là đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng
Nga hoặc tiếng Bun. Trong trường hợp đối chiếu các ngôn ngữ rất khác nhau về loại hình thì sẽ
tìm thấy nhiều điểm khác nhau về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ. Sự khác nhau này có tính
hệ thống, khái quát (thanh điệu trong tiếng Việt, cách trong tiếng Nga v.v.). Nếu đối chiếu tiếng
Việt với tiếng Anh thì sẽ tìm thấy nhiều điểm giống nhau hơn trong ngôn ngữ (cùng là các ngôn
ngữ phân tích tính, trật tự câu rõ ràng v.v.). Trong các ngôn ngữ khi đối chiếu luôn tồn tại sự
không tương đồng về ngữ pháp, ngữ nghĩa hoặc tuyến dẫn xuất nghĩa phái sinh. Ví dụ, từ loại
tiếng Việt và tiếng Anh có sự không tương đồng về số lượng và loại hình.
Sự không tương đồng về nghĩa thể hiện cả ở khái niệm ngữ nghĩa của từ, ví dụ, các sắc thái về
mầu sắc là không như nhau trong cả hai ngôn ngữ Anh và Việt: từ blue tiếng Anh được chuyển
dịch sang tiếng Việt với hai nghĩa xanh lơ và xanh nước biển. Mầu sắc trong tiếng Việt được thể
hiện bằng các từ theo mô hình hợp nghĩa, phụ nghĩa và láy lại để tạo ra hàng loạt đơn vị ngôn
ngữ với sắc thái chi tiết hơn so với từ chỉ mầu sắc trong tiếng Anh, ví dụ: xanh - xanh xanh, xanh
nhạt, xanh thắm, xanh da trời, xanh nõn chuối, xanh nước biển, xanh biếc (biêng biếc), xanh lè,
xanh lục, xanh thổ cẩm, xanh cẩm thạch, xanh rêu...
Trong hệ thống ngữ pháp tiếng Anh hiện đại không tồn tại phạm trù cách và giống, không có
khái niệm hai động từ đối lập nhau: chưa hoàn thành thể / hoàn thành thể, ví dụ như trong tiếng
Nga. Phần lớn các cụm từ tiếng Anh được thể hiện ở dạng cụm từ chính phụ, chính xác hơn, ở
dạng cụm từ cố định hoặc thành ngữ (phrases). Các cụm từ này được tạo thành trên cơ sở liên kết
phụ thuộc, bao gồm hai thành tố: thành tố chính (hạt nhân) - kernel và thành tố phụ (bổ sung từ) -
adjunct. Cũng như tiếng Việt, trật tự các thành phần của cụm từ tiếng Anh có ý nghĩa chủ yếu:
một danh từ bất kì đứng trước một danh từ khác đều thực hiện chức năng định ngữ, ví dụ :
An air-flow meter - khí cụ đo lưu lượng không khí
Anticorrosive paint - sơn chống gỉ
Liên kết chính phụ không chỉ được thể hiện ở cụm danh từ, mà còn ở cụm động từ (to work hard,
to fly a plane, to decide to stay, to begin singing, to wait for news...), cụm tính từ (very difficult, proud of his son,...).
Có thể thấy rõ rằng trong tiếng Việt và trong tiếng Anh cấu trúc câu cùng tuân thủ một trật tự
là C - P - O. Thành phần chính của cấu trúc câu trong cả hai ngôn ngữ Việt và Anh là chủ ngữ S
và vị ngữ V, hạt nhân của cấu trúc câu là vị ngữ V. Vị ngữ là thành phần thiết yếu, không thể
thiếu trong cấu trúc một câu bất kì, bởi vì nếu thiếu vị ngữ thì không tồn tại tính vị ngữ của cấu
trúc câu, nghĩa là không tồn tại sự biểu thị các quan hệ thông báo đối với hiện thực. Chủ ngữ
cũng là thành phần cần thiết trong phần lớn các cấu trúc câu, bởi vì nó chỉ nghĩa sự vật của lời
nói hoặc văn bản tạo nên cơ sở nội dung trần thuật, và do đó, tạo nên nội dung giao tiếp. Câu có
cấu trúc gồm cả chủ ngữ và vị ngữ thì được gọi là câu hai thành phần.
Trong tiếng Việt và tiếng Anh, vị trí các thành phần của câu đều có vai trò quan trọng trong
cấu trúc câu. Việc thay đổi vị trí của vị ngữ (vật mang thông tin chủ yếu của câu) đối với chủ
ngữ, nghĩa là thay đổi trật tự từ trong cấu trúc câu thường dẫn đến việc nội dung thông báo của
câu bị thay đổi, hơn nữa, có thể dẫn đến sự thay đổi cả hình thức cấu trúc câu và sắc thái của nó.
Vị trí của vị ngữ đối với chủ ngữ có thể rất đa dạng ở các ngôn ngữ khác nhau. Phần đối chiếu
này không hạn chế trong phạm vi hai ngôn ngữ Việt - Anh. Nghiên cứu có thể được mở rộng hơn
đối với các ngôn ngữ khác để trên cơ sở này người học có thể phát triển nghiên cứu đối chiếu
không chỉ hai ngôn ngữ Việt - Anh, mà còn đối với các ngôn ngữ khác.
Phạm vi đối chiếu có thể được phân định theo các nguyên tắc sau:
- Làm sáng tỏ đặc điểm thể hiện các phạm trù ở ngôn ngữ được nghiên cứu như thời, thể, xác
định, không xác định, phạm trù giống, số, cách, đa nghĩa, đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa v.v.
- Đối chiếu các đặc điểm cấu tạo âm vị, hình vị, từ loại, cú pháp v.v.
- Đối chiếu các đặc điểm hoạt động, hành chức của các hiện tượng, phạm trù ngôn ngữ trong giới hạn các cấp độ.
- Đối chiếu các phong cách chức năng.
- Đối chiếu tiến trình phát triển nhằm làm sáng tỏ các quy luật phát triển và quá trình biến đổi
xảy ra trong nội bộ các ngôn ngữ được nghiên cứu. Tuần 2.1
Các phương thức phân tích đối chiếu
Phương thức phân tích đối chiếu cấu trúc thường bắt đầu bằng đối chiếu đơn vị, thành phần
và cuối cùng là đối chiếu hệ thống. Nghiên cứu đối chiếu này được thể hiện ở chỗ, qua giao
tiếp, khả năng vật chất của các ngôn ngữ được sử dụng là không như nhau: trong tiếng Anh, Nga,
Pháp đều có trọng âm từ, song chức năng của trọng âm trong tiếng Nga và Pháp nhiều hơn do
cùng loại hình, trọng âm tiếng Việt được thể hiện bằng thanh điệu. Nếu đối chiếu hai ngôn ngữ
Việt - Anh, có thể thấy rằng trong tiếng Việt và tiếng Anh có nhiều điểm giống nhau về trọng âm
đơn do cùng ngôn ngữ phân tích tính. Một ví dụ khác, trong các ngôn ngữ có cùng một hiện
tượng mà khả năng hoàn thành chức năng, phạm vi hoạt động không giống nhau như khu biệt âm
vị dài ngắn trong tiếng Anh và tiếng Việt: a (dài/ngắn), i (dài/ngắn) có ý nghĩa âm vị học trong
tiếng Anh, còn trong tiếng Việt thì không có hiện tượng ngôn ngữ này.
Phương thức phân tích đối chiếu hoạt động của ngôn ngữ trong giao tiếp là phương thức
được sử dụng để xác định tính phổ cập hoặc hạn chế của các hiện tượng ngôn ngữ hoặc của
các sự kiện ngôn ngữ tồn tại trong các ngôn ngữ được đối chiếu. Phương thức này cho thấy
hoạt động ngôn ngữ được thể hiện rõ nét ở ngôn ngữ này, nhưng không được thể hiện rõ ở ngôn
ngữ khác. Ví dụ, xét trên bình diện số lượng từ vay mượn trong tiếng Việt và tiếng Anh thì tiếng
Việt chịu sự vay mượn từ nhiều hơn tiếng Anh, hơn nữa, tiếng Việt vay mượn cả các từ tiếng
Anh. Ngoài ra, tiếng Việt còn vay mượn từ của tiếng Hán, Pháp và Nga. Tiếng Anh vay mượn từ
chủ yếu từ tiếng Pháp và Latin (ngôn ngữ dòng Ấn - Âu). Có sự hoạt động của các từ vay mượn
trong các ngôn ngữ Việt và Anh là do hệ quả của các quan hệ loại hình và tiếp xúc khu vực, văn
hóa và lịch sử quy định. Một ví dụ khác, trật tự từ trong nhiều ngôn ngữ thường có các đặc điểm
khác nhau. Trong tiếng Nga, trật tự từ chặt chẽ có phạm vi hoạt động rất hạn chế, trong khi đó,
phạm vi hoạt động của trật tự từ trong tiếng Việt, tiếng Anh lại rất lớn do mang đặc trưng của các
ngôn ngữ phân tích tính. Hơn nữa, trật tự từ trong tiếng Việt được thực hiện một cách rất chặt
chẽ và nghiêm ngặt do chịu ảnh hưởng của một ngôn ngữ đơn lập (không biến hình).
Phương thức phân tích đối chiếu phát triển được sử dụng để xác định đặc điểm và hướng
phát triển của các ngôn ngữ. Sự phát triển ngôn ngữ thể hiện ở các thay đổi cấu trúc nội bộ,
phạm vi hoạt động, chức năng của nó trong các mối quan hệ tương ứng với tiến trình phát triển
xã hội và lịch sử. Ví dụ, khi so sánh tiếng Việt và tiếng Anh trên bình diện phát triển thì thấy
tiếng Việt ngày nay không còn được hoàn toàn như tiếng Nôm trước đây về cấu tạo từ và câu.
Trong khi đó, tiếng Anh hầu như không thay đổi. Qua đối chiếu có thể thấy các ngôn ngữ đã trải
qua các giai đoạn phát triển nào. Trên cơ sở này có thể phân loại các đặc điểm cấu trúc đồng đại
của ngôn ngữ trong các mối quan hệ đối chiếu.
Vấn đề các đặc điểm ngôn ngữ luôn gắn liền với vấn đề về mục đích dạy và học ngoại ngữ như
ngôn ngữ thứ hai trong quá trình học tập và giảng dạy. Vấn đề chủ yếu ở đây là hoạt động lời nói
bằng ngoại ngữ của người học phải đạt kết quả khả quan.
Phương pháp tối ưu cho việc học ngoại ngữ là quá trình tiếp nhận các cấu trúc ngữ pháp
bằng tiếng mẹ đẻ có thể diễn ra ở người học một cách tự động và chuyển dịch được sang
ngoại ngữ. Thông thường, khi học ngoại ngữ luôn diễn ra quá trình phân tích đối chiếu ít nhất là
hai ngôn ngữ : tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ được học, và ngược lại, ngoại ngữ được học và tiếng mẹ
đẻ. L.V.Serba đã nêu một luận điểm quan trọng là không chỉ đối chiếu tiếng nước ngoài với tiếng
mẹ đẻ, mà còn đối chiếu tiếng mẹ đẻ với tiếng nước ngoài. Bằng phương thức này, việc học
ngoại ngữ là phương tiện tối ưu để hiểu sâu sắc thêm tiếng mẹ đẻ. Nhưng nếu ý nghĩa của ngoại
ngữ là to lớn đối với bản ngữ, thì hiển nhiên là bản ngữ cũng có ý nghĩa trọng đại đối với việc
học ngoại ngữ. Xuất phát từ những lợi ích của đối chiếu bản ngữ và ngoại ngữ vì các mục đích
học tập, tồn tại một số nguyên tắc chung cho việc đối chiếu như vậy.
Tuần 2.1 Các nguyên tắc và quy trình đối chiếu ngôn ngữ Lê Đình Tư
1. Cơ sở đối chiếu ngôn ngữ
1.1 Đối chiếu và các kiểu đối chiếu
– Việc so sánh nói chung thường được thực hiện khi các sự vật hay hiện tượng được lấy làm đối
tượng so sánh nằm trong cùng một phạm trù, nghĩa là thuộc cùng một loại. Chẳng hạn, ta có thể
so sánh hai cái bàn vì chúng thuộc cùng một loại sự vật. Chính vì chúng thuộc cùng một loại sự
vật nên giữa chúng có những điểm chung để so sánh, ví dụ: kích thước, chất liệu, hình dáng…
Loại so sánh này nhằm mục đích tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa các sự vật hay hiện tượng.
– Tuy nhiên, người ta cũng có thể so sánh các sự vật hay hiện tượng nhằm mục đích chứng minh
hay làm nổi rõ một đặc điểm nào đó của sự vật hay hiện tượng. Trong trường hợp này, các sự vật
hay hiện tượng được đem ra so sánh có thể thuộc về những loại, những phạm trù khác nhau. Ví
dụ: F. de Saussure so sánh cơ chế ngôn ngữ với bàn cờ, hay giá trị ước lệ của một tín hiệu ngôn
ngữ với một quân cờ. Loại so sánh này chủ yếu chú ý đến điểm tương đồng giữa các đối tượng
so sánh mà ít chú ý đến sự khác biệt giữa chúng.
Kiểu so sánh thứ nhất mang tính khách quan nên được dùng làm phương pháp nghiên cứu chủ
đạo trong ngôn ngữ học đối chiếu nói riêng, cũng như trong ngôn ngữ học so sánh nói chung.
Nói cách khác, trong ngôn ngữ học đối chiếu, những yếu tố được đem so sánh bao giờ cũng đồng
loại với nhau. Đồng loại là điều kiện tiên quyết của sự so sánh/đối chiếu.
1.2 Tiêu chí đối chiếu
– Điểm chung hay cơ sở để đối chiếu các hiện tượng ngôn ngữ gọi là tiêu chí đối chiếu. Tiêu chí
đối chiếu sẽ quyết định đến kết quả đối chiếu. Chẳng hạn, khi đối chiếu phụ âm /s/ và phụ âm /t/,
nếu xét theo phương thức cấu âm thì hai phụ âm này khác nhau hoàn toàn, nhưng khi xét về vị trí
cấu âm thì hai phụ âm này đều là phụ âm đầu lưỡi. Tiêu chí đối chiếu được coi như một thứ siêu
ngôn ngữ, không thuộc riêng một ngôn ngữ nào trong số những ngôn ngữ được đối chiếu.
– Trong đối chiếu ngôn ngữ, chỉ những đối tượng tương đương với nhau mới có thể so sánh với
nhau. Qua so sánh, đối chiếu, ta xác định được những điểm giống nhau và khác nhau giữa các
đơn vị hay cấu trúc ngôn ngữ tương đương. Ví dụ: Cám ơn! và Dziękuję! là hai cách nói tương
đương nhưng trong tiếng Việt, cách nói này không phải lúc nào cũng được sử dụng. Khi cám ơn
người già, người có chức vụ cao hoặc trong những tình huống giao tiếp thân mật, người Việt
thường phải dùng những cách nói khác, ví dụ: “Cháu xin bà!”; “Anh chu đáo quá!”… Hay phạm
trù giống trong tiếng Nga và tiếng Pháp là những phạm trù tương đương, nhưng người Nga phân
biệt 3 giống còn người Pháp chỉ phân biệt hai giống. Trong khi đó việc đối chiếu phạm trù giống
tiếng Nga và tiếng Việt sẽ không thực hiện được vì trong tiếng Việt không có phạm trù giống tương đương.
– Mỗi cấp độ hay mỗi bình diện ngôn ngữ đều có những tiêu chí đối chiếu riêng. Trên cấp độ
ngữ âm thì đó là sự giống nhau của bộ máy phát âm của tất cả mọi người trên thế giới; trên cấp
độ từ vựng-ngữ nghĩa thì đó có thể là sự giống nhau về hiện thực khách quan hay về nội dung tư
duy; trên cấp độ câu thì sự giống nhau về quan hệ: chủ thể-hành động-khách thể sẽ là tiêu chí đối
chiếu… Chính nhờ những tiêu chí (tertium comparationis) này mà chúng ta mới có thể học được
ngôn ngữ của nhau và dịch được các văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
1.3 Các kiểu đối chiếu
– Đối chiếu định lượng: Là kiểu đối chiếu nhằm xác định những khác biệt về số lượng các yếu tố
ngôn ngữ xét theo một tiêu chí đối chiếu nào đó. Ví dụ: Đối chiếu số lượng các nguyên âm hay
số lượng các từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt và tiếng Anh. Kiểu đối chiếu này giúp xác định
những “lỗ hổng” trong cấu trúc của ngôn ngữ này so với ngôn ngữ khác.
– Đối chiếu định tính: Là kiểu đối chiếu nhằm tìm ra những đặc điểm (những điểm giống nhau
và khác nhau) giữa các yếu tố ngôn ngữ tương đương của hai ngôn ngữ. Ví dụ: Đối chiếu trọng
âm của tiếng Việt và tiếng Anh. Kiểu đối chiếu này có quan hệ chặt chẽ với kiểu đối chiếu thứ nhất.
2. Các nguyên tắc đối chiếu
– Các yếu tố ngôn ngữ phải được miêu tả đầy đủ. Việc đối chiếu được thực hiện trên cơ sở các bản miêu tả đó.
– Khi đối chiếu các yếu tố ngôn ngữ, phải đặt chúng trong hệ thống, không chỉ chú ý đến bản thân chúng.
– Không chỉ xem xét các yếu tố ngôn ngữ trong hệ thống mà còn phải xem xét chúng trong hoạt động giao tiếp.
– Phải mô tả các yếu tố của hai ngôn ngữ với cùng một phương pháp.
– Phải tính/ chú ý đến loại hình của hai ngôn ngữ được đối chiếu.
3. Quy trình đối chiếu
Từ các nguyên tắc đối chiếu trên đây, một quy trình đối chiếu đã được xác lập:
– Bước 1: Miêu tả hoặc tìm bản miêu tả ngôn ngữ thích hợp nhất với mục đích đối chiếu. Đối với
việc đối chiếu bản dịch, cần tìm được bản dịch tương đương, hoặc dùng bản dịch của các dịch giả có uy tín.
– Bước 2: Xác định những cái có thể đối chiếu với nhau được, tức là xác định các yếu tố tương đương.
– Bước 3: Thực hiện công việc đối chiếu, tìm ra những điểm đồng nhất và khác biệt của những
cái tương đương trong hai ngôn ngữ.
Tuần 3.1 Các cấp độ đối chiếu ngữ nghĩa
(lược trích và bổ sung bài: Lê Đình Tư. Những vấn đề ngữ nghĩa học âm vị. Tạp chí khoa học ngoại ngữ 3, 2005)
Như trên đã nói, ngôn ngữ học phân biê ̣t hai bình diê ̣n của ngôn ngữ: bình diê ̣n biểu hiê ̣n và bình
diê ̣n nôi dung hay bình diê ̣n ngữ nghĩa. Nói về bình diê ̣n biểu hiê ̣n của ngôn ngữ là nói về cấu
trúc hình thức của các đơn vị ngôn ngữ, còn nói về bình diê ̣n nô ̣i dung là nói về ý nghĩa của các
đơn vị đó. Với quan niê ̣m đó, người ta cũng đã vạch ra mô ̣t đường ranh giới cho các lĩnh vực
nghiên cứu ngôn ngữ: Mô tả mă ̣t biểu hiê ̣n của ngôn ngữ, chúng ta đi từ cấp đô ̣ âm vị, còn khi
mô tả mă ̣t nô ̣i dung của nó thì bắt đầu từ cấp đô ̣ hình vị. Âm vị được coi là những đơn vị ngôn
ngữ nhỏ nhất dùng để cấu tạo nên mă ̣t ngữ âm của ngôn ngữ và không có nghĩa, còn hình vị là
đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Kết quả là, khi đề câ ̣p đến bình diê ̣n ngữ nghĩa của ngôn
ngữ, cấp đô ̣ âm vị thường bị bỏ qua. Nói cách khác, ngữ nghĩa học thường được coi là lĩnh vực
ngôn ngữ học nghiên cứu những cấp đô ̣ ngôn ngữ lớn hơn âm vị. Trong thực tế, khi đối chiếu
những vấn đề ngữ nghĩa giữa các ngôn ngữ, người ta cũng thường tập trung chủ yếu vào cấp độ
từ vựng, bởi vì các đơn vị từ vựng như từ, thành ngữ được coi là những đơn vị có nghĩa hoàn
chỉnh và có thể xác định được những đơn vị tương đương trong ngôn ngữ khác để đối chiếu.
Tuy nhiên, từ lâu người ta đã để ý đến các hiê ̣n tượng tượng thanh hay tượng hình, tức là những
trường hợp mà âm thanh của ngôn ngữ có quan hê ̣ khá chă ̣t chẽ với những gì chúng biểu đạt
trong thực tế khách quan. Chẳng hạn, H. Schreuder (1970) đã nhâ ̣n ra rằng, tổ hợp âm ‘ash’
trong tiếng Anh rất hay được dùng để biểu đạt những đô ̣ng tác nhanh hoă ̣c đô ̣t ngô ̣t, ví dụ: flash
(lóe sáng), dash (lao tới, ném mạnh), crash (đâm sầm xuống), hay tổ hợp âm vị /bl/ (cũng trong
tiếng Anh) thường xuất hiê ̣n trong các từ biểu thị sự khó chịu, ghê tởm hay chán ngấy, ví du:
bland smile (nụ cười nhạt nhẽo), blare (làm om sòm), blast (nguyền rủa)… Thâ ̣m chí, tác giả còn
thấy rằng, trong mô ̣t số trường hợp, mối quan hê ̣ giữa âm thanh ngôn ngữ (không chỉ là từ tượng
thanh) và ý nghĩa chă ̣t chẽ tới mức chúng có thể ảnh hưởng tới viê ̣c thay đổi ý nghĩa của từ trong
quá khứ, khiến hiê ̣n nay mô ̣t số tổ hợp âm trong tiếng Anh biểu thị những ý nghĩa tiêu cực thay
vì ý nghĩa trung hòa như trước đây. Chẳng hạn, âm vị /u/ khi kết hợp với mô ̣t số âm vị khác (ví
dụ như với /l/, /ʃ/ hay /p/) thường biểu đạt những sự vâ ̣t, sự viê ̣c được đánh giá tiêu cực, ví dụ:
allure (cám dỗ, quyến rũ), shrew (người dàn bà đanh đá, đô ̣c ác), putrid (thối tha, đồi bại).
Những hiên tượng tương tự trong tiếng Pháp cũng đã được P. Guiraud (1971) đề câ ̣p đến trong
tác phẩm “La semantique”. Trên địa bàn tiếng Viê ̣t, Nguyễn Hữu Quỳnh (1994) cũng đã nêu
nhâ ̣n xét rằng, mô ̣t số vần và nguyên âm “có khả năng biểu thị một nét nghĩa nào đó về trạng
thái, họat động, tính chất.”. Ví dụ: vần ‘it’ trong tiếng Viê ̣t biểu thị mô ̣t nét nghĩa chung là ‘làm
kín, làm chặt thêm’ của các từ ‘bịt’,’khít’,‘thít’…, trong khi vần ‘óp’ mang nét nghĩa ‘giảm thể
tích, thu nhỏ khối lượng’ như trong các từ ‘bóp’, hay‘tọp’. Nghiêm túc hơn, các nhà phong cách
học cũng đã bàn khá nhiều về giá trị tu từ học của các yếu tố ngữ âm trong các ngôn ngữ. Xa hơn
nữa, W. Humboldt cũng đã nhìn nhâ ̣n ý nghĩa biểu trưng của các đơn vị ngữ âm trong các ngôn ngữ.
Nhìn mô ̣t cách tổng thể, các nhà ngôn ngữ học này, ở những mức đô ̣ và góc đô ̣ khác nhau, đều
thừa nhâ ̣n tính có lí do nhất định của âm thanh ngôn ngữ. Họ cho rằng không phải lúc nào mối
quan hê ̣ giữa mă ̣t âm và mă ̣t nghĩa trong ngôn ngữ cũng đều mang tính võ đoán, rằng các ngôn
ngữ có những lí do và cách thức khác nhau để lựa chọn các phương tiê ̣n ngữ âm nhằm biểu đạt
những sự vâ ̣t, hiê ̣n tượng, đă ̣c trưng, hay tính chất trong thực tế khách quan. Sự lựa chọn này có
liên quan đến bản thân các âm thanh ngôn ngữ và các mối quan hê ̣ đối lâ ̣p giữa chúng với nhau.
Nói cách khác, trong mô ̣t số trường hợp, người ta thừa nhâ ̣n có sự hài hòa nhất định giữa mă ̣t âm
thanh và mă ̣t nghĩa của các tín hiê ̣u ngôn ngữ.
Như vậy, âm vị có thể được sử dụng theo hai mục đích khác nhau: 1/tạo ra các từ, và 2/ tạo nghĩa
mới cho các từ. Trong mục đích thứ nhất, các âm vị tạo ra các từ khác nhau nhờ những thế đối
lâ ̣p về các nét khu biệt của chúng, còn trong mục đích thứ hai, từ được bổ sung mô ̣t ý nghĩa mới
nào đấy nhờ viê ̣c khai thác các giá trị ngữ nghĩa mà các âm vị có thể mang lại. Sự tồn tại các giá
trị ngữ nghĩa của âm vị khiến cho sự phân biê ̣t hai bình diê ̣n của ngôn ngữ, tức bình diê ̣n biểu
hiê ̣n và bình diê ̣n ngữ nghĩa theo cách xưa nay, trở nên không rõ ràng hoă ̣c/và không triê ̣t để.
Ngữ nghĩa học truyền thống không quan tâm đến hoă ̣c không thừa nhâ ̣n những giá trị ngữ nghĩa
của những đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn hình vị. Đó là cái phần dư ngữ nghĩa trong ngôn ngữ mà
ngôn ngữ học chưa có cách giải quyết dứt khoát. Thông thường, khi nhâ ̣n thấy mô ̣t hiê ̣n tượng
ngôn ngữ nào đấy mang giá trị ngữ nghĩa, người ta cứ nghĩ trước hết đến sự hiê ̣n diê ̣n của hình vị hay từ.
Sự thừa nhâ ̣n giá trị ngữ nghĩa của các âm vị, hoă ̣c phức thể âm vị, tạo tiền đề cho viê ̣c hình
thành mô ̣t bô ̣ môn nghiên cứu mới: Ngữ nghĩa học âm vị (semantyka fonemów lub
fonosemantyka), bộ môn nghiên cứu giá trị ngữ nghĩa của cấp đô ̣ âm vị.
Ngữ nghĩa học âm vị có vẻ liên quan nhiều hơn đến ngữ dụng học, bởi vì loại ý nghĩa này phụ
thuô ̣c nhiều vào các hoạt đô ̣ng giao tiếp ngôn ngữ cụ thể. Tuy nhiên, ý nghĩa của các âm vị
không chỉ liên quan đến sự vâ ̣n dụng ngôn ngữ mà còn liên quan đến cả lịch sử phát triển của
ngôn ngữ, nghĩa là vừa có tính chất đồng đại vừa có tính chất lịch đại. Ngữ nghĩa học âm vị có ý
nghĩa thực tiễn to lớn: Nó giúp giải thích nhiều hiê ̣n tượng ngữ nghĩa trong các ngôn ngữ, nhờ đó
giúp ta hiểu rõ hơn bản chất của những hiê ̣n tượng ngôn ngữ như đồng nghĩa, dị nghĩa, các tên
riêng, sự hài âm, chơi chữ , hay đă ̣c điểm cấu tạo của các tiếng xã hô ̣i trong mô ̣t cô ̣ng đồng ngôn ngữ.
Như vậy, các nghiên cứu ngữ nghĩa học âm vị sẽ bổ sung những thông tin làm cho bức tranh về
các bình diê ̣n ngữ nghĩa của ngôn ngữ được hoàn chỉnh hơn. Với ngữ nghĩa học âm vị, cấu trúc
các bình diê ̣n của ngôn ngữ trở nên nhất quán hơn: trên bình diê ̣n biểu hiê ̣n, chúng ta nghiên cứu
toàn bô ̣ mă ̣t cấu tạo hình thức của ngôn ngữ: đi từ âm vị đến văn bản, còn trên bình diê ̣n ngữ
nghĩa, chúng ta xem xét toàn bô ̣ mă ̣t nô ̣i dung của ngôn ngữ, cũng đi từ âm vị đến văn bản. Điều
này cũng có nghĩa là ngữ nghĩa học đối chiếu cũng quan tâm đến cả cấp độ âm vị của ngôn ngữ.
Tuần 3.2 ĐỐI CHIẾU CẤP ĐỘ NGỮ PHÁP
Posted by tuldvnhloc trên Tháng Tư 10, 2010 Lê Đình Tư
1. Hệ thống ngữ pháp dưới góc độ ngôn ngữ học đối chiếu
– Hệ thống ngữ pháp là hệ thống bao trùm lên tất cả các cấp độ ngôn ngữ nên việc đối chiếu các
hệ thống ngữ pháp có thể thực hiện trên nhiều cấp độ khác nhau. Thực tế có nhiều nhà nghiên
cứu đã từ bỏ khái niệm ngữ pháp mà sử dụng khái niệm ngữ kết, lĩnh vực nghiên cứu về tất cả
các mối quan hệ của mọi đơn vị ngôn ngữ, từ ngữ âm-âm vị đến văn bản.
– Theo khái niệm truyền thống thì ngữ pháp bao gồm hai bộ phận chính là: Hình thái học và Cú
pháp học. Tuy nhiên, khái niệm Hình thái học không phù hợp lắm với những ngôn ngữ không
biến hình nên thường được thay thế bằng tên gọi Cấu tạo từ hay Từ pháp học, những khái niệm
liên quan nhiều hơn đến cấp độ từ vựng.
– Do vậy, khi đối chiếu các hệ thống ngữ pháp, cần xác định rõ các đối tượng đối chiếu cụ thể,
xem đó là những yếu tố của cấp độ nào, tránh lẫn lộn các cấp độ ngôn ngữ. Cấp độ ngữ pháp
không phải bao giờ cũng cao hơn cấp độ từ vựng mà chủ yếu là cấp độ liên quan đến việc kết
hợp các đơn vị ngôn ngữ.
2. Các cấp độ trong đối chiếu ngữ pháp
2.1. Cấp độ hình thái học
– Hình vị ngữ pháp
Hình vị ngữ pháp được coi là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp. Đây là các phương tiện để thể hiện
các ý nghĩa ngữ pháp cũng như các mối quan hệ cú pháp. Hình vị ngữ pháp trong các ngôn ngữ
không biến hình có thể hoạt động với tư cách là những từ độc lập và có thể có nhiều chức năng
nên khi đối chiếu các hình vị ngữ pháp, cần nêu được chức năng ngữ pháp của chúng. Ví dụ:
những trong tiếng Việt chỉ có chức năng ngữ pháp khi dùng để biểu thị số nhiều (ví dụ: những
hoạt động), nhưng sẽ là hình vị từ vựng khi dùng để nhấn mạnh (ví dụ: ăn hết những một con
gà). Đặc biệt, trong các ngôn ngữ không biến hình, ranh giới giữa từ và hình vị nhiều khi không
rõ ràng nên người ta thường dùng khái niệm từ hư (hoặc hư từ) khi nói đến hình vị ngữ pháp.
Đối chiếu các hình vị ngữ pháp có thể phát hiện được những khác biệt về thuộc tính của các hình
vị ngữ pháp như: quan hệ giữa hình vị ngữ pháp và âm tiết (có hình vị nhỏ hơn âm tiết hay
không), quan hệ giữa hình vị ngữ pháp và từ, khả năng biến đổi hình thái, khả năng biểu thị các ý
nghĩa ngữ pháp như từ loại, giống, số, ngôi, thời…, mức độ hòa kết chức năng biểu thị ý nghĩa
ngữ pháp trong hình vị, vị trí của hình vị ngữ pháp trong từ hoặc ngoài từ…
– Các ý nghĩa ngữ pháp và phạm trù ngữ pháp
+ Có ba loại ý nghĩa ngữ pháp: ý nghĩa hình thái, ý nghĩa chức năng và ý nghĩa từ loại. Ý nghĩa
hình thái cho ta biết kiểu cấu tạo và hệ biến đổi hình thái của từ. Ý nghĩa chức năng cho ta biết
chức năng ngữ pháp của từ trong cụm từ và câu. Ý nghĩa từ loại cho ta biết khả năng đảm nhận
các chức năng ngữ pháp của từ. Trong các ngôn ngữ có thể có sự khác nhau tương đối lớn về
cách thể hiện các loại ý nghĩa ngữ pháp này. Chẳng hạn, tiếng Việt không có sự biến đổi hình
thái của các hình vị hoặc từ để thể hiện các ý nghĩa như cách, số, thời, ngôi, thức, do đó các ý
nghĩa này phải được thể hiện bằng các từ/hình vị được ngữ pháp hóa, ví dụ: của vốn là danh từ
nhưng được ngữ pháp hóa thành giới từ để thể hiện ý nghĩa cách (sở hữu cách).
+ Các ý nghĩa ngữ pháp có thể được khái quát hóa thành các phạm trù ngữ pháp. Số lượng và
chất lượng các phạm trù ngữ pháp trong các ngôn ngữ có thể không giống nhau. Ví dụ: Tiếng
Việt không có phạm trù giống, trong tiếng Pháp có phạm trù giống nhưng không có giống trung
như tiếng Nga. Nhiều ngôn ngữ có phạm trù số nhưng không có số đôi. Ngay cả những ý nghĩa
ngữ pháp có tính phổ quát như ý nghĩa từ loại các ngôn ngữ cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, so
sánh từ loại của tiếng Việt và tiếng Anh, ta có thể phát hiện ra những sự khác biệt về số lượng từ
loại (trong tiếng Anh có trạng từ nhưng tiếng Việt không có), về thuộc tính của từ loại (ví dụ:
trong tiếng Nga, từ loại biến đổi theo giống, số, cách, còn tiếng Việt danh từ biến đổi hình thức
để thể hiện thái độ, tình cảm). Cách thể hiện từ loại cũng không giống nhau. Các ngôn ngữ biến
hình thể hiện ý nghĩa từ loại thông qua hình vị ngữ pháp nhưng các ngôn ngữ không biến hình
chỉ có thể xác định từ loại của từ thông qua khả năng kết hợp của từ với các từ khác. Giữa các
ngôn ngữ còn có sự khác biệt về khả năng chuyển đổi từ loại của các từ. Ví dụ: Danh từ tiếng
Việt có thể chuyển thành tính từ hay động từ có thể biến thành danh từ (ví dụ: mưa, thay đổi),
trong khi ở một ngôn ngữ khác từ có thể không có khả năng này.
– Các phương thức ngữ pháp
+ Sự khác biệt về cách thể hiện ý nghĩa ngữ pháp (tức là phương thức ngữ pháp) là cơ sở quan
trọng nhất để phân biệt loại hình ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ được coi là tiêu chí quan trọng
để đánh giá mức độ khó khăn trong việc học một ngoại ngữ: người học ngoại ngữ cùng loại hình
với tiếng mẹ đẻ sẽ dễ hơn so với ngoại ngữ khác loại hình.
+ Đối chiếu các phương thức ngữ pháp là đối chiếu xem hai ngôn ngữ khác nhau như thế nào về
các phương thức: phụ gia, biến hình trong từ căn, trọng âm, ngữ điệu, thay từ căn, trật tự từ, hư
từ, láy, chắp dính. Tuần 4 .1
Câu hỏi ôn tập tuần 4!
Xin chào các bạn, dưới đây là một số câu hỏi ôn tập về ngôn ngữ học đối chiếu!
Hi vọng các bạn cùng tham gia thảo luận trên diễn đàn!
Câu 1.Ngôn ngữ học đối chiếu là gì?
Câu 2: Hãy phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ học đối chiếu.
Câu 3: Sự giống và khác nhau giữa so sánh và ngôn ngữ học đối chiếu? Tuần 4.2
Gợi ý câu hỏi ôn tập tuần 4!
Câu 1.Ngôn ngữ học đối chiếu là gì?
Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân ngành của ngôn ngữ học sử dụng phương pháp so sánh đối
chiếu để tìm ra những nét tương
đồng và dị biệt của hai hay nhiều ngôn ngữ nhằm cung cấp những cứ liệu cần thiết cho các
phân ngành của ngôn ngữ học, phục vụ các mục đích lí luận và thực tiễn.
Câu 2: Hãy phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ học đối chiếu.
Đặc điểm chủ yếu của ngôn ngữ học đối chiếu
2.1. Phạm vi nghiên cứu: Ngôn ngữ học đối chiếu thường nghiên cứu, xem xét
nhiều ngôn ngữ, ít nhất là một cặp ngôn ngữ. Nó xem xét sự giống và khác nhau về hình thức, cấu
trúc, hoạt động và sự phát triển của ngôn ngữ, nghiên cứu sự giống và khác nhau thể hiện qua nội
dung, ý nghĩa và chức năng của ngôn ngữ.
2.2. Mục đích nghiên cứu (ý nghĩa của việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ)
a. Đối với ngôn ngữ học đại cương: nhờ kết quả của ngôn ngữ học đối chiếu,
ngôn ngữ học đại cương trong nhiều trường hợp có thể bổ sung, điều chỉnh, kiểm chứng các khái niệm, phạm trù.
b. Đối với ngôn ngữ học mô tả: có nhiệm vụ nghiên cứu cấu trúc, hệ thống ngôn ngữ.
Ngôn ngữ học đối chiếu có tác dụng nhất định đối với ngôn ngữ học môt tả:
1) cung cấp cứ liệu cần thiết cho ngôn ngữ học mô tả;
2) kiểm định xem sự mô tả có chính xác hay không.
c. Đối với loại hình học: là so sánh, đối chiếu và phân loại về mặt loại hình. Trong nhiều trường
hợp, các cứ liệu của ngôn
ngữ học đối chiếu cho phép kiểm chứng, bổ sung, làm sáng tỏ thêm các đặc điểm của loại hình học.
d. Đối với dịch thuật: ngôn ngữ học đối chiếu cung cấp những cơ sở dữ liệu về đối chiếu, những hiểu
biết về mối quan hệ giữa sự giống và khác nhau giữa các ngôn ngữ, những phương pháp, thủ pháp
để chuyển đổi đơn vị của ngôn ngữ này thành dạng thức tương đương ở ngôn ngữ khác. Mối quan
hệ giữa dịch thuật và ngôn ngữ học đối chiếu là mối quan hệ tự nhiên.
Câu 3: Sự giống và khác nhau giữa so sánh và ngôn ngữ học đối chiếu?
Đặt ngôn ngữ học đối chiếu trong mối quan hệ với các phân ngành so sánh để trả lời cho câu hỏi về
nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu: tất cả đều có đặc điểm chung là dùng phương pháp đối chiếu
so sánh. Điểm khác nhau là: So sánh loại hình nghiên cứu sự giống và khác nhau của các ngôn ngữ
về mặt cấu trúc, từ đó thiết lập và phân loại các ngôn ngữ. So sánh khu vực (ngữ vực) nghiên cứu
mọi mặt các ngôn ngữ để tìm hiểu sự ảnh hưởng qua lại, tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. So sánh lịch sử
tìm ra những nét tương đồng, quan hệ họ hang của các ngôn ngữ để quy chúng vào những phổ hệ
ngôn ngữ cụ thể khác nhau nhằm tìm ra nguồn gốc của ngôn ngữ. So sánh đối chiếu là áp dụng
phương pháp so sánh để nghiên cứu sự tương đồng và dị biệt giữa các ngôn ngữ. Tuần 5.1
So sánh âm vị nội ngôn ngữ.
(Lược trích từ: Những vấn đề ngữ nghĩa học âm vị. Tạp chí khoa học ngoại ngữ 3, 2005)
Như các bạn đã biết, ngôn ngữ học phân biê ̣t hai bình diê ̣n của ngôn ngữ: bình diê ̣n biểu
hiê ̣n và bình diê ̣n nôi dung hay bình diê ̣n ngữ nghĩa. Nói về bình diê ̣n biểu hiê ̣n của ngôn ngữ
là nói về cấu trúc hình thức của các đơn vị ngôn ngữ, còn nói về bình diê ̣n nô ̣i dung là nói về ý
nghĩa của các đơn vị đó. Với quan niê ̣m đó, người ta cũng đã vạch ra mô ̣t đường ranh giới cho
các lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ: Mô tả mă ̣t biểu hiê ̣n của ngôn ngữ, chúng ta đi từ cấp đô ̣ âm
vị, còn khi mô tả mă ̣t nô ̣i dung của nó thì bắt đầu từ cấp đô ̣ hình vị. Âm vị được coi là những đơn
vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để cấu tạo nên mă ̣t ngữ âm của ngôn ngữ và không có nghĩa, còn
hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Kết quả là, khi đề câ ̣p đến bình diê ̣n ngữ nghĩa
của ngôn ngữ, cấp đô ̣ âm vị thường bị bỏ qua. Nói cách khác, ngữ nghĩa học thường được coi là
lĩnh vực ngôn ngữ học nghiên cứu những cấp đô ̣ ngôn ngữ lớn hơn âm vị. Trong thực tế, khi đối
chiếu những vấn đề ngữ nghĩa giữa các ngôn ngữ, người ta cũng thường tập trung chủ yếu vào
cấp độ từ vựng, bởi vì các đơn vị từ vựng như từ, thành ngữ được coi là những đơn vị có nghĩa
hoàn chỉnh và có thể xác định được những đơn vị tương đương trong ngôn ngữ khác để đối chiếu.
Tuy nhiên, từ lâu người ta đã để ý đến các hiê ̣n tượng tượng thanh hay tượng hình, tức là những
trường hợp mà âm thanh của ngôn ngữ có quan hê ̣ khá chặt chẽ với những gì chúng biểu đạt
trong thực tế khách quan. Chẳng hạn, H. Schreuder (1970) đã nhâ ̣n ra rằng, tổ hợp
âm ‘ash’ trong tiếng Anh rất hay được dùng để biểu đạt những đô ̣ng tác nhanh hoă ̣c đô ̣t ngô ̣t, ví
dụ: flash (lóe sáng), dash (lao tới, ném mạnh), crash (đâm sầm xuống), hay tổ hợp âm vị /bl/
(cũng trong tiếng Anh) thường xuất hiê ̣n trong các từ biểu thị sự khó chịu, ghê tởm hay chán
ngấy, ví du: bland smile (nụ cười nhạt nhẽo), blare (làm om sòm), blast (nguyền rủa)… Thâ ̣m
chí, tác giả còn thấy rằng, trong mô ̣t số trường hợp, mối quan hê ̣ giữa âm thanh ngôn ngữ (không
chỉ là từ tượng thanh) và ý nghĩa chă ̣t chẽ tới mức chúng có thể ảnh hưởng tới viê ̣c thay đổi ý
nghĩa của từ trong quá khứ, khiến hiê ̣n nay mô ̣t số tổ hợp âm trong tiếng Anh biểu thị những ý
nghĩa tiêu cực thay vì ý nghĩa trung hòa như trước đây. Chẳng hạn, âm vị /u/ khi kết hợp với mô ̣t
số âm vị khác (ví dụ như với /l/, /ʃ/ hay /p/) thường biểu đạt những sự vâ ̣t, sự viê ̣c được đánh giá
tiêu cực, ví dụ: allure (cám dỗ, quyến rũ), shrew (người dàn bà đanh đá, đô ̣c ác), putrid (thối tha,
đồi bại). Những hiên tượng tương tự trong tiếng Pháp cũng đã được P. Guiraud (1971) đề câ ̣p
đến trong tác phẩm “La semantique”. Trên địa bàn tiếng Viê ̣t, Nguyễn Hữu Quỳnh (1994) cũng
đã nêu nhâ ̣n xét rằng, mô ̣t số vần và nguyên âm “có khả năng biểu thị một nét nghĩa nào đó về
trạng thái, họat động, tính chất.”. Ví dụ: vần ‘it’ trong tiếng Viê ̣t biểu thị mô ̣t nét nghĩa chung
là ‘làm kín, làm chặt thêm’ của các từ ‘bịt’,’khít’,‘thít’…, trong khi vần ‘óp’ mang nét nghĩa
‘giảm thể tích, thu nhỏ khối lượng’ như trong các từ ‘bóp’, hay‘tọp’. Nghiêm túc hơn, các nhà
phong cách học cũng đã bàn khá nhiều về giá trị tu từ học của các yếu tố ngữ âm trong các ngôn
ngữ. Xa hơn nữa, W. Humboldt cũng đã nhìn nhâ ̣n ý nghĩa biểu trưng của các đơn vị ngữ âm trong các ngôn ngữ.
Nhìn một cách tổng thể, các nhà ngôn ngữ học này, ở những mức độ và góc độ khác nhau,
đều thừa nhận tính có lí do nhất định của âm thanh ngôn ngữ. Họ cho rằng không phải lúc
nào mối quan hê ̣ giữa mă ̣t âm và mă ̣t nghĩa trong ngôn ngữ cũng đều mang tính võ đoán, rằng
các ngôn ngữ có những lí do và cách thức khác nhau để lựa chọn các phương tiê ̣n ngữ âm nhằm
biểu đạt những sự vâ ̣t, hiê ̣n tượng, đă ̣c trưng, hay tính chất trong thực tế khách quan. Sự lựa chọn
này có liên quan đến bản thân các âm thanh ngôn ngữ và các mối quan hê ̣ đối lâ ̣p giữa chúng với
nhau. Nói cách khác, trong mô ̣t số trường hợp, người ta thừa nhâ ̣n có sự hài hòa nhất định giữa
mă ̣t âm thanh và mă ̣t nghĩa của các tín hiê ̣u ngôn ngữ.
Như vậy, âm vị có thể được sử dụng theo hai mục đích khác nhau: 1/tạo ra các từ, và 2/ tạo
nghĩa mới cho các từ. Trong mục đích thứ nhất, các âm vị tạo ra các từ khác nhau nhờ những
thế đối lâ ̣p về các nét khu biệt của chúng, còn trong mục đích thứ hai, từ được bổ sung mô ̣t ý
nghĩa mới nào đấy nhờ viê ̣c khai thác các giá trị ngữ nghĩa mà các âm vị có thể mang lại. Sự tồn
tại các giá trị ngữ nghĩa của âm vị khiến cho sự phân biê ̣t hai bình diê ̣n của ngôn ngữ, tức bình
diê ̣n biểu hiê ̣n và bình diê ̣n ngữ nghĩa theo cách xưa nay, trở nên không rõ ràng hoă ̣c/và không
triê ̣t để. Ngữ nghĩa học truyền thống không quan tâm đến hoă ̣c không thừa nhâ ̣n những giá trị
ngữ nghĩa của những đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn hình vị. Đó là cái phần dư ngữ nghĩa trong ngôn
ngữ mà ngôn ngữ học chưa có cách giải quyết dứt khoát. Thông thường, khi nhâ ̣n thấy mô ̣t hiê ̣n
tượng ngôn ngữ nào đấy mang giá trị ngữ nghĩa, người ta cứ nghĩ trước hết đến sự hiê ̣n diê ̣n của hình vị hay từ.
Sự thừa nhâ ̣n giá trị ngữ nghĩa của các âm vị, hoă ̣c phức thể âm vị, tạo tiền đề cho viê ̣c hình
thành mô ̣t bô ̣ môn nghiên cứu mới: Ngữ nghĩa học âm vị (semantyka fonemów lub
fonosemantyka), bộ môn nghiên cứu giá trị ngữ nghĩa của cấp đô ̣ âm vị.
Ngữ nghĩa học âm vị có vẻ liên quan nhiều hơn đến ngữ dụng học, bởi vì loại ý nghĩa này phụ
thuô ̣c nhiều vào các hoạt đô ̣ng giao tiếp ngôn ngữ cụ thể. Tuy nhiên, ý nghĩa của các âm vị
không chỉ liên quan đến sự vận dụng ngôn ngữ mà còn liên quan đến cả lịch sử phát triển
của ngôn ngữ, nghĩa là vừa có tính chất đồng đại vừa có tính chất lịch đại. Ngữ nghĩa học âm
vị có ý nghĩa thực tiễn to lớn: Nó giúp giải thích nhiều hiê ̣n tượng ngữ nghĩa trong các ngôn ngữ,
nhờ đó giúp ta hiểu rõ hơn bản chất của những hiê ̣n tượng ngôn ngữ như đồng nghĩa, dị nghĩa,
các tên riêng, sự hài âm, chơi chữ , hay đă ̣c điểm cấu tạo của các tiếng xã hô ̣i trong mô ̣t cô ̣ng đồng ngôn ngữ.
Như vậy, các nghiên cứu ngữ nghĩa học âm vị sẽ bổ sung những thông tin làm cho bức tranh về
các bình diê ̣n ngữ nghĩa của ngôn ngữ được hoàn chỉnh hơn. Với ngữ nghĩa học âm vị, cấu trúc
các bình diê ̣n của ngôn ngữ trở nên nhất quán hơn: trên bình diê ̣n biểu hiê ̣n, chúng ta nghiên cứu
toàn bô ̣ mă ̣t cấu tạo hình thức của ngôn ngữ: đi từ âm vị đến văn bản, còn trên bình diê ̣n ngữ
nghĩa, chúng ta xem xét toàn bô ̣ mă ̣t nô ̣i dung của ngôn ngữ, cũng đi từ âm vị đến văn bản. Điều
này cũng có nghĩa là ngữ nghĩa học đối chiếu cũng quan tâm đến cả cấp độ âm vị của ngôn ngữ.
Tuần 5.2 Đối chiếu cấp độ từ vựng – Bình diện ngữ nghĩa
Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 24, 2010 Lê Đình Tư
1. Ý nghĩa và cấu trúc ý nghĩa của từ
– Bình diện ngữ nghĩa của từ gọi chung là ý nghĩa của từ. Tuy nhiên, có nhiều cách hiểu về ý
nghĩa của từ. Cách hiểu phổ biến hiện nay là: Ý nghĩa của từ là một cấu trúc gồm một số thành
phần nhỏ hơn, mỗi thành phần trong cấu trúc ý nghĩa đó tương ứng với một chức năng của từ.
Chẳng hạn, từ có chức năng gọi tên sự vật, hiện tượng và tương ứng với chức năng đó là thành
phần ý nghĩa biểu vật của từ, còn tương ứng với chức năng biểu thị quan hệ của từ với các từ
khác là thành phần ý nghĩa ngữ pháp của từ.
– Có hai phạm trù ý nghĩa của từ: Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Mỗi phạm trù ý nghĩa
lại bao gồm một số thành phần ý nghĩa nhỏ hơn. Xét về phạm trù ý nghĩa từ vựng, người ta phân
biệt các thành phần ý nghĩa sau:
* Ý nghĩa biểu vật: Đó là thành phần ý nghĩa liên quan đến các sự vật, hiện tượng trong thực tế
khách quan. Tuy nhiên, đó chỉ là hình ảnh chung chung (khái quát) về sự vật hay hiện tượng chứ
không phải là bản thân một sự vật hay hiện tượng cụ thể trong thực tế khách quan. Ví dụ: Ý
nghĩa biểu vật của từ (con) gà trong tiếng Việt là hình ảnh về con gà chung chung, bị loại bỏ
những đặc điểm cụ thể như màu lông, giới tính, cân nặng, độ tuổi…
* Ý nghĩa biểu niệm: Đó là thành phần ý nghĩa liên quan đến ý niệm hay khái niệm về sự vật,
hiện tượng. Chỉ có điều thành phần ý nghĩa này không trùng với khái niệm trong lô gích học vì
đó là ý niệm hay khái niệm gắn liền với đặc điểm của ngôn ngữ. Ví dụ: Khái niệm “nước” trong
tiếng Việt không trùng với khái niệm “nước” trong tư duy lôgích. Chính vì vậy, người ta nói đến
khái niệm dân gian và khái niệm khoa học. Khái niệm dân gian là ý nghĩa biểu niệm của từ còn
khái niệm khoa học là khái niệm của tư duy lôgích. Liên quan đến sự phân biệt này là hai khái
niệm trong ngôn ngữ học tri nhận: bức tranh dân gian về thế giới, và bức tranh khoa học về thế giới.
Một điều hết sức quan trọng trong đối chiếu ý nghĩa từ vựng của các từ là cấu trúc của ý nghĩa
biểu niệm: ý nghĩa biểu niệm bao gồm một số thành phần ý nghĩa nhỏ hơn gọi là nét nghĩa hay
nghĩa vị. Các ngôn ngữ có thể khác nhau về cách tổ chức các nét nghĩa.
* Ý nghĩa ngữ dụng: Đó là thành phần ý nghĩa liên quan đến hoạt động của từ trong các tình
huống giao tiếp, do vậy, thường chỉ có thể dựa vào ngữ cảnh để xác định thành phần ý nghĩa này.
Ví dụ: Từ vịt giời trong tiếng Việt, ngoài ý nghĩa “loài chim sống hoang dã trong tự nhiên, cùng
họ với vịt nhà”, còn có ý nghĩa ‘con gái’.
Ý nghĩa này mang đặc điểm văn hóa của mỗi dân tộc.
2. Những điểm cần lưu ý trong quá trình đối chiếu bình diện ngữ nghĩa
– Các từ có thể giống nhau (hoặc tương đồng) về hình thức và ý nghĩa. Thường thì đó là trường
hợp của các ngôn ngữ cùng họ hay cùng nhóm. Ví dụ: Từ stolica của tiếng Ba Lan so với tiếng Nga.
– Các từ có thể giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về ý nghĩa. Đó có thể là sự khác nhau
một phần hoặc là sự khác nhau hoàn toàn. Ví dụ: Từ ‘bác sĩ’, ‘tiến sĩ’ trong tiếng Việt và tiếng Trung.
– Các từ giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về hình thức. Đây là những trường hợp thường
thấy nhất khi đối chiếu từ vựng giữa hai ngôn ngữ. Tuy nhiên, thường không có sự giống nhau
hoàn toàn về ý nghĩa giữa hai ngôn ngữ mà sẽ có sự khác biệt về cấu trúc ý nghĩa của các từ: các
từ có thể khác nhau về một thành phần ý nghĩa hoặc một nét nghĩa nào đó. Ví dụ: so sánh cấu
trúc nét nghĩa của từ ‘nước’ tiếng Việt và ‘water’ tiếng Anh; từ ‘nhà’ của tiếng Việt và từ tương
đương của nó trong nhiều ngôn ngữ chỉ giống nhau một phần, vì ‘nhà’ trong tiếng Việt còn có ý
nghĩa “chồng” hoặc “vợ”.
– Các từ khác nhau về cả hình thức lẫn ý nghĩa. Đối với những trường hợp này chỉ cần chú ý đến
những từ có thể gây nhầm lẫn hoặc làm cho người học ngoại ngữ phạm lỗi.
– Các từ giống nhau về nghĩa gốc, nhưng khác nhau về nghĩa mở rộng (hay nghĩa phái sinh). Ví
dụ: từ ăn trong tiếng Việt có nghĩa mở rộng là “mua” (ví dụ: Ăn con xe (máy) này đi!) mà nhiều ngôn ngữ khác không có.
3. Đối chiếu trường từ vựng-ngữ nghĩa
– Trước hết, cần phân biệt hai loại trường: Trường liên tưởng và trường tuyến tính.
– Đối chiếu trường liên tưởng là đối chiếu các nhóm từ có chung một nét nghĩa nào đó. Các
trường từ vựng thường được chọn để nghiên cứu đối chiếu là: Từ chỉ một loại hoạt động (ví dụ:
các động từ chuyển động, hoạt động nói năng), Từ chỉ phương tiện hoạt động (ví dụ: công cụ sản
xuất), Từ chỉ quan hệ giữa người với người (ví dụ: quan hệ thân tộc), Từ chỉ màu sắc, Từ chỉ các
bộ phận cơ thể (người và động vật), Từ chỉ động vật (ví dụ: động vật nuôi), Từ chỉ cây cối, Từ
chỉ cảm xúc, Từ chỉ các món ăn…
– Đối chiếu trường tuyến tính là đối chiếu về khả năng kết hợp của từ. Khả năng kết hợp của từ
liên quan đến cả cấp độ ngữ pháp, vì đó là khả năng thay thế nhau về chức năng ngữ pháp của các từ trong trường.
– Trong đối chiếu trường từ vựng-ngữ nghĩa, có thể phân tích những khác biệt giữa hai ngôn ngữ về:
+ danh sách các đơn vị thuộc trường: những từ có mặt trong trường của ngôn ngữ này nhưng
không có mặt trong trường của ngôn ngữ kia;
+ cấu trúc ngữ nghĩa của trường nói chung và của từng đơn vị nói riêng;
+ tần số sử dụng, đặc biệt là sử dụng trong các thành ngữ, quán ngữ;
+ giá trị tu từ. Ví dụ: sự khác biệt về ý nghĩa biểu cảm, khả năng sử dụng trong các phong cách ngôn ngữ.
Tuần 6.1 ………………….
Mời các bạn tham khảo bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hương về so sánh nghĩa của từ "Ăn" trong tiếng
Việt và từ "Eat" trong tiếng Anh. (đính kèm file pdf)
Tuần 6.2 Đối chiếu từ vựng – Bình diện cấu tạo hình thức
Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 13, 2010 Lê Đình Tư
1. Đối chiếu cấu tạo hình vị của từ
– Các loại hình vị cấu tạo từ. Hình vị cấu tạo từ được chia thành hai loại: căn tố và phụ tố.
– Căn tố: là hình vị cơ bản, là yếu tố cấu trúc chính của từ. Căn tố là bộ phận có thể tách khỏi từ
để hoạt động độc lập, vì đây thường là những từ gốc. Ví dụ: time-less.
– Phụ tố: là những hình vị được ghép với căn tố để tạo ra từ mới hoặc để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp.
Trong các ngôn ngữ biến hình, người ta phân biệt hình vị từ vựng- ngữ pháp (hoặc hình vị từ
vựng) và hình vị ngữ pháp, nhưng trong các ngôn ngữ không biến hình, chỉ có hình vị từ vựng-
ngữ pháp mà không có ý nghĩa ngữ pháp theo cách hiểu của ngôn ngữ học châu Âu.
Các phụ tố trong các ngôn ngữ thường được chia thành:
*Tiền tố: là phụ tố hình vị đứng trước căn tố. Ví dụ: in-famous (t. Anh).
* Hậu tố: là hình vị đứng sau căn tố. Ví dụ: happi-ness (t. Anh).
* Trung tố: là hình vị được đặt xem vào giữa căn tố. Ví dụ: l-b-eun (= tốc độ)) được tạo ra từ leun (= nhanh) (t. Khơme).
* Liên tố : là hình vị dùng để nối các căn tố với nhau, ví dụ: speed-o-meter trong tiếng Anh hay zieml-e-kop (t. Nga).
* Bao tố: còn gọi là hình vị không liên tục. Đây là những hình vị bao quanh căn tố cả về phía đầu
lẫn phía cuối. Loại hình vị này xuất hiện chủ yếu ở một số ngôn ngữ của thổ dân châu Mĩ, nhưng
thời gian gần đây có một số nhà nghiên cứu cho rằng bao tố được sử dụng rộng rãi hơn ở nhiều
ngôn ngữ khác. Ví dụ: roz-płakać-się (= khóc òa) (t. Ba Lan).
* biến tố: là những hình vị thường đứng sau căn tố và phụ tố để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp
như: giống, số, cách, ngôi… Ví dụ: rek-a (t. Nga).
2. Những sự khác biệt về cấu tạo hình vị của từ trong các ngôn ngữ
– Các ngôn ngữ có sự khác biệt về cách sử dụng các phụ tố cấu tạo từ. Ví dụ: Các ngôn ngữ biến
hình dùng các phụ tố để tạo từ mới nhưng tiếng Việt thường dùng cách ghép từ để tạo từ mới.
– Các ngôn ngữ biến hình có hiện tượng biến đổi ngữ âm của các hình vị cấu tạo từ, và do đó có
khái niệm tha hình vị (alomorfem). Trong các ngôn ngữ không biến hình như tiếng Việt, khái
niệm tha hình vị chỉ dùng cho những hình vị có cùng hình thức ngữ âm, có ý nghĩa khác nhau
nhưng liên quan với nhau. Ví dụ: hình vị nhà trong: nhà máy và nhà chính trị; đánh trong: đánh bạn và đánh ghen.
– Vị trí của các phụ tố trong các ngôn ngữ có thể rất khác nhau. Ví dụ: t. Việt: tính ích kỉ/ t. Anh: selfishness
– Trong các ngôn ngữ, các hình vị có thể khác nhau về mức độ sản sinh: tính sản sinh của các
hình vị ở ngôn ngữ này cao nhưng ở ngôn ngữ kia lại thấp. Ví dụ: Hình vị ‘máy’ để tạo các danh
từ trong tiếng Việt có tính sản sinh rất cao: máy nổ, máy gặt, máy tiện…, nhưng trong nhiều
ngôn ngữ hình vị tương đương đều có khả năng sản sinh ít hơn tiếng Việt.
– Các ngôn ngữ còn khác nhau về các phương thức cấu tạo từ. Sự khác nhau thường thể hiện ở hai mặt:
* Số lượng các phương thức, ví dụ: Trong tiếng Việt có phương thức láy để tạo từ mới nhưng
một số ngôn ngữ không dùng phương thức này;
* Mức độ ưa chuộng các phương thức cấu tạo từ, ví dụ: tiếng Việt ưa chuộng phương thức ghép
và phương thức láy, còn các ngôn ngữ Ấn-Âu thì ưa chuộng phương thức phụ gia và phương thức ghép. Tuần 7.1
Ví dụ về so sánh tiểu loại danh từ trong tiếng Việt và tiếng Anh
1. Định nghĩa: theo truyền thống, nói đến danh từ là người ta thường gắn với sự vật hiện tượng,
chính xác hơn là nghĩa sự vật hay tính sự vật. Nghĩa của tính sự vật không chỉ dùng để chỉ sự vật
hiện tượng cụ thể mà còn chỉ mọi khái niệm thực tại, trừu tượng trong hiện thực khách quan và tư duy.
2. Các tiểu loại danh từ
2.1. Trong tiếng Việt, người ta phân loại danh từ thành các cặp như sau:
(1) Danh từ chung: nhà, sách, vở. Danh từ riêng: Hà Nội, Hạnh
(2) Danh từ tổng hợp (tập hợp) (chỉ những sự vật tồn tại không thành một sự vật riêng lẻ mà
thành sự vật tổng thể): cây cối, thực phẩm, bàn ghế, sách vở, quần áo.
Danh từ không tập hợp (chỉ những sự vật rất dễ nhận biết, chỉ tồn tại ở dạng sự vật riêng lẻ):
quyển sách, cây… Hai loại danh từ này khác nhau ở khả năng kết hợp vì danh từ tổng hợp không
kết hợp trực tiếp với số đếm trước nó.
(3) Danh từ chỉ chất thể Danh từ chỉ đơn vị: - Đơn vị đại lượng qui ước: Đơn vị khoa học: mét,
kilogram, vôn. Dân gian: gang, sải, vốc … - Đơn vị rời: cây, cái, chiếc, tấm. - Đơn vị tập thể:
đàn, lũ, bầy, đống, bộ.
2.2 Trong tiếng Anh, người ta phân loại danh từ thành các cặp:
(1) Concrete nouns (danh từ cụ thể): book, house.
Abstract nouns (danh từ trừu tượng): happiness, idea.
(2) Common nouns (danh từ chung): boy, student, ocean.
Proper nouns (danh từ riêng): Atlantic, Smith.
(3) Collective nouns (danh từ tập hợp): family, crew, police, council, audience.
Material nouns (danh từ chỉ chất thể): cement, gold, plastic, wool.
(4) Countable nouns (danh từ đếm được): a pen, ten farmers, a dozen of eggs.
Uncountable nouns (danh từ không đếm được): coffee, milk, money, time, anger.
(5) One word nouns (danh từ đơn): disk, mouse, rain, river.
Compound nouns (danh từ ghép): cupboard, typewriter, mother-in-law, reading lamp. Tuần 7.2
Đặc trưng ngữ pháp của danh từ tiếng Việt và danh từ tiếng Anh.
1. Định nghĩa: theo truyền thống, nói đến danh từ là người ta thường gắn với sự vật hiện tượng,
chính xác hơn là nghĩa sự vật hay tính sự vật. Nghĩa của tính sự vật không chỉ dùng để chỉ sự vật
hiện tượng cụ thể mà còn chỉ mọi khái niệm thực tại, trừu tượng trong hiện thực khách quan và tư duy.
2. Chức năng: 2.1. Danh từ có thể làm thành phần của câu như chủ ngữ, bổ ngữ, tân ngữ, định ngữ.
Ví dụ : Tiếng Việt : Hà Nội là thủ đô cuả Việt Nam. (chủ ngữ) Gà, tôi nuôi hai con. (định ngữ)
Tiếng Anh : Danh từ (noun) có các vai trò của subject, object, complement, attribute, part of
adverbial modifier. : My friend (S) has many books (O)
3. Một số đặc trưng ngữ pháp của danh từ: Phạm trù số và phạm trù vị trí 3.1. Phạm trù số
a. Tiếng Anh: Danh từ tiếng Anh có cách biến đổi từ số ít sang số nhiều tương đối phức tạp. Tất
cả các danh từ tiếng Anh đều có hình thức số ít, tuy nhiên, chỉ các danh từ đếm được mới có hình
thức số nhiều. Hình thức số nhiều của các danh từ đếm được trong tiếng Anh được thành lập như sau:
(1) Hầu hết các danh từ được thêm hậu tố "-s": books, tables Một số khác có cách biến đổi phức
tạp hơn: shelf – shelves, loaf – loaves church – churches, brushes, city – cities tomato – tomatoes
boyfriend – boyfriends, son-in-law – sons-in-law, bookshelf – bookshelves, grown up – groun
ups, policeman – policemen, woman teacher – women teachers. Mouse – mice, child – children.
(2) Một số danh từ có hai hình thức số nhiều với hai nghĩa khác nhau: Brother – brothers (anh em
cùng cha mẹ)/ brethren (đồng môn) Cloth – clothes (quần áo)/ cloths (những mảnh vải để lau chùi)
(3) Một số danh từ có hình thức số nhiều và số ít giống nhau: sheep, deer, cod, aircraft, moose, mullet …
(4) Trong tiếng Anh còn có một số dạng thức và cách dùng đặc biệt Một số danh từ chỉ những
thứ không đếm được trong tiếng Anh và dùng với động từ số ít nhưng được coi là đếm được ở
nhiều ngôn ngữ khác. Ví dụ: advice, baggage, garbage, furniture, information, knowledge. Một
số danh từ luôn ở hình thức số ít nhưng nghĩa chỉ số nhiều và dùng với động từ ở số nhiều. Ví
dụ: cattle, police, army Một số danh từ có hình thức số nhiều nhưng chỉ dùng với động từ số ít.
Ví dụ: news, darts, measles, diabetes, mumps, physics, linguistics. Một số danh từ có hình thức
số ít và số nhiều có nghĩa khác nhau. Ví dụ: compass – compasses; custom – customs; security –
securities … Một số danh từ chỉ nghĩa chung thì ở số ít và chỉ các cá thể thì ở số nhiều: fish –
fishes Một số danh từ chỉ có dạng số nhiều và chỉ dùng với động từ số nhiều. Ví dụ: trousers, glasses, scissors, scales…
b. Trong tiếng Việt, hình thức số nhiều của danh từ được thành lập bằng cách:
(1) Kết hợp: nhiều người, vài cái nhà.
(2) Lặp: người người, nhà nhà.
3.2. Phạm trù vị trí:
a. Trong tiếng Anh, vị trí của danh từ trong cụm danh từ như sau: (Premodifier) + Head +
(Postmodifier) [phần đặt trong ngoặc đơn có thể có hoặc không]. Ví dụ: coffee (Head alone) my
computer, the girl (Premodifier + Head) printers of good quality (Head + Postmodifier) the
decision on national security (Premodifier + Head + Postmodifier)
b. Trong tiếng Việt: Danh từ Thành phần phụ trước trung tâm Thành phần phụ sau Phụ tố chỉ
Phụ tố chỉ Phụ tố chỉ loại Phụ tố Phụ tố Phụ tố tổng lượng số lượng thể, đơn vị chỉ xuất hạn định
chỉ định (-4) Tất cả (-3) những (-2) cái (-1) con (1) xấu xa (2) đó người (-4) Các từ mang ý nghĩa
tăng lượng (-3) Các từ chỉ số đếm. Số ước lượng: vài, dăm, ba Từ có ý nghĩa phân phối: mỗi,
từng, mọi. (-2) Biểu đạt ý nghĩa đơn nhất/ dùng để nhấn mạnh. Không thể nhập "cái" ở (-2) vào
"những", "các" ở (-3) Dùng "cái" với ý nghĩa chỉ xuất hiện trên nguyên tắc phải có phụ tố (2)
"ấy", "đó" (-1) Vị trí của các đơn vị quy uớc: cân, miếng, cốc, và đơn vị chỉ người/ vật: ngài, vị,
cuốn (1) Vị trí của các từ có chức năng hạn định (2) Vị trí của các danh từ mang ý nghĩa chỉ trỏ, xác định cho danh từ. Tuần 8.1
So sánh phương thức cấu tạo từ tiếng Việt – tiếng Anh? Các phương thức phổ biến?
1. Định nghĩa: phương thức cấu tạo từ là cách thức tạo nên từ mới.
2. Các phương thức cấu tạo từ phổ biến
2.1. Phương thức phụ gia (thêm phụ tố) (affixation/ derivation) (ở đây không xét đến inflection
vì phương thức này chỉ làm biến đổi từ để thể hiện sự biến đổi về mặt ngữ pháp chứ không tạo ra
từ mới) là phương thức thêm vào căn tố (root) hay thân từ (stem) một hay nhiều phụ tố để tạo ra từ mới.
a. Trong tiếng Anh, gồm: Prefixation (thêm tiền tố) và suffixation (thêm hậu tố)
b. Tiếng Việt, theo một số nhà ngôn ngữ, chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ Pháp. Ví dụ: tự động
hoá, vôi hoá, nhà giáo, nhà thơ, nhà văn, bác sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ. Trong một thời gian có quan
niệm cho rằng tiếng Việt có sử dụng phương thức phụ gia. Do đó, trong thành phần cấu tạo từ có
hình vị phụ tố vì theo họ, như: cái, nhà, bất … có thể xuất hiện ở một từ hay một loạt từ. Tuy
nhiên, trên thực tế, không thể nói những yếu tố trên là tiền tố hay hậu tố vì: Các từ trên có thể có
thể đứng một mình, độc lập như một từ đơn, chưa bị hư hoá về nghĩa. Sự kết hợp giữa căn tố và
phụ tố trong ngôn ngữ Ấn-Âu chặt chẽ còn trong tiếng Việt thì lỏng lẻo. Số lượng từ này trong
tiếng Việt không nhiều mà thực ra chỉ là từ ghép.
2.2. Ghép (compounding):
a. Tiếng Việt: Ghép đẳng lập: ghép hai từ có quan hệ ngang hàng nhau về nghĩa, không từ nào
phụ thuộc vào từ nào. Ví dụ: quần áo, sách vở.. Ghép chính phụ: ghép hai từ tố có quan hệ không
ngang nhau về nghĩa, trong đó có một từ chính và một từ tố phụ. Ví dụ: nhà gỗ, nhà đá (C + P); bất mãn, vô ích (P + C)
b. Tiếng Anh: Ghép đẳng lập: hometown, classroom Ghép chính phụ: blackboard, businessman.
2.3. Phương thức láy: là phương thức lặp lại một phần hay toàn bộ một từ đã có. Việc phân loại
từ láy thường được dựa vào hai cơ sở:
a. Bậc láy: là thứ tự của lần phương thức láy được thực hiện để tạo ra từ láy.
Trong tiếng Việt thường dùng từ láy bậc một và từ láy bậc hai. Từ không láy (chín) mõm Cuống
Vội (đen) lánh. Từ láy bậc một Mõm mòm Cuống cuồng Vội vàng ấp úng ỡm ờ Kề cà Lấp lánh
Từ láy bậc hai Mõm mòm mom Cuống cuồng cuồng Vồi vội vàng vàng ấp a ấp úng ỡm à ỡm ờ
Kề rề cà rà Lấp la lấp lánh Ngoài ra còn gặp nhiều từ láy bốn tiếng, từ láy ba tiếng thuộc bậc một
cũng ít gặp hơn. Ví dụ: không khổng khồng không, buồn thỉu buồn thiu, sạch sành sanh.
b. Xét về mặt số lượng tiếng: từ láy đôi, từ láy ba, và từ láy tư. Ví dụ:
(1) Từ láy đôi Từ láy toàn bộ: hao hao, lăm lăm, đùng đùng, đo đỏ, sừng sững, ăm ắp, phơn phớt,
vằng vặc, rừng rực. Từ láy bộ phận: nhúc nhích, đủng đỉnh, gồ ghể, ngo ngoe, tẹp nhẹp, chạng
vạng, tần ngần, túi bụi.
(2) Từ láy ba: dửng dừng dưng, cỏn còn con, sạch sành sanh
(3) Từ láy tư: hì hà hì hục, ấm a ấm ớ, hớt ha hớt hải, lơ thơ lẩn thẩn, hăm hăm hở hở, tầng tầng
lớp lớp, nhí nha nhí nhảnh.
Trong tiếng Anh không sử dụng phương thức láy.
2.4. Phương thức chuyển đổi từ loại (conversion/ zero-derivation): là phương thức tạo ra từ
phái sinh mà trong đó một từ chỉ thay đổi từ loại hay lớp từ (word-class) mà không cần phải
thêm phụ tố. Trong tiếng Anh: love – to love, doubt – to doubt, answer – to answer
Trong tiếng Việt: Việt Nam là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á. (danh từ) Món ăn
này rất Việt Nam. (tính từ) Ý kiến của mọi người rất thống nhất. (tính từ) Chúng ta đã hoàn toàn
thống nhất đất nước kể từ Đại thắng 30-4. (động từ).
8.2 Liệt kê các phương diện đối chiếu từ?
- Giống nhau về hình thức và ý nghĩa: Đó thường là những từ
vay mượn hoặc có quan hệ cội nguồn.
- Giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về ý nghĩa: Có thể
phân biệt 2 loại: khác nhau một phần và khác nhau hoàn toàn.
- Giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về hình thức: Đây là
trường hợp thông dụng nhất khi so sánh 2 ngôn ngữ.; Khác nhau
về hình thức và ý nghĩa: Phương ngữ Bắc: tầng 1 tương ứng với
tầng trệt trong Phương ngữ Nam; Phương ngữ Bắc: tầng 2 tương
ứng với lầu 1 trong Phương ngữ Nam;