Tài liệu Nhập môn Quản trị kinh doanh | Đại học Gia Định

Tài liệu Nhập môn Quản trị kinh doanh | Đại học Gia Định. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 11 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

I. Vai trò và chức năng quản trị
1. Vai trò của quản trị
Vào thập niên 1960, Henry Mintzberg đã nghiên cứu một cách cẩn thận
đã đưa ra kết luận rằng các nhà quản trị trong một tổ chức phải thực hiện 10
vai trò khác nhau. Mười vai trò quản trị này được tác giả sắp xếp chung vào
trong 3 nhóm: (1) vai trò quan hệ với con người, (2) vai trò thông tin, và (3)
vai trò quyết định. Tuy sự phân chia thành các nhóm vai trò khác nhau
như vậy, nhưng có một sự liên hệ rất mật thiết giữa các nhóm vai trò đó.
dụ như nhà quản trị không thể các quyết định đúng nếu vai trò thông tin
không được thực hiện tốt.
1.1 . Vai trò quan hệ với con người
Sống làm việc trong một tổ chức mọi nhân thường các quan hệ
chặt chẽ và mật thiết với nhau, nhưng với tư cách là nhà quản trị họ thường
có những vai trò cơ bản sau:
- Vai trò đại diện: người đứng đầu một đơn vị, nhà quản trị thực hiện
các hoạt động với cách người đại diện, biểu tượng cho tập thể,
tính chất nghi lễ trong tổ chức.
dụ: những công việc như dự phát biểu khai trương chi nhánh mới,
chào đón khách, tham dự tiệc cưới của thuộc cấp, đãi tiệc khách hàng ...
- Vai trò lãnh đạo: Chỉ huy, phối hợp kiểm tra công việc của nhân viên
dưới quyền. Một số công việc như tuyển dụng, đào tạo, hướng dẫn,
khích lệ nhân viên là một vài ví dụ về vai trò này của nhà quản trị.
- Vai trò liên lạc: Quan hệ với người khác trong hay ngoài tổ chức, để
nhằm góp phần hoàn thành công việc được giao cho đơn vị của họ.
Ví dụ như tiếp xúc với khách hàng và những nhà cung cấp.
1
1.2. Vai trò thông tin
Các hoạt động về quản trị chỉ thực sự sở khoa học và có hiệu quả khi
được xử lý, được thực thi trên sở các thông tin chính xác, đầy đủ
kịp thời. Thông tin không chỉ cần cho các nhà quản trị chính bản thân
cũng giữ những vai trò cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực này. Nghiên
cứu về vai trò thông tin của các nhà quản trị, chúng ta thấy:
- Vai trò thu thập tiếp nhận các thông tin: Nhà quản trị đảm nhiệm
vai trò thu thập bằng cách thường xuyên xem xét, phân tích bối cảnh xung
quanh tổ chức để nhận ra những tin tức, những hoạt động những sự kiện
có thể đem lại cơ hội tốt hay sự đe dọa đối với hoạt động của tổ chức. Công
việc này được thực hiện qua việc đọc báo chí, văn bản qua trao đổi, tiếp
xúc với mọi người v.v...
dụ: Nhà quản trị thể sử dụng phản hồi của khách hàng để xác định cách
chúng ta thể cải thiện sản phẩm hiện tại của mình. Chúng ta cần phải theo
dõi xu hướng trong ngành, dụ như các sản phẩm do đối thủ cạnh tranh tung
ra. Khi hiểu được những gì đang xảy ra trong ngành, chúng ta sẽ có những thay
đổi thích hợp để đảm bảo công ty đáp ứng được nhu cầu kinh doanh, duy trì
khả năng cạnh tranh của mình,…
- Vai trò phổ biến thông tin: người phổ biến thông tin cho mọi người,
mọi bộ phận liên quan, thể thuộc cấp, người đồng cấp hay thượng
cấp.
dụ: Sau khi nghiên cứu một xu hướng mới trong ngành, nhà quản trị thể
xây dựng một dự án thiết kế sản phẩm mới. Sau đó, chúng ta sẽ gửi đề xuất này
lên quản cấp trên để phê duyệt, đồng thời cung cấp thông tin cho nhân viên
của mình. Từ đó mọi người thể tìm hiểu, làm quen với dự án, nhà quản trị
xác định được các nhiệm vụ cần thiết cho mỗi người để thực hiện nhiệm vụ sắp
tới.
- Vai trò cung cấp thông tin: người trách nhiệm quyền lực thay
mặt tổ chức phát ngôn những tin tức ra bên ngoài với mục đích giải thích,
bảo vệ các hoạt động của tổ chức hay tranh thủ thêm sự ủng hộ cho tổ
chức.
Ví dụ: Trách nhiệm của nhà quản trị tại cuộc họp cổ đông thường niên là thông
báo cho những người tham gia về các kết quả, thành tích nhóm/bộ phận
2
chúng ta đạt được trong năm đó. Ngoài ra, chúng ta cũng thể thảo luận về
các mục tiêu kinh doanh chiến lược nhóm/bộ phận chúng ta muốn đạt được
trong năm tới.
1.3. Vai trò quyết định
Nhóm vai trò cuối cùng của nhà quản trị gồm 4 vai trò: vai trò doanh nhân,
vai trò người giải quyết xáo trộn, vai trò người phân phối tài nguyên vai
trò nhà thương thuyết.
- Vai trò doanh nhân: Xuất hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến hoạt
động của tổ chức. Việc này thể được thực hiện bằng cách áp dụng một
kỹ thuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ
thuật đang áp dụng.
dụ: Nếu nhà quản trị nhận thấy doanh số bán hàng chậm lại thì chúng ta
thể quyết định phát triển một chiến lược tiếp thị, bán hàng mới bằng cách sử
dụng phương tiện truyền thông xã hội để giải quyết vấn đề.
- Vai trò người giải quyết xáo trộn: Nhà quản trị là người phải kịp thời đối
phó với những biến cố bất ngờ nảy sinh làm xáo trộn hoạt động bình thường
của tổ chức như mâu thuẩn về quyền lợi, khách hàng thay đổi... nhằm đưa tổ
chức sớm trở lại sự ổn định.
dụ: Nếu trong tổ chức xảy ra xung đột giữa 2 thành viên trong nhóm, nhà
quản trị cần phải xửtình huống khéo léo, khách quan, đồng thời đưa ra các
giải pháp lợi cho 2 bên. Cần lưu ý chúng ta phải nhanh chóng hành động
để đảm bảo rằng công việc được tiếp diễn trơn tru, ít bị gián đoạn nhất có thể.
- Vai trò người phân phối tài nguyên: Khi tài nguyên khan hiếm lại
có nhiều yêu cầu, nhà quản trị phải dùng đúng tài nguyên, phân phối các tài
nguyên cho các bộ phận đảm bảo sự hợp tính hiệu quả cao. Tài
nguyên đó thể tiền bạc, thời gian, quyền hành, trang bị, hay con
người. Thông thường, khi tài nguyên dồi dào, mọi nhà quản trị đều thể
thực hiện vai trò này một cách dễ dàng. Nhưng khi tài nguyên khan hiếm,
quyết định của nhà quản trị trong vấn đề này sẽ khó khăn hơn, thể
3
ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của một đơn vị hay thậm chí của toàn
thể tổ chức.
dụ: Nếu nhà quản trị kiểm soát ngân sách của tổ chức, chúng ta sẽ xác định
cách phân chia tài chính hợp giữa các bộ phận dựa trên nhu cầu và mục tiêu
của từng phòng ban.
- Vai trò đàm phán, thương lượng : Thay mặt cho tổ chức thương thuyết
trong quá trình hoạt động, trong các quan hệ với những đơn vị khác, với
hội.
dụ: Nhà quản trị đàm phán thương lượng với một nhân viên về mức lương
của họ. Nếu không đáp ứng được mức lương mong muốn của nhân viên, chúng
ta thể thương lượng một con số thấp hơn, ngoài ra thể cung cấp các lợi
ích kèm theo, dụ như tiền thưởng, số ngày công làm việc ít n, để làm
cho lời đề nghị mức lương trở nên hấp dẫn hơn cho họ.
Mười vai trò này liên hệ mật thiết với nhau bất cứ lúc nào trong hoạt
động của mình, nhà quản trị thể phải thực hiện nhiều vai trò cùng một
lúc, song tầm quan trọng của các vai trò thay đổi tuỳ theo cấp bậc của nhà
quản trị trong tổ chức.
Với chức năng vai trò của mình, nhà quản trị giữ phần quan trọng trong
sự thành công hay thất bại của một tổ chức. đó cũng do chính của
nhu cầu cấp bách phải đào tạo các nhà quản trị, vì sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội của cả nước.
2. Chức năng của quản trị
2.1. Chức năng hoạch định
Chức năng hoạch định chức năng đầu tiên trong quá trình quản trị doanh
nghiệp. Là chức năng quản trị mục đích xác lập một hình ( tham chiếu)
cho tương lai nhờ đó ta nhận ra những hội rủi ro, căn cứ vào đó phải
làm những việc ngay bây giờ để khai thác hội tránh rủi ro.Hoạch định
liên quan đến dự báo tiên liệu tương lai, đến những mục tiêu cần đạtđược
những phương thức đạt những mục tiêu đó. Nếu không lập kế hoạch thậntrọng
đúng đắn thì dễ dẫn đến thất bại trong quản trị. rất nhiều công ty không
hoạt động được hay chỉ huy động được một phần công suất vì không hoạch định
hay hoạch định tồi. Hoạch định cũng có nghĩa là nghĩ cách sử dụng nhân tài, vật
4
lực để khai thác cơ hội, thời cơ và ngăn chặn hữu hiệu những rủi ro, bất trắc của
môi trường.
dụ với các doanh nghiệp mới tiến vào thị trường, họ sẽ hoạch định các kế
hoạch liên quan tới việc phủ sóng thị trường, tiếp cận khách hàng thay các
doanh nghiệp đã tên tuổi cần các kế hoạch gia tăng lợi nhuận. Với 2 định
hướng khác nhau này dẫn đến các kế hoạch bổ sung cũng khác nhau. Một bên
thể đưa các sản phẩm mới ra thị trường thay một bên đưa nhiều mức
giá ưu đãi, combo sử dụng tặng kèm miễn phí.
2.2. Chức năng tổ chức
Chức năng tổ chức phần lớn dành cho những người thuộc cấp quản lý. chức
năng quản trị mục đích phân công nhiệm vụ, tạo dựng một cấu, thiết lập
thẩm quyền phân phối ngân sách cần thiết để thực hiện kế hoạch. sẽ trả
lời các câu hỏi: Làm gì? Ai làm?. Công việc tổ chức thực hiện đúng đắn sẽ tạo
nên môi trường nội bộ thuận lợi thúc đẩy hoạt động đạt mục tiêu, tổ chức kém
thì công ty sẽ thất bại cho dù hoạch định tốt
2.3. Chức năng điều khiển
Đúng như tên gọi của mình, sau khi hoạch định tổ chức các đầu công việc
thì chức năng điều khiển vai trò kích thích, động viên, chỉ huy, phối hợp
nhân sự thực hiện các mục tiêu kế hoạch đã định giải quyết các mâu thuẫn
khi phát sinh.chức năng quản trị nhằm gây ảnh hưởng, thúc đẩy, hướng dẫn
nguồn nhân lực thực hiện mục tiêu của công ty. Chức năng điều khiển liên quan
đến hoạt động thúc đẩy quan hệ nhân nhóm trong mối quan hệ quản trị
nhằm xây dựng một bản sắc văn hóa cho tổ chức. Cuối cùng quá trình thông
tin truyền thông trong tổ chức. Lãnh đạo xuất sắc khả năng đưa công ty
đến thành công kế hoạch tổ chức chưa thật tốt, những sẽ chắc chắn thất
bại nếu lãnh đạo kém.
dụ, một doanh nghiệp đặt ra mục tiêu đưa ra sản phẩm mới ra thị trường
(hoạch định), chức năng tổ chức sẽ sắp xếp các công việc đầu việc với những
nhân năng lực phù hợp (bao gồm marketing, CSKH, Sale,…). Mục điều
khiển phần đôn đốc, phối hợp các nhân sự làm việc trơn tru, hiệu quả, làm
sao đưa sản phẩm tiếp cận thị trường khách hàng đạt doanh số tốt.
2.4. Chức năng kiểm soát
Kiểm soát là chức năng quản trị thúc đẩy thành tích của doanh nghiệp hướng về
hoàn thành mục tiêu. Kiểm soát là để lường trước các rủi ro, đánh giá hoạt động
đo lường kết quả hoạt động… tìm ra các nguyên nhân gây ra sai lệch tìm
ra các giải pháp điều chỉnh thích hợp. Chính kiểm soát chức năng khép kín
5
một chu kỳ quản trị , mở ra một chu quản trị mới tạo ra sự liên tục cho quá
trình quản trị chức năng giúp nhà quản trị biết khi nào phải điều chỉnh
hoạt động, khi nào cần phải hoạch định mới…
II. Phân loại doanh nghiệp
1. Căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản trong doanh nghiệp
Theo tiêu thức này doanh nghiệp được phân thành các loại: DN nhà nước, DN
tư nhân, công ty, hợp tác xã (HTX)
1.1 Doanh nghiệp Nhà nước: là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn. Nhà
nước - người đại diện toàn dân - tổ chức thực hiện chức năng quản trên mọi
mặt hoạt động sản xuất kinh doanh kể từ khi thành lập cho đến khi giải thể.
Doanh nghiệp nhà nước cách pháp nhân, các quyền nghĩa vụ dân sự
trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
1.2 Doanh nghiệp góp vốn: một tổ chức kinh tế vốn được đầu do các
thành viên tham gia góp vào được gọi công ty. Họ cùng chia lời cùng
chịu lỗ tương ứng với phần vốn đóng góp. Trách nhiệm pháp của từng hình
thức những đặc trưng khác nhau. Theo Luật doanh nghiệp, loại hình công ty
có các loại: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
- Các loại hình công ty ở Việt Nam.
+ Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các
thành viên hợp danh thể thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải
nhân, trình độ chuyên môn uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty, không được đồng
thời thành viên của công ty hợp danh khác hoặc chủ doanh nghiệp nhân.
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ cuả công ty trong
phạm vi phần vốn góp đã góp vào công ty.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH).
doanh nghiệp, trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi
nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty.
+ Công ty cổ phần là công ty trong đó:
6
+ Số thành viên gọi cổ đông công ty phải trong suốt thời gian hoạt
động ít nhất là ba.
+ Vốn cuả công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi cổ phần
được thể hiện dưới hình thức chứng khoán là cổ phiếu. Người có cổ phiếu gọi là
cổ đông tức là thành viên công ty.
+ Khi thành lập các sáng lập viên (những người sáng kiến thành lập công ty
chỉ cần phải 20% số cổ phiếu dự tính phát hành), số còn lại họ thể công
khai gọi vốn từ những người khác.
1.3 Doanh nghiệp tư nhân:
Theo hình thức này thì vốn đầu vào doanh nghiệp do một người bỏ ra. Toàn
bộ tài sản của doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhân. Người quản
doanh nghiệp do chủ sở hữu đảm nhận hoặc thể thuê mướn, tuy nhiên người
chủ doanh nghiệp người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm toàn bộ các khoản
nợ cũng như các vi phạm trên các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trước pháp luật.
1.4 Hợp tác xã
- Khái niệm: HTX loại hình kinh tế tập thể, do những người lao động các
tổ chức nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể của từng viên nhằm
giúp nhau thực hiện hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội
2. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc
dân.
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp được phân thành các loại:
- Doanh nghiệp nông nghiệp: những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, hướng vào việc sản xuất ra những sản phẩm cây, con. Hoạt
động sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện tự nhiên.
- Doanh nghiệp công nghiệp: những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp, nhằm tạo ra những sản phẩm bằng cách sử dụng những thiết bị
máy móc để khai thác hoặc chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm. Trong
công nghiệp thể chia ra: công nghiệp xây dựng, công nghiệp chế tạo, công
nghiệp điện tử v.v...
7
- Doanh nghiệp thương mại: những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu phân phối hàng
hóa cho người tiêu dùng tức thực hiện những dịch vụ mua vào bán ra để
kiếm lời.. Doanh nghiệp thương mại thể tổ chức dưới hình thức buôn bán sỉ
hoặc buôn bán lẻ và hoạt động của nó có thể hướng vào xuất nhập khẩu.
- Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,
lĩnh vực dịch vụ càng được phát triển đa dạng, những doanh nghiệp trong ngành
dịch vụ đã không ngừng phát triển nhanh chóng về mặt số lượng doanh thu
mà còn ở tính đa dạng và phong phú của lĩnh vực này như: ngân hàng, tài chính,
bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, khách sạn, y tế v.v... .
3. Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp:
Theo tiêu thức quy mô, các doanh nghiệp đước phân làm ba loại:
* Doanh nghiệp quy mô lớn.
* Doanh nghiệp quy mô vừa.
* Doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Để phân biệt các doanh nghiệp theo quy như trên, hầu hết các nước người
ta dựa vào những tiêu chuẩn như:
- Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp.
- Số lượng lao động trong doanh nghiệp.
- Doanh thu của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận hàng năm.
Trong đó tiêu chuẩn tổng số vốn số lao động được chú trong nhiều hơn, còn
doanh thu lợi nhuận được dùng kết hợp để phân loại. Tuy nhiên, khi lượng
hóa những tiêu chuẩn nói trên thì tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất
mỗi quốc gia, tùy thuộc từng ngành cụ thể, ở các thời kỳ khác nhau mà số lượng
được lượng hóa theo từng tiêu chuẩn giữa các quốc gia không giống nhau.
8
III. Bản chất và đặc điểm của kinh doanh
1. Bản chất của kinh doanh.
Doanh nghiệp như đã nêu trên, khác với các tổ chức khác chỗ chúng sản
xuất hàng hóa, hay cung cấp các loại dịch vụ với mục đích thu được lợi nhuận
nhằm mở rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh. Kinh doanh một hệ thống sản
xuất hàng hóa hoặc dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu của con người, của xã hội.
Bản thân kinh doanh có thể được coi như một hệ thống tổng thể bao gồm những
hệ thống cấp dưới nhỏ hơn các ngành kinh doanh, mỗi ngành kinh doanh
được tạo thành bởi nhiều doanh nghiệp quy khác nhau, sản xuất nhiều
loại sản phẩm khác nhau. Mỗi doanh nghiệp lại bao gồm nhiều hệ thống con
như sản xuất, tài chính, marketing...
Bản chất của kinh doanh:
- Doanh nghiệp tiếp nhận các nhập lượng hoạt động trong những điều kiện
đặc thù tùy theo loại hình kinh doanh. Tuy nhiên điểm chung các yếu tố
nhập lượng chỉ giới hạn hay được gọi khan hiếm đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào.
- Doanh nghiệp sử dụng các nhập lượng theo cách thức hiệu quả nhất. Sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp yêu cầu hàng hóa được bán với giá phải chăng và có
chất lượng thích hợp. Một doanh nghiệp thành công phải luôn luôn phát hiện
được những nhu cầu mới hoặc nhu cầu còn thiếu, chưa được đáp ứng của người
tiêu dùng và luôn luôn sẵn sàng thỏa mãn các nhu cầu đó. Dưới áp lực của cạnh
tranh sức mua của người tiêu dùng, các nhà sản xuất sẽ cố gắng sử dụng
hiệu quả hơn thiết bị, nguyên liệu lao động để tạo ra nhiều hàng hóa hơn,
chất lượng tốt hơn. Do đó, khi theo đuổi những quyền lợi riêng tất yếu doanh
nghiệp sẽ đồng thời tạo ra lợi ích cho hội, bởi các doanh nghiệp sẽ phải thỏa
mãn các nhu cầu của hội khi cố gắng thỏa mãn những ham muốn của họ.
Trong lúc theo đuổi lợi nhuận, nhà kinh doanh cũng phải phục vụ người tiêu
dùng phục vụ lợi ích hội. Quan niệm này nền tảng của nền kinh tế thị
trường.
- Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu và xã hội.
2. Đặc điểm của kinh doanh
2.1.Sự phức tạp và tính đa dạng:
Hệ thống kinh doanh hiện đại là mộtcấu rất phức tạp gồmnhiều khu vực.
Mỗi khu vực do nhiều ngành tạo nên. Mỗi ngành lại được tạo thành từ nhiều tổ
chức kinh doanh các tổ chức kinh doanh này thay đổi trong những giới hạn
9
hình thức sở hữu, qui kinh doanh, cấu vốn, phong cách quản trị phạm
vi hoạt động.
Chẳng hạn: khu vực sản xuất được tạo nên bằng các nhà máy lắp ráp ôtô, chế
tạo đồ điện gia dụng (ấm đun nước, nồi cơm điện, tủ lạnh,...) các sản phẩm
điện tử (máy ghi âm, cassetle, đầu máy ti vi, máy tính, máy vi tính,...). Khu
vực dịch vụ bao gồm các loại dịch vụ như vận tải, ngân hàng, các dịch vụ
chuyên nghiệp. Ngành công ty vận tải được tạo thành bởi các ngành: đường sắt,
vận tải biển, vận tải ôtô, hàng không. Ngành công nghiệp dịch vụ bao gồm các
đại vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các khu vườn quốc gia. Ngành dịch vụ
chuyên nghiệp bao gồm các luật sư, kiến trúc sư, bác sĩ, chuyên viên kế toán,
nhà kinh doanh bất động sản...
2.2 Sự phụ thuộc lẫn nhau:
Các tổ chức kinh doanh hợp tác với nhau trong hoạt động kinh doanh. Một công
ty mua nguyên liệu thô hay các chi tiết rơi từ nhiều công ty khác, sau đó bán các
sản phẩm hoàn thành cho các nhà bán buôn, bán lẻ những người này đem
bán chúng cho những người sử dụng cuối cùng. Trong tiến trình đó, tất cả các tổ
chức kinh doanh này đều phụ thuộc vào sự cung ứng dịch vụ của các công ty
vận tải, các ngân hàng nhiều công ty khác. vậy sự phụ thuộc lẫn nhau
một hệ thống kinh doanh riêng của hệ thống kinh doanh hiện đại.
2.3 Sự thay đổi và đổi mới:
Để đảm bảo thành công, các tổ chức kinh doanh phải đáp ứng kịp thời những
thay đổi thị hiếunhu cầu của người tiêu dùng. Hệ quả tất yếu của các tiến bộ
công nghệ nhiều sản phẩm nhanh chóng trở nên lỗi thời bị thay thế. Bởi
vậy sự thay đổi đổi mới những đặc trưng quan trọng trong hệ thống kinh
doanh hiện đại.
3. Các yếu tố sản xuất
Hệ thống tổ chức kinh doanh cần đến nhiều yếu tố nhập lượng khác nhau để tạo
ra các xuất lượng cho hội. Các nhập lượng này được gọi các yếu tố sản
xuất, các nhập lượng căn bản gồm lao động, tiền vốn, nguyên vật liệu, đội
ngũ các nhà kinh doanh.
3.1 Lao động: Bao gồm tất cả những người làm việc trong doanh nghiệp (còn
được gọi nguồn nhân lực) từ giám đốc đến quản đốc, nhân công đến nhân
viên văn phòng, công nhân trong dây chuyền lắp ráp, người bán hàng,...
3.2 Tiền vốn: tất cả tiền của cho hoạt động tài chính của một doanh nghiệp.
Những tiền của này thể vốn đầu của chính chủ doanh nghiệp, các cổ
10
đông, của các thành viên, tiền vay ngân hàng hay lợi nhuận kinh doanh được
giữ lại. Chúng được sử dụng để mua nguyên liệu, tr lương công nhân, lắp đặt
máy móc, thiết bị mới hay xây dựng nhà xưởng, mở rộng nhà máy.
3.3 Nguyên liệu:thể thuộc dạng tự nhiên như đất đai, nước hay khoáng chất
để tuyển chọn. Trong công nghiệp nguyên liệu bao gồm nguyên liệu thô, linh
kiện rời hay bán thành phẩm, sử dụng trực tiếp trong quá trình sản xuất.
3.4 Đội ngũ các nhà kinh doanh: những người chấp nhận rủi ro tham gia
vào hoạt động kinh doanh. Nhà kinh doanh thể tự quản doanh nghiệp của
họ hoặc đối với các tổ chức kinh doanh lớn giới chủ thể thuê mướn một đội
ngũ các nhà quản trị chuyên nghiệp thay mặt họ điều hành doanh nghiệp.
Nhà kinh doanh những người tạo lập doanh nghiệp, làm chủ sở hữu quản
doanh nghiệp. Đó những người sáng tạo, linh hoạt, dám chấp nhận
những mạo hiểm rủi ro trong kinh doanh, chính họ những người tạo nên sức
sống của doanh nghiệp, tạo nên sự sôi động của cuộc sống cạnh tranh trên thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò kinh doanh biểu hiện trước hết trong việc
chuyển dịch các yếu tố kinh doanh: đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật, thông tin...
Nhà kinh doanh phải những người khả năng hoạt động theo nhiều chức
năng khác nhau. Khi bước vào lĩnh vực kinh doanh họ quyết tâm để theo
đuổi những mục tiêu đã xác định: tìm kiếm lợi nhuận, được tự chủ trong hành
động, được thỏa mãn trong cuộc sống v.v... .
Những nhà doanh nghiệp thành công chỉ chấp nhận những rủi ro được tính toán
của việc thu lợi nhuận hoặc lỗ trong việc thực hiện những hoạt động kinh
doanh trong một thị trường mà họ đã phát hiện ra một ý niệm về những nhu cầu
11
| 1/11

Preview text:

I. Vai trò và chức năng quản trị
1. Vai trò của quản trị
Vào thập niên 1960, Henry Mintzberg đã nghiên cứu một cách cẩn thận và
đã đưa ra kết luận rằng các nhà quản trị trong một tổ chức phải thực hiện 10
vai trò khác nhau. Mười vai trò quản trị này được tác giả sắp xếp chung vào
trong 3 nhóm: (1) vai trò quan hệ với con người, (2) vai trò thông tin, và (3)
vai trò quyết định. Tuy có sự phân chia thành các nhóm vai trò khác nhau
như vậy, nhưng có một sự liên hệ rất mật thiết giữa các nhóm vai trò đó. Ví
dụ như nhà quản trị không thể có các quyết định đúng nếu vai trò thông tin
không được thực hiện tốt. 1.1
. Vai trò quan hệ với con người
Sống và làm việc trong một tổ chức mọi cá nhân thường có các quan hệ
chặt chẽ và mật thiết với nhau, nhưng với tư cách là nhà quản trị họ thường
có những vai trò cơ bản sau:
- Vai trò đại diện: Là người đứng đầu một đơn vị, nhà quản trị thực hiện
các hoạt động với tư cách là người đại diện, là biểu tượng cho tập thể, có
tính chất nghi lễ trong tổ chức.
Ví dụ: những công việc như dự và phát biểu khai trương chi nhánh mới,
chào đón khách, tham dự tiệc cưới của thuộc cấp, đãi tiệc khách hàng ...

- Vai trò lãnh đạo: Chỉ huy, phối hợp và kiểm tra công việc của nhân viên
dưới quyền. Một số công việc như tuyển dụng, đào tạo, hướng dẫn, và
khích lệ nhân viên là một vài ví dụ về vai trò này của nhà quản trị.
- Vai trò liên lạc: Quan hệ với người khác ở trong hay ngoài tổ chức, để
nhằm góp phần hoàn thành công việc được giao cho đơn vị của họ.
Ví dụ như tiếp xúc với khách hàng và những nhà cung cấp. 1 1.2. V ai trò thông tin
Các hoạt động về quản trị chỉ thực sự có cơ sở khoa học và có hiệu quả khi
nó được xử lý, được thực thi trên cơ sở các thông tin chính xác, đầy đủ và
kịp thời. Thông tin không chỉ cần cho các nhà quản trị mà chính bản thân
nó cũng giữ những vai trò cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực này. Nghiên
cứu về vai trò thông tin của các nhà quản trị, chúng ta thấy:
- Vai trò thu thập và tiếp nhận các thông tin: Nhà quản trị đảm nhiệm
vai trò thu thập bằng cách thường xuyên xem xét, phân tích bối cảnh xung
quanh tổ chức để nhận ra những tin tức, những hoạt động và những sự kiện
có thể đem lại cơ hội tốt hay sự đe dọa đối với hoạt động của tổ chức. Công
việc này được thực hiện qua việc đọc báo chí, văn bản và qua trao đổi, tiếp
xúc với mọi người v.v...
Ví dụ: Nhà quản trị có thể sử dụng phản hồi của khách hàng để xác định cách
chúng ta có thể cải thiện sản phẩm hiện tại của mình. Chúng ta cần phải theo
dõi xu hướng trong ngành, ví dụ như các sản phẩm do đối thủ cạnh tranh tung
ra. Khi hiểu được những gì đang xảy ra trong ngành, chúng ta sẽ có những thay
đổi thích hợp để đảm bảo công ty đáp ứng được nhu cầu kinh doanh, duy trì
khả năng cạnh tranh của mình,…

- Vai trò phổ biến thông tin: Là người phổ biến thông tin cho mọi người,
mọi bộ phận có liên quan, có thể là thuộc cấp, người đồng cấp hay thượng cấp.
Ví dụ: Sau khi nghiên cứu một xu hướng mới trong ngành, nhà quản trị có thể
xây dựng một dự án thiết kế sản phẩm mới. Sau đó, chúng ta sẽ gửi đề xuất này
lên quản lý cấp trên để phê duyệt, đồng thời cung cấp thông tin cho nhân viên
của mình. Từ đó mọi người có thể tìm hiểu, làm quen với dự án, nhà quản trị
xác định được các nhiệm vụ cần thiết cho mỗi người để thực hiện nhiệm vụ sắp tới.

- Vai trò cung cấp thông tin: Là người có trách nhiệm và quyền lực thay
mặt tổ chức phát ngôn những tin tức ra bên ngoài với mục đích giải thích,
bảo vệ các hoạt động của tổ chức hay tranh thủ thêm sự ủng hộ cho tổ chức.
Ví dụ: Trách nhiệm của nhà quản trị tại cuộc họp cổ đông thường niên là thông
báo cho những người tham gia về các kết quả, thành tích mà nhóm/bộ phận
2
chúng ta đạt được trong năm đó. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thảo luận về
các mục tiêu kinh doanh chiến lược mà nhóm/bộ phận chúng ta muốn đạt được trong năm tới.

1.3. Vai trò quyết định
Nhóm vai trò cuối cùng của nhà quản trị gồm 4 vai trò: vai trò doanh nhân,
vai trò người giải quyết xáo trộn, vai trò người phân phối tài nguyên và vai trò nhà thương thuyết.
- Vai trò doanh nhân: Xuất hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến hoạt
động của tổ chức. Việc này có thể được thực hiện bằng cách áp dụng một
kỹ thuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.
Ví dụ: Nếu nhà quản trị nhận thấy doanh số bán hàng chậm lại thì chúng ta có
thể quyết định phát triển một chiến lược tiếp thị, bán hàng mới bằng cách sử
dụng phương tiện truyền thông xã hội để giải quyết vấn đề.

- Vai trò người giải quyết xáo trộn: Nhà quản trị là người phải kịp thời đối
phó với những biến cố bất ngờ nảy sinh làm xáo trộn hoạt động bình thường
của tổ chức như mâu thuẩn về quyền lợi, khách hàng thay đổi... nhằm đưa tổ
chức sớm trở lại sự ổn định.
Ví dụ: Nếu trong tổ chức xảy ra xung đột giữa 2 thành viên trong nhóm, nhà
quản trị cần phải xử lý tình huống khéo léo, khách quan, đồng thời đưa ra các
giải pháp có lợi cho 2 bên. Cần lưu ý chúng ta phải nhanh chóng hành động
để đảm bảo rằng công việc được tiếp diễn trơn tru, ít bị gián đoạn nhất có thể.

- Vai trò người phân phối tài nguyên: Khi tài nguyên khan hiếm mà lại
có nhiều yêu cầu, nhà quản trị phải dùng đúng tài nguyên, phân phối các tài
nguyên cho các bộ phận đảm bảo sự hợp lý và tính hiệu quả cao. Tài
nguyên đó có thể là tiền bạc, thời gian, quyền hành, trang bị, hay con
người. Thông thường, khi tài nguyên dồi dào, mọi nhà quản trị đều có thể
thực hiện vai trò này một cách dễ dàng. Nhưng khi tài nguyên khan hiếm,
quyết định của nhà quản trị trong vấn đề này sẽ khó khăn hơn, vì nó có thể 3
ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của một đơn vị hay thậm chí của toàn thể tổ chức.
Ví dụ: Nếu nhà quản trị kiểm soát ngân sách của tổ chức, chúng ta sẽ xác định
cách phân chia tài chính hợp lý giữa các bộ phận dựa trên nhu cầu và mục tiêu của từng phòng ban.

- Vai trò đàm phán, thương lượng : Thay mặt cho tổ chức thương thuyết
trong quá trình hoạt động, trong các quan hệ với những đơn vị khác, với xã hội.
Ví dụ: Nhà quản trị đàm phán thương lượng với một nhân viên về mức lương
của họ. Nếu không đáp ứng được mức lương mong muốn của nhân viên, chúng
ta có thể thương lượng một con số thấp hơn, ngoài ra có thể cung cấp các lợi
ích kèm theo, ví dụ như tiền thưởng, số ngày công làm việc ít hơn, … để làm
cho lời đề nghị mức lương trở nên hấp dẫn hơn cho họ.

Mười vai trò này liên hệ mật thiết với nhau và bất cứ lúc nào trong hoạt
động của mình, nhà quản trị có thể phải thực hiện nhiều vai trò cùng một
lúc, song tầm quan trọng của các vai trò thay đổi tuỳ theo cấp bậc của nhà
quản trị trong tổ chức.
Với chức năng và vai trò của mình, nhà quản trị giữ phần quan trọng trong
sự thành công hay thất bại của một tổ chức. Và đó cũng là lý do chính của
nhu cầu cấp bách phải đào tạo các nhà quản trị, vì sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội của cả nước.
2. Chức năng của quản trị 2.1. C
hức năng hoạch định
Chức năng hoạch định là chức năng đầu tiên trong quá trình quản trị doanh
nghiệp. Là chức năng quản trị có mục đích xác lập một mô hình ( tham chiếu)
cho tương lai nhờ đó mà ta nhận ra những cơ hội và rủi ro, căn cứ vào đó phải
làm những việc ngay bây giờ để khai thác cơ hội và né tránh rủi ro.Hoạch định
liên quan đến dự báo và tiên liệu tương lai, đến những mục tiêu cần đạtđược và
những phương thức đạt những mục tiêu đó. Nếu không lập kế hoạch thậntrọng
và đúng đắn thì dễ dẫn đến thất bại trong quản trị. Có rất nhiều công ty không
hoạt động được hay chỉ huy động được một phần công suất vì không hoạch định
hay hoạch định tồi. Hoạch định cũng có nghĩa là nghĩ cách sử dụng nhân tài, vật 4
lực để khai thác cơ hội, thời cơ và ngăn chặn hữu hiệu những rủi ro, bất trắc của môi trường.
Ví dụ với các doanh nghiệp mới tiến vào thị trường, họ sẽ hoạch định các kế
hoạch liên quan tới việc phủ sóng thị trường, tiếp cận khách hàng thay vì các
doanh nghiệp đã có tên tuổi cần các kế hoạch gia tăng lợi nhuận. Với 2 định
hướng khác nhau này dẫn đến các kế hoạch bổ sung cũng khác nhau. Một bên
có thể là đưa các sản phẩm mới ra thị trường thay vì một bên đưa nhiều mức
giá ưu đãi, combo sử dụng tặng kèm miễn phí.

2.2. Chức năng tổ chức
Chức năng tổ chức phần lớn dành cho những người thuộc cấp quản lý. Là chức
năng quản trị có mục đích phân công nhiệm vụ, tạo dựng một cơ cấu, thiết lập
thẩm quyền và phân phối ngân sách cần thiết để thực hiện kế hoạch. Nó sẽ trả
lời các câu hỏi: Làm gì? Ai làm?. Công việc tổ chức thực hiện đúng đắn sẽ tạo
nên môi trường nội bộ thuận lợi thúc đẩy hoạt động đạt mục tiêu, tổ chức kém
thì công ty sẽ thất bại cho dù hoạch định tốt 2.3. C
hức năng điều khiển
Đúng như tên gọi của mình, sau khi hoạch định và tổ chức các đầu công việc
thì chức năng điều khiển có vai trò kích thích, động viên, chỉ huy, phối hợp
nhân sự thực hiện các mục tiêu kế hoạch đã định và giải quyết các mâu thuẫn
khi phát sinh. Là chức năng quản trị nhằm gây ảnh hưởng, thúc đẩy, hướng dẫn
nguồn nhân lực thực hiện mục tiêu của công ty. Chức năng điều khiển liên quan
đến hoạt động thúc đẩy quan hệ cá nhân và nhóm trong mối quan hệ quản trị
nhằm xây dựng một bản sắc văn hóa cho tổ chức. Cuối cùng là quá trình thông
tin và truyền thông trong tổ chức. Lãnh đạo xuất sắc có khả năng đưa công ty
đến thành công dù kế hoạch và tổ chức chưa thật tốt, những sẽ chắc chắn thất bại nếu lãnh đạo kém.
Ví dụ, một doanh nghiệp đặt ra mục tiêu đưa ra sản phẩm mới ra thị trường
(hoạch định), chức năng tổ chức sẽ sắp xếp các công việc đầu việc với những
cá nhân có năng lực phù hợp (bao gồm marketing, CSKH, Sale,…). Mục điều
khiển là phần đôn đốc, phối hợp các nhân sự làm việc trơn tru, hiệu quả, làm
sao đưa sản phẩm tiếp cận thị trường khách hàng đạt doanh số tốt.

2.4. Chức năng kiểm soát
Kiểm soát là chức năng quản trị thúc đẩy thành tích của doanh nghiệp hướng về
hoàn thành mục tiêu. Kiểm soát là để lường trước các rủi ro, đánh giá hoạt động
và đo lường kết quả hoạt động… tìm ra các nguyên nhân gây ra sai lệch và tìm
ra các giải pháp điều chỉnh thích hợp. Chính kiểm soát là chức năng khép kín 5
một chu kỳ quản trị , mở ra một chu kì quản trị mới tạo ra sự liên tục cho quá
trình quản trị và nó là chức năng giúp nhà quản trị biết khi nào phải điều chỉnh
hoạt động, khi nào cần phải hoạch định mới…
II. Phân loại doanh nghiệp
1. Căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản trong doanh nghiệp
Theo tiêu thức này doanh nghiệp được phân thành các loại: DN nhà nước, DN
tư nhân, công ty, hợp tác xã (HTX)
1.1 Doanh nghiệp Nhà nước: là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn. Nhà
nước - người đại diện toàn dân - tổ chức thực hiện chức năng quản lý trên mọi
mặt hoạt động sản xuất kinh doanh kể từ khi thành lập cho đến khi giải thể.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự
trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
1.2 Doanh nghiệp góp vốn: là một tổ chức kinh tế mà vốn được đầu tư do các
thành viên tham gia góp vào và được gọi là công ty. Họ cùng chia lời và cùng
chịu lỗ tương ứng với phần vốn đóng góp. Trách nhiệm pháp lý của từng hình
thức có những đặc trưng khác nhau. Theo Luật doanh nghiệp, loại hình công ty
có các loại: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
- Các loại hình công ty ở Việt Nam. + Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các
thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là
cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty, không được đồng
thời là thành viên của công ty hợp danh khác hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân.
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ cuả công ty trong
phạm vi phần vốn góp đã góp vào công ty.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH).
Là doanh nghiệp, trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi
nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty.
+ Công ty cổ phần là công ty trong đó: 6
+ Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là ba.
+ Vốn cuả công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần và
được thể hiện dưới hình thức chứng khoán là cổ phiếu. Người có cổ phiếu gọi là
cổ đông tức là thành viên công ty.
+ Khi thành lập các sáng lập viên (những người có sáng kiến thành lập công ty
chỉ cần phải ký 20% số cổ phiếu dự tính phát hành), số còn lại họ có thể công
khai gọi vốn từ những người khác.
1.3 Doanh nghiệp tư nhân:
Theo hình thức này thì vốn đầu tư vào doanh nghiệp do một người bỏ ra. Toàn
bộ tài sản của doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tư nhân. Người quản lý
doanh nghiệp do chủ sở hữu đảm nhận hoặc có thể thuê mướn, tuy nhiên người
chủ doanh nghiệp là người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm toàn bộ các khoản
nợ cũng như các vi phạm trên các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trước pháp luật. 1.4 Hợp tác xã
- Khái niệm: HTX là loại hình kinh tế tập thể, do những người lao động và các
tổ chức có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội
2. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp được phân thành các loại:
- Doanh nghiệp nông nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, hướng vào việc sản xuất ra những sản phẩm là cây, con. Hoạt
động sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên.
- Doanh nghiệp công nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp, nhằm tạo ra những sản phẩm bằng cách sử dụng những thiết bị
máy móc để khai thác hoặc chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm. Trong
công nghiệp có thể chia ra: công nghiệp xây dựng, công nghiệp chế tạo, công nghiệp điện tử v.v... 7
- Doanh nghiệp thương mại: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu phân phối hàng
hóa cho người tiêu dùng tức là thực hiện những dịch vụ mua vào và bán ra để
kiếm lời.. Doanh nghiệp thương mại có thể tổ chức dưới hình thức buôn bán sỉ
hoặc buôn bán lẻ và hoạt động của nó có thể hướng vào xuất nhập khẩu.
- Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,
lĩnh vực dịch vụ càng được phát triển đa dạng, những doanh nghiệp trong ngành
dịch vụ đã không ngừng phát triển nhanh chóng về mặt số lượng và doanh thu
mà còn ở tính đa dạng và phong phú của lĩnh vực này như: ngân hàng, tài chính,
bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, khách sạn, y tế v.v... .
3. Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp:
Theo tiêu thức quy mô, các doanh nghiệp đước phân làm ba loại:
* Doanh nghiệp quy mô lớn.
* Doanh nghiệp quy mô vừa.
* Doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Để phân biệt các doanh nghiệp theo quy mô như trên, hầu hết ở các nước người
ta dựa vào những tiêu chuẩn như:
- Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp.
- Số lượng lao động trong doanh nghiệp.
- Doanh thu của doanh nghiệp. - Lợi nhuận hàng năm.
Trong đó tiêu chuẩn tổng số vốn và số lao động được chú trong nhiều hơn, còn
doanh thu và lợi nhuận được dùng kết hợp để phân loại. Tuy nhiên, khi lượng
hóa những tiêu chuẩn nói trên thì tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất ở
mỗi quốc gia, tùy thuộc từng ngành cụ thể, ở các thời kỳ khác nhau mà số lượng
được lượng hóa theo từng tiêu chuẩn giữa các quốc gia không giống nhau. 8
III. Bản chất và đặc điểm của kinh doanh
1. Bản chất của kinh doanh.
Doanh nghiệp như đã nêu ở trên, nó khác với các tổ chức khác ở chỗ chúng sản
xuất hàng hóa, hay cung cấp các loại dịch vụ với mục đích thu được lợi nhuận
nhằm mở rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là một hệ thống sản
xuất hàng hóa hoặc dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu của con người, của xã hội.
Bản thân kinh doanh có thể được coi như một hệ thống tổng thể bao gồm những
hệ thống cấp dưới nhỏ hơn là các ngành kinh doanh, mỗi ngành kinh doanh
được tạo thành bởi nhiều doanh nghiệp có quy mô khác nhau, sản xuất nhiều
loại sản phẩm khác nhau. Mỗi doanh nghiệp lại bao gồm nhiều hệ thống con
như sản xuất, tài chính, marketing...
Bản chất của kinh doanh:
- Doanh nghiệp tiếp nhận các nhập lượng và hoạt động trong những điều kiện
đặc thù tùy theo loại hình kinh doanh. Tuy nhiên có điểm chung là các yếu tố
nhập lượng chỉ có giới hạn hay được gọi là khan hiếm đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
- Doanh nghiệp sử dụng các nhập lượng theo cách thức hiệu quả nhất. Sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp yêu cầu hàng hóa được bán với giá phải chăng và có
chất lượng thích hợp. Một doanh nghiệp thành công phải luôn luôn phát hiện
được những nhu cầu mới hoặc nhu cầu còn thiếu, chưa được đáp ứng của người
tiêu dùng và luôn luôn sẵn sàng thỏa mãn các nhu cầu đó. Dưới áp lực của cạnh
tranh và sức mua của người tiêu dùng, các nhà sản xuất sẽ cố gắng sử dụng có
hiệu quả hơn thiết bị, nguyên liệu và lao động để tạo ra nhiều hàng hóa hơn, có
chất lượng tốt hơn. Do đó, khi theo đuổi những quyền lợi riêng tất yếu doanh
nghiệp sẽ đồng thời tạo ra lợi ích cho xã hội, bởi các doanh nghiệp sẽ phải thỏa
mãn các nhu cầu của xã hội khi cố gắng thỏa mãn những ham muốn của họ.
Trong lúc theo đuổi lợi nhuận, nhà kinh doanh cũng phải phục vụ người tiêu
dùng và phục vụ lợi ích xã hội. Quan niệm này là nền tảng của nền kinh tế thị trường.
- Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu và xã hội.
2. Đặc điểm của kinh doanh
2.1.Sự phức tạp và tính đa dạng:
Hệ thống kinh doanh hiện đại là một cơ cấu rất phức tạp gồm có nhiều khu vực.
Mỗi khu vực do nhiều ngành tạo nên. Mỗi ngành lại được tạo thành từ nhiều tổ
chức kinh doanh mà các tổ chức kinh doanh này thay đổi trong những giới hạn 9
hình thức sở hữu, qui mô kinh doanh, cơ cấu vốn, phong cách quản trị và phạm vi hoạt động.
Chẳng hạn: khu vực sản xuất được tạo nên bằng các nhà máy lắp ráp ôtô, chế
tạo đồ điện gia dụng (ấm đun nước, nồi cơm điện, tủ lạnh,...) và các sản phẩm
điện tử (máy ghi âm, cassetle, đầu máy và ti vi, máy tính, máy vi tính,...). Khu
vực dịch vụ bao gồm các loại dịch vụ như vận tải, ngân hàng, các dịch vụ
chuyên nghiệp. Ngành công ty vận tải được tạo thành bởi các ngành: đường sắt,
vận tải biển, vận tải ôtô, hàng không. Ngành công nghiệp dịch vụ bao gồm các
đại lý vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các khu vườn quốc gia. Ngành dịch vụ
chuyên nghiệp bao gồm các luật sư, kiến trúc sư, bác sĩ, chuyên viên kế toán,
nhà kinh doanh bất động sản...
2.2 Sự phụ thuộc lẫn nhau:
Các tổ chức kinh doanh hợp tác với nhau trong hoạt động kinh doanh. Một công
ty mua nguyên liệu thô hay các chi tiết rơi từ nhiều công ty khác, sau đó bán các
sản phẩm hoàn thành cho các nhà bán buôn, bán lẻ và những người này đem
bán chúng cho những người sử dụng cuối cùng. Trong tiến trình đó, tất cả các tổ
chức kinh doanh này đều phụ thuộc vào sự cung ứng dịch vụ của các công ty
vận tải, các ngân hàng và nhiều công ty khác. Vì vậy sự phụ thuộc lẫn nhau là
một hệ thống kinh doanh riêng của hệ thống kinh doanh hiện đại.
2.3 Sự thay đổi và đổi mới:
Để đảm bảo thành công, các tổ chức kinh doanh phải đáp ứng kịp thời những
thay đổi thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Hệ quả tất yếu của các tiến bộ
công nghệ là nhiều sản phẩm nhanh chóng trở nên lỗi thời và bị thay thế. Bởi
vậy sự thay đổi và đổi mới là những đặc trưng quan trọng trong hệ thống kinh doanh hiện đại.
3. Các yếu tố sản xuất
Hệ thống tổ chức kinh doanh cần đến nhiều yếu tố nhập lượng khác nhau để tạo
ra các xuất lượng cho xã hội. Các nhập lượng này được gọi là các yếu tố sản
xuất, các nhập lượng căn bản gồm có lao động, tiền vốn, nguyên vật liệu, đội ngũ các nhà kinh doanh.
3.1 Lao động: Bao gồm tất cả những người làm việc trong doanh nghiệp (còn
được gọi là nguồn nhân lực) từ giám đốc đến quản đốc, nhân công đến nhân
viên văn phòng, công nhân trong dây chuyền lắp ráp, người bán hàng,...
3.2 Tiền vốn: Là tất cả tiền của cho hoạt động tài chính của một doanh nghiệp.
Những tiền của này có thể là vốn đầu tư của chính chủ doanh nghiệp, các cổ 10
đông, của các thành viên, là tiền vay ngân hàng hay lợi nhuận kinh doanh được
giữ lại. Chúng được sử dụng để mua nguyên liệu, trả lương công nhân, lắp đặt
máy móc, thiết bị mới hay xây dựng nhà xưởng, mở rộng nhà máy.
3.3 Nguyên liệu: Có thể thuộc dạng tự nhiên như đất đai, nước hay khoáng chất
để tuyển chọn. Trong công nghiệp nguyên liệu bao gồm nguyên liệu thô, linh
kiện rời hay bán thành phẩm, sử dụng trực tiếp trong quá trình sản xuất.
3.4 Đội ngũ các nhà kinh doanh: Là những người chấp nhận rủi ro tham gia
vào hoạt động kinh doanh. Nhà kinh doanh có thể tự quản lý doanh nghiệp của
họ hoặc đối với các tổ chức kinh doanh lớn giới chủ có thể thuê mướn một đội
ngũ các nhà quản trị chuyên nghiệp thay mặt họ điều hành doanh nghiệp.
Nhà kinh doanh là những người tạo lập doanh nghiệp, làm chủ sở hữu và quản
lý doanh nghiệp. Đó là những người có sáng tạo, linh hoạt, dám chấp nhận
những mạo hiểm rủi ro trong kinh doanh, chính họ là những người tạo nên sức
sống của doanh nghiệp, tạo nên sự sôi động của cuộc sống cạnh tranh trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò kinh doanh biểu hiện trước hết trong việc
chuyển dịch các yếu tố kinh doanh: đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật, thông tin...
Nhà kinh doanh phải là những người có khả năng hoạt động theo nhiều chức
năng khác nhau. Khi bước vào lĩnh vực kinh doanh họ có quyết tâm để theo
đuổi những mục tiêu đã xác định: tìm kiếm lợi nhuận, được tự chủ trong hành
động, được thỏa mãn trong cuộc sống v.v... .
Những nhà doanh nghiệp thành công chỉ chấp nhận những rủi ro được tính toán
của việc thu lợi nhuận hoặc lỗ lã trong việc thực hiện những hoạt động kinh
doanh trong một thị trường mà họ đã phát hiện ra một ý niệm về những nhu cầu 11
Document Outline

  • I. Vai trò và chức năng quản trị
    • 1. Vai trò của quản trị
      • 1.1. Vai trò quan hệ với con người
      • 1.2. Vai trò thông tin
    • 2. Chức năng của quản trị
      • 2.1. Chức năng hoạch định
      • 2.2. Chức năng tổ chức
      • 2.3. Chức năng điều khiển
      • 2.4. Chức năng kiểm soát
    • 1. Căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản trong doanh nghiệp
      • 1.3 Doanh nghiệp tư nhân:
      • 1.4 Hợp tác xã
    • 2. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
    • 3. Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp:
  • III. Bản chất và đặc điểm của kinh doanh
    • 1. Bản chất của kinh doanh.
    • 2. Đặc điểm của kinh doanh
      • 2.1.Sự phức tạp và tính đa dạng:
      • 2.2 Sự phụ thuộc lẫn nhau:
      • 2.3 Sự thay đổi và đổi mới:
    • 3. Các yếu tố sản xuất