Tài liệu ôn tập Chương 3 - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Tài liệu ôn tập Chương 3 - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin (FC.001.03)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT CHƯƠNG 3
I. Nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh
tế-xã hội; ý nghĩa phương pháp luận đối với sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác
– Lênin bao gồm một số hệ thống các quan điểm cơ bản:
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động, phát triển của xã hội
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội:
- Là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ
lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên,
cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra
của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Vai trò của sản xuất vật chất:
Trực tiếp tạo ra tư liệu sinh hoạt của con người duy trì
sự tồn tại của xã hội loài người
Là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người,
hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất.
Là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người,
qua lao động -> ngôn ngữ. about:blank 1/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
a. Phương thức sản xuất.
- Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là: cách
thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội con người.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất thể
hiện ở 3 khía cạnh: Lực lượng sản xuất nào quan hệ sản
xuất đó, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản
xuất cũng thay đổi, nội dung quan hệ sản xuất do lực
lượng sản xuất quyết định.
Ví dụ khi lực lượng sản xuất dựa vào công cụ thô sơ thì
các quan hệ sản xuất đi kèm cũng chủ yếu chỉ là quản
lý nhỏ, phân tán, hình thức phân phối chủ yếu theo hiện
vật. Còn khi lực lượng sản xuất dựa vào công cụ lao
động hiện đại thì các quan hệ sản xuất cũng lớn hơn đa
dạng hơn như sở hữu lớn, quản lý theo phong cách hiện
đại, hình thức phân phối đa dạng.
- Quan hệ sản xuất lại tác động ngược lại lực lượng sản
xuất theo 2 chiều hướng:
Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì
sẽ tạo đà phát triển cho LLSX, ngược lại nếu QHSX
không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ
cản trở LLSX phát triển.
Để xét sự phù hợp giữa QHSX và LLSX ta xét các khía cạnh sau: about:blank 2/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
_Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành LLSX.
_Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành QHSX
_Sự kết hợp đúng đắn giữa LLSX với QHSX.
_Tạo điều kiện tối ưu sử dụng và kết hợp giữa lao động và TLSX.
_Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất
và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội.
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của
một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng, hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư
tưởng xã hội với những thiết chế xã hội tương ứng cùng
những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng&kiến trúc thượng tầng của xh
- Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng:
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng của xã hội là 1 trong 2 quy about:blank 3/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
luật cơ bản của sự vận động và phát triển lịch sử xã hội
loài người. Trong mối quan hệ này cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng. Bởi vì, quan hệ vật chất
quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét
đến cùng tính tất yếu chính trị - xã hội. CSHT như thế
nào thì KTTT như thế đó, QHSX nào là thống trị thì nó sẽ
tạo ra một KTTT như thế ấy , giai cấp nào mà thống trị
trong xã hội thì toàn bộ tư tưởng của giai cấp đó sẽ là tư
tưởng thống trị trong xã hội. CSHT mà mất đi, CSHT mới
ra đời thì sớm hay muộn KTTT cũng mất đi để ra đời một
KTTT mới. Nội dung của KTTT do CSHT quy định.
Ví dụ trong xã hội tư bản quan hệ sở hữu là tư hữu thì
KTTT là nhà nước tư sản
ban hành pháp luật bảo vệ chế độ tư hữu, khi xã hội tư
hữu chuyển thành công hữu, nhà nước tư sản thành nhà
nước xã hội chủ nghĩa ban hành pháp luật bảo vệ chế độ công hữu.
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ
sở hạ tầng sinh ra nó. Suy cho cùng vẫn là bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị, ngăn chặn CSHT mới, xóa bỏ tàn
dư CSHT cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế.
Nếu KTTT tác động đến CSHT cùng chiều với quy luật
kinh tế thì sẽ đẩy xã hội phát triển, hoặc ngược lại. KTTT
chính trị có vai trò lớn nhất do phản ánh trực tiếp CSHT,
là biểu hiện tập trung của kinh tế.
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử -tự nhiên. about:blank 4/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế- xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và với
một KTTT tương ứng được xây dựng trên kiểu QHSX đó.
b. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người. Giá
trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng.
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái
kinh tế xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện tại là đang tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển này là 1 quá trình
lịch sử tự nhiên do các lý do sau:
_Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan
_Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã
hội đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự
phát triển của LLSX xã hội.
_Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
còn chịu sự tác động của các nhân tố chủ quan khác
nên xu hướng chung của các HTKT – XH là sự phát triển
từ thấp lên cao. Nhưng sự phát triển đó được diễn ra bằng nhiều cách.
_Điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và chủ quan)
Ý nghĩa phương pháp luận
Khẳng định vai trò quyết định của sản xuất vật chất,
nhưng chủ nghĩa Mác chưa bao giờ xem nhẹ các nhân
tố khác cũng tác động đến quá trình biến đổi xã hội about:blank 5/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
như: môi trường tự nhiên; cơ cấu dân số; đặc trưng văn
hoá... Quan điểm này biểu hiện trong việc học thuyết
của chủ nghĩa Mác đã phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất;
giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng; giữa ý
thức xã hội và tồn tại xã hội. Và rằng lịch sử phát triển
của xã hội loài người chẳng qua là lịch sử của những sự
thay thế nối tiếp nhau của những phương thức sản xuất.
Còn nguồn gốc thay đổi của phương thức sản xuất, sự
mất đi của hình thái kinh tế - xã hội này và sự ra đời của
hình thái kinh tế - xã hội khác chính là do mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quyết định,
và cuối cùng là các cuộc cách mạng xã hội. Trong đó lực
lượng sản xuất yếu tố động, chịu sự quy định, thay đổi
liên tục của công cụ lao động. Là yếu tố quan trọng
nhất, quy định chất của phương thức sản xuất hay một
hình thái kinh tế - xã hội xác định trong lịch sử, lực
lượng sản xuất trong giới hạn tồn tại của mình ở một
phương thức sản xuất nhất định đã cho phép học thuyết
của chủ nghĩa Mác đưa ra kết luận nổi tiếng: “sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự - nhiên”[2]. Và Lênin đã chỉ rõ cơ sở khoa học
của vấn đề này như sau: “Chỉ có đem quy những quan
hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy
những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”[3].
Kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với đúc kết đời sống
hiện thực, chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ, lịch sử nhân loại đã
trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội: từ công xã nguyên
thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và chủ nghĩa tư bản.
Đặc biệt, ở xã hội tư bản khi xã hội phát triển, mâu about:blank 6/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với đặc
trưng là chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, sự thống trị và bóc lột trong quan hệ tổ chức
và phân phối, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản đại biểu cho lực lượng sản xuất
mới, tiến bộ với giai cấp tư sản nắm, củng cố, bảo vệ
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời, lạc hậu.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư
sản nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ
nghĩa là phù hợp với quy luật chung và đưa đến hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, đến đây xét trên phương diện lý luận lẫn thực
tiễn, học thuyết của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế
xã hội đã làm rõ những vấn đề về nguồn gốc, động lực,
sự vận động khách quan của lịch sử xã hội loài người từ
chính thực tiễn của đời sống xã hội. Đã cung cấp cho
nhân loài một thế giới quan khoa học, cách nhìn nhận,
phân định, đánh giá quy luật vận động, phát triển tất
yếu của xã hội loài người. Đã vạch rõ kết cấu cơ bản và
phổ biến của mọi xã hội, cùng cơ chế tác động và phát
triển xã hội theo những quy luật khách quan. Đồng thời
chỉ ra hình thức tổ chức, kết cấu về một hình thái kinh
tế xã hội trong tương lai mà loài người tất yếu sẽ hướng
đến, cùng với đó là cách thức, con đường, biện pháp
cách mạng thực hiện cho các chính đảng cộng sản, nhà
nước vô sản trong hoạch định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa.
CÂU 2: Quan điểm của triết học Mác-Lênin về giai
cấp và đấu tranh giai cấp; ý nghĩa phương pháp about:blank 7/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
luận trong nhận thức thực tiễn đấu tranh giai cấp
ở Việt Nam và trên thế giới
Về nguồn gốc giai cấp, điểm xuất phát của C. Mác khi
nghiên cứu về xã hội là “con người hiện thực”, tức
không phải con người chung chung, trừu tượng như một
số các nhà triết học trước đó, mà đây là con người đang
sống trong một đất nước nhất định, một dân tộc nhất
định, một thời đại nhất định. C. Mác đã phát hiện ra một
sự thật vô cùng hiển nhiên là: “Người ta phải có khả
năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng
muốn sống được phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và vài thứ khác nữa”(1). Đây là nhu cầu đầu
tiên và tối thiểu của con người để họ có thể sống, tồn
tại và muốn có những thứ đó con người buộc phải lao
động, sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp
thống nhất hữu cơ giữa người lao động và tư liệu sản
xuất. Chừng nào trong xã hội có sự tách rời giữa người
lao động và tư liệu sản xuất, hay nói cách khác, có tồn
tại chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lúc đó trong
xã hội xuất hiện giai cấp. Vì vậy, trong xã hội nguyên
thủy, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, với công cụ
bằng đá, gậy gộc, cung tên... con người làm ra sản
phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản
phẩm dư thừa tương đối thì chưa xuất hiện chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, do đó, chưa xuất hiện việc
phân chia giai cấp trong xã hội. Đến xã hội chiếm hữu
nô lệ, do xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất nên trong xã hội xuất hiện giai cấp. Chủ nô và nô
lệ là hai giai cấp cơ bản đối kháng trong xã hội này.
Do điều kiện lịch sử thời kỳ bấy giờ, C. Mác không nói rõ
nguyên nhân dẫn tới việc phân chia giai cấp, nhưng ông
cũng khẳng định rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ
gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định about:blank 8/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
của sản xuất”(2) và đó là giai đoạn xuất hiện chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Sau này Ph. Ăng-ghen đã
làm rõ hơn: “Quy luật phân công lao động là cái làm cơ
sở cho sự phân chia thành giai cấp”(3). Ngoài ra, Ph.
Ăng-ghen còn bổ sung, chiến tranh và cướp bóc đã đẩy
nhanh quá trình phân hóa giai cấp: “Nhưng điều đó
hoàn toàn không loại trừ việc sử dụng bạo lực, cướp
bóc, mánh khóe và lừa bịp trong sự hình thành các giai
cấp, và không cản trở giai cấp thống trị, một khi đã nắm
được chính quyền sẽ củng cố địa vị của nó trên lưng các
giai cấp lao động và biến việc quản lý xã hội thành việc
bóc lột quần chúng”(4).
_Đấu tranh giai cấp là tất yếu trong xã hội có giai cấp
Theo C.Mác, trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị
chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị.
Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt
kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư
tưởng và tinh thần. Bởi sự hình thành giai cấp cũng là
sự hình thành các lợi ích khác nhau. Lợi ích giai cấp
không phải do ý thức giai cấp quy định mà do địa vị
kinh tế - xã hội của giai cấp ấy tạo nên một cách khách
quan. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp
và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì
củng cố chế độ kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng
những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích cơ bản của
giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp
thống trị. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp.
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo
C.Mác là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển cao của lực about:blank 9/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Theo C.
Mác, đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã
hội chỉ có thể nổ ra trên cơ sở lực lượng sản xuất phát
triển tới mức mâu thuẫn không thể giải quyết với quan
hệ sản xuất đã lỗi thời trong lòng xã hội cũ. C.Mác gọi
đây là "tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có
nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ
biến; mà với sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại
một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết, thế là
người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện trước đây”(5).
Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu
dẫn đến việc xã hội phải xóa bỏ bằng cách này hay
cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một
kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất: “Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện
có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất… Khi đó bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội”(6) đó chính là cách
mạng xã hội hay đấu tranh giai cấp.
_Lực lượng và tiến trình đấu tranh giai cấp trong
xã hội tư bản chủ nghĩa
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-
ghen đã phân tích nguyên nhân cuộc đấu tranh giai cấp
dẫn đến sự sụp đổ của chế độ phong kiến để hình thành
nên xã hội tư bản: “... chúng ta đã thấy rằng, những tư
liệu sản xuất và trao đổi, làm cơ sở cho giai cấp tư sản about:blank 10/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
hình thành, đã được tạo ra trong lòng xã hội phong kiến.
Những tư liệu sản xuất và trao đổi ấy, phát triển tới một
trình độ nhất định nào đó thì... tất cả những cái đó đều
biến thành xiềng xích. Phải đập tan những xiềng xích
ấy... Thay vào đó là sự cạnh tranh tự do, với một chế độ
xã hội và chính trị thích ứng, với sự thống trị kinh tế và
chính trị của giai cấp tư sản”(7). Như vậy, sự ra đời của
phương thức sản xuất tư bản là tất yếu khách quan và
là bước tiến vĩ đại trong tiến trình phát triển lịch sử - xã
hội và mặc dù quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
giải phóng lực lượng sản xuất. Song, thực ra đó chỉ là sự
thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của
giai cấp địa chủ, bằng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất của giai cấp tư sản, thay thế phận làm thuê,
làm mướn của người nông nô cho địa chủ bằng cuộc đời
làm thuê của giai cấp công nhân cho giai cấp tư sản. Vì
thế, mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và vô sản
lại tương tự như địa chủ và nông nô tiếp tục diễn ra
trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này
không thể giải quyết trong xã hội tư bản và là nguyên
nhân của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Bởi vậy: “những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để
đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập
vào chính ngay giai cấp tư sản”(8). Nghĩa là, lịch sử đã
tạo ra chủ nghĩa tư bản hiện đại và đến lượt nó lại trở
thành vật cản của văn minh nhân loại. Đồng thời các
ông khẳng định, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tất cả
các giai cấp, các tầng lớp trung gian bị bóc lột đều đấu
tranh chống lại giai cấp tư sản. Nhưng, “Trong tất cả các
giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả
các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự
phát triển của đại công nghiệp”(9). Đây là một trong
những tư tưởng cơ bản của lý luận đấu tranh giai cấp about:blank 11/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
của chủ nghĩa Mác. Sau này V.I Lê-nin cũng đã khẳng
định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ
nó đã làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản”(10).
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải là “ý
muốn nhân tạo”, hoặc “lựa đặt ngông cuồng” của C.Mác
mà do địa vị kinh tế - xã hội khách quan quy định. Bởi,
giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp,
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời
đại, là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích toàn xã
hội, là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có nó
mới có tính triệt để cách mạng, tự giải phóng cho mình
và giải phóng cho xã hội. Nói cách khác, giai cấp vô sản
không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.
Tiến trình của cuộc đấu tranh giai cấp mà C.Mác chỉ ra
diễn ra theo hai bước. Trước hết là giai cấp vô sản liên
hiệp lại, thành lập các đoàn thể, tạo điều kiện cho sự ra
đời chính đảng vô sản. Dưới sự lãnh đạo của chính đảng
vô sản, giai cấp vô sản dùng bạo lực lật đổ toàn bộ
chính quyền tư sản. Sau khi đạt được chính quyền “giai
cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập
trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước,
tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp
thống trị”(11). Tuy nhiên, trong một số tác phẩm đầu
đời, C. Mác chưa thấy được tính phức tạp của cuộc đấu
tranh giai cấp. Do vậy, sau khi tổng kết thực tiễn đấu
tranh giai cấp của các nước Pháp, Đức, đặc biệt là Công
xã Pa-ri, C.Mác đã có những bổ sung lý luận về đấu
tranh giai cấp cụ thể hơn khi ông khẳng định: nông dân
là đồng minh tự nhiên với giai cấp vô sản, “công nhân
Pháp không thể tiến lên được một bước nào, và cũng about:blank 12/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
không thể đụng đến một sợi tóc nào của chế độ tư sản,
trước khi mà đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu
tư sản”(12) và trong cuộc đấu tranh giai cấp sắp tới,
giai cấp vô sản không phải là hoàn thiện bộ máy nhà
nước sẵn có mà phải “đập tan” bộ máy nhà nước đó,
đồng thời phải tiến hành cách mạng không ngừng. Điều
này cho thấy, lý luận về nhà nước của giai cấp vô sản
trong cuộc đấu tranh giai cấp là bước tiến dài so với các
tác phẩm viết vào đêm trước của cách mạng 1848.
Cũng thông qua việc tổng kết thực tiễn phong trào đấu
tranh giai cấp giai đoạn 1848 - 1851, C. Mác đã khẳng
định: để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, giai
cấp vô sản phải thực hiện cách mạng không ngừng và
sự chuyên chính giai cấp - chuyên chính vô sản, “Chủ
nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không
ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi
đó là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những
khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ tất cả những quan
hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xóa
bỏ tất cả những mối quan hệ xã hội thích ứng với những
quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư
tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ sản xuất đó”(13).
Điều đó cho thấy, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội không thể không có một thời kỳ quá độ về chính trị.
Nhà nước của thời kỳ quá độ này là nền chuyên chính
của giai cấp vô sản và giữa xã hội tư bản và xã hội cộng
sản có một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội trước
đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm khác
hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. C.
Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng
sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã about:blank 13/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản”(14).
Như vậy, qua một số các tác phẩm của mình, C. Mác đã
nêu những luận điểm quan trọng về giai cấp, đấu tranh
giai cấp là: sự xuất hiện giai cấp trong xã hội là tất yếu
khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn
tới chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; trong
xã hội có giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp;
giai cấp vô sản chỉ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình khi hội tụ đủ điều kiện khách quan và chủ quan
cần thiết. Điều kiện khách quan là sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại công nghiệp,
quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Điều kiện
chủ quan là giai cấp vô sản phải tập hợp được liên minh
đông đủ lực lượng, liên minh với nông dân và tiểu tư
sản, xây dựng chính Đảng Cộng sản, có hệ tư tưởng tiến
bộ của mình và chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thực hiện cách mạng không ngừng. Sau khi cách mạng
thắng lợi, giai cấp vô sản phải đập tan nhà nước tư sản,
thành lập nhà nước vô sản và thực hiện nền chuyên
chính vô sản trong nhà nước vô sản ở thời kỳ quá độ.
Trong thư gửi G. Vây-đơ-mây-e ngày 05-3-1852, C. Mác
đã khái quát lý luận về giai cấp của mình rất ngắn gọn,
khoa học và đầy đủ như sau:
“1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất.
2. Cuộc đấu tranh giai cấp nhất thiết sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. about:blank 14/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
3. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ
tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới một xã
hội không giai cấp”(15).
Khẳng định điều này, C. Mác cho rằng, cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản là nhằm giải phóng con người khỏi
chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa và xóa bỏ hoàn toàn
chế độ người bóc lột người. Do vậy, đây là cuộc đấu
tranh gay go và phức tạp nhất trong lịch sử. Cuộc đấu
tranh này tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Nhưng,
chuyên chính vô sản không phải là mục đích cuối cùng
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Nó chỉ là bước quá
độ để tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp, tiến tới xã hội không
có giai cấp. Trong thời kỳ quá độ, giai cấp vô sản cần
phải sử dụng nền chuyên chính của mình để tiếp tục
cuộc đấu tranh trong điều kiện mới. Như vậy, ngay từ
khi giai cấp vô sản ra đời thì cuộc đấu tranh của nó với
giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác cũng xuất
hiện. Cuộc đấu tranh đó diễn ra thường xuyên, liên tục
cả khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền từ
tay giai cấp thống trị cũ, lẫn khi đã thiết lập được chính
quyền cách mạng của mình và sử dụng chính quyền ấy
như một công cụ để xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, nội
dung và hình thức đấu tranh giai cấp ở những thời kỳ
cách mạng khác nhau lại có sự khác nhau do điều kiện
lịch sử cụ thể quy định.
Ý nghĩa phương pháp luận
Một là, phải bám sát điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đấu tranh giai cấp là
một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử -
xã hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có
giai cấp. Quá trình này không phụ thuộc vào việc người about:blank 15/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
ta có quan niệm như thế nào về nó. Mà muốn đưa ra
những kết luận khái quát đúng đắn về nó, cần phải
nghiên cứu những sự kiện lịch sử cụ thể, phân tích sự
vận động của các sự kiện lịch sử đó một cách tỉ mỉ, chi
tiết với một thái độ khách quan, biện chứng. Những
phân tích của C.Mác về các sự kiện lịch sử ở Pháp
những năm 1848 - 1850, 1851 và 1871 đã chứng tỏ điều đó.
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Đảng ta chủ
trương phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo
điều kiện để mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội có
thể phát huy hết tiềm năng của mình, góp phần làm
cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Trong bối cảnh đó, có quan điểm cho rằng, không
nên đặt vấn đề đấu tranh giai cấp vì nó sẽ dẫn đến
phân tán lực lượng, chia rẽ lực lượng. Đây là một quan
điểm không đúng, vì sự tồn tại của các thành phần kinh
tế tức là còn sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có
nghĩa là còn tồn tại các giai cấp trong xã hội, do vậy
không thể loại bỏ đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp
cũng là một tất yếu khách quan trong mọi xã hội có giai
cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng: xã hội Việt Nam hiện
nay không còn sự khác biệt giai cấp, không còn mâu
thuẫn giai cấp, không còn đấu tranh giai cấp. Nhưng,
cũng sẽ là sai lầm nếu phân chia các giai cấp trong xã
hội Việt Nam hiện nay thành hai lực lượng đối kháng về
mặt lợi ích. Việc nhận thức đúng đắn tính chất, nội dung
của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay sẽ giúp
chúng ta xử lý một cách khoa học mối quan hệ xã hội -
giai cấp, đưa sự nghiệp đổi mới tới thắng lợi.
Hai là, Việt Nam là nước đã giành được chính quyền về
tay giai cấp công nhân và sau khi có chính quyền, cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn phải tiếp tục about:blank 16/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
trong điều kiện mới, với tính chất gay go, phức tạp, có
mặt ngày càng gay gắt hơn. Mục tiêu đấu tranh của giai
cấp công nhân cũng thay đổi, từ mục tiêu tất cả để
giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ
yếu là phát triển kinh tế nhằm giữ vững thành quả cách
mạng. Do vậy, thực chất cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam hiện nay là phát triển lực lượng sản xuất đạt tới
trình độ cao, đồng thời từng bước xây dựng quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản
xuất. Bởi theo C.Mác, nguyên nhân sâu xa của đấu
tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất
không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nguyên nhân sâu xa ra đời giai cấp cũng là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khách quan đầu
tiên để xã hội không còn tồn tại giai cấp, xóa bỏ giai
cấp cũng là do lực lượng sản xuất phát triển tới trình độ
rất cao. Trong khi Việt Nam hiện nay đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm thấp, tuy đã
qua vài thập kỷ xây dựng, phát triển kinh tế nhưng trình
độ lực lượng sản xuất vẫn còn thấp kém và phát triển
không đồng đều giữa các vùng, miền. Vì vậy, nhiệm vụ
trước mắt là phát triển lực lượng sản xuất đạt tới trình
độ cao. Bên cạnh đó, cần lựa chọn hình thức quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ đa dạng, phức tạp của Việt Nam hiện nay.
Ba là, trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam hiện
nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí
thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ
phận tư sản, tiểu tư sản, các thế lực thù địch chống phá
chủ nghĩa xã hội. Với kết cấu giai cấp đó, tất yếu nảy
sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động
làm thuê với tầng lớp tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát about:blank 17/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
triển tự giác (có mục đích, có điều khiển) theo con
đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát đi lên
chủ nghĩa tư bản. Trong điều kiện đó, chính quyền giai
cấp vô sản phải tiếp tục sử dụng phương pháp cách
mạng không ngừng, sử dụng chuyên chính vô sản của
mình để đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch,
đồng thời định hướng chính trị cho phù hợp với mục tiêu
chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã chọn. Hay
nói cách khác, cần sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình
thức đấu tranh, trong đó có hoà bình và bạo lực, giáo
dục thuyết phục với pháp chế và hành chính. Sử dụng
hình thức đấu tranh nào tùy thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể. Đặc biệt, điều kiện mới hiện nay, không
được cường điệu cuộc đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự rụt
rè, không dám đổi mới; đồng thời, không được coi nhẹ,
xem thường đấu tranh giai cấp, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác.
Muốn đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, muốn đảm bảo thắng lợi trong cuộc đấu
tranh chống lại các thế lực thù địch, thì giai cấp công
nhân Việt Nam phải xây dựng, củng cố và phát huy
được khối liên minh giữa giai cấp công nhân - nông dân
và tầng lớp trí thức. Phải củng cố và tăng cường được sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đặc biệt, giai cấp công nhân phải nắm
vững công cụ chuyên chính của mình, tức là phải xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành
một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân
III. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về nhà nước; sự
vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong xây dựng nhà nước Việt Nam about:blank 18/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước (tr 384 giáo trình) 1.1. Nguồn gốc của Nhà
nước..............................................................3 1.2. Bản chất của Nhà
nước................................................................4
1.2.1. Tính giai cấp của Nhà
nước.....................................................4
1.2.2. Tính xã hội của Nhà
nước........................................................5
1.3. Chức năng cơ bản của Nhà
nước..................................................5
1.3.1. Chức năng đối nội và chức năng đối
ngoại.............................5
1.3.2. Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội.................6
1.4. Đặc trưng cơ bản của Nhà
nước...................................................6
1.5. Các kiểu và hình thức Nhà
nước...................................................7
1.5.1. Kiểu và hình thức Nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp...7
1.5.2. Kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về nhà nước của Đảng Cộng sản Việt Nam :
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chức năng
giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước đã được
Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng trong quá trình xây about:blank 19/23 23:58 3/8/24 CHƯƠNG 3 TRIẾT
dựng và hoàn thiện Nhà nước XHCN Việt Nam. Vận dụng
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chức năng giai
cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều
hình thức” [1, tr.76]. Ở Việt Nam hiện nay các thế lực
phản động vẫn tìm cách xóa bỏ chế độ XHCN, nên việc
sử dụng bạo lực của Nhà nước Việt Nam vẫn còn tồn tại.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rằng xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ xuyên suốt,
thường xuyên và gắn chặt với nhau. Tại Đại hội Đảng
XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rằng, đảm bảo
an ninh, quốc phòng là một trong bốn trụ cột của Việt
Nam và được xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, khi thực hiện chức năng
giai cấp, Nhà nước phải xây dựng và bảo vệ cơ sở kinh
tế của giai cấp thống trị. Vận dụng quan điểm đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định chức năng giai cấp của
Nhà nước Việt Nam hiện nay là giữ vững định hướng
XHCN của nền kinh tế thị trường. Đại hội Đảng IX xác
định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình
kinh tế tổng quát của Việt Nam. Đặc trưng của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN là “có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”.
Định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường,
trước hết là đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở
chỗ, nó “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trường kinh tế và
giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn,
hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm
lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng about:blank 20/23