Tài liệu ôn tập - Luật Hình sự | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội

Tài liệu ôn tập - Luật Hình sự | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã đang
mang lại những thành quả to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm
qua, đất nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội, tạo
được những tiền đề và điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong sự nghiệp đổi mới Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng
tạo nên thắng lợi của quá trình đổi mới là đội ngũ cán bộ. Đội ngũ này giữ vị trí
đặc biệt trong hệ thống chính trị, cầu nối hiệu lực nhất giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn những hạn chế chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp đất
nước. Một trong những hạn chế đó họ đã mắc phải bệnh kinh nghiệm, bệnh
giáo điều. Bệnh kinh nghiệm đội ngũ này đã gây tác hại rất lớn trong sự
nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Do đó, nghiên cứu vấn đề “Nguyên tắc thống nhất giữaluận với thực
tiễn vận dụng vào ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo
điều đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu
luận ý nghĩa luận thực tiễn sâu sắc trong việc giúp cho bản thân đứng
vững trên lập trường nhận thức luận của triết học Mác-Lênin để hiểu bệnh
kinh nghiệm, bệnh giáo điều, trên sở đó tránh mắc phải những căn bệnh này
và có căn cứ đấu tranh chống lại quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề này.
2
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬN, THỰC TIỄN NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Phạm trù lý luận
luận được hình thành trên sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn,
nhưng không phải cứ có kinh nghiệm thực tiễn là có được lý luận. Lý luận được
hình thành thông qua hoạt động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát
luận của các nhà luận. vậy, luận không thể ra đời một cách tự phát
luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bằng tổng kết những kinh nghiệm
thực tiễn mới, phong phú bởi các nhà luận. Do tính độc lập tương đối của
mình, lý luận thể phản ánh vượt trước các dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét đến
cùng, lý luận không thể không dựa trên cơ sở của kinh nghiệm thực tiễn.
Từ những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh thể hiểu,
luận khoa học hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn, phản ảnh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của
các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm
trù.
Theo quan điểm duy vật biện chứng nhận thức một quá trình biện
chứng từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức luận. Trong đó, “lý luận đã
được khái quát trong ý thức của con người, toàn bộ tri thức về thế giới khách
quan, hệ thống tương đối độc lập của các tri thức tác dụng tái hiện trong
logic của các khái niệm logic khách quan của sự vật”.
Nói cách khác, luận hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những qui luật của sự vật hiện tượng
trong hiện thực. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử”.
3
Quá trình hình thành luận, con người phải thông qua nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm quá trình nhận thức bởi sự thu nhận từ quan
sát thí nghiệm, tạo thành tri thức kinh nghiệm. hai loại tri thức kinh
nghiệm: tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những
quan sát hàng ngày và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí
nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm giới hạn lĩnh vực các sự kiện, miêu tả,
phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm, nó vừa là sự phản
ánh trực tiếp, nhưng cũng có tính trừu tượng và khái quát nhất định. Tri thức kinh
nghiệm vai trò không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của cái đặc thù,
hoặc áp dụng một thuyết, một hình chưa được kiểm nghiệm thực sự bởi
thực tiễn.
2. Phạm trù thực tiễn
Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói
riêng, cùng với việc kế thừa phát triển sáng tạo những yếu tố hợp trong
những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước và khắc phục những yếu
tố sai lầm của những quan niệm về thực tiễn, cùng với những hoạt động của
các ông trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, C.Mác -
Ph.Ăngghen đã công lớn trong việc đưa thực tiễn vào nhận thức luận. Không
những thế, cả lý luận và thực tiễn đều được các nâng lên trình độ mới: Thực tiễn
cách mạng luận cách mạng. Nhờ đó, luận gắn chặt chẽ với thực tiễn,
trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào
lý luận của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách
mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức luận nói riêng. Thực tiễn là toàn
bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động mà
trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể hình thành tri
thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp các nhà khoa
4
học hình thành lý luận. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức nhưng ở
trình độ thấp. Thế nhưng nó là cơ sở hình thành lý luận. Lý luận là sản phẩm cao
nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con
người. Cho nên, bản chất của luận hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan.
Nhận thức cả một quá trình biện chứng từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều, từ nông cạn đến sâu sắc, từ hiện tượng đến bản chất… Đúng như
Lênin nhận xét: “Trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác
của khoa học cần suy luận một cách biện chứng nghĩa là đừng giả định rằng nhận
thức chúng ta là bất di bất dịch và sẵn mà phải phân tích xem xét sự hiểu biết
như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ không chính xác trở thành đầy đủ
chính xác hơn như thế nào”.
Như vậy thể thấy, nhận thức một quá trình biện chứng diễn ra rất
phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.
Tuy theo tính chất nghiên cứu quá trình đó được phân chia thành nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính.
Xét về bản chất, lý luận hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách
quan, lý luận được hình thành không phải nằm ngoài thực tiễn mà trong mối liên
hệ với thực tiễn.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
chức năng phản ánh hiện thực khách quan chức năng phương pháp luận cho
hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật
chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức luận đều phản ánh hiện
thực khách quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực và trình độ khác nhau. Lý luận
phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức cải tạo
hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn.
5
Như vậy, không có hoạt động thực tiễn con người và xã hội không thể tồn
tại và phát triển được. Vì vậy có thể nói: Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản
của con người hội, phương thức đầu tiên chủ yếu của mối quan hệ
giữa con người thế giới. Mỗi hoạt động của con người đều mang tính lịch sử
cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có quá trình hình
thành phát triển và kết thúc hoặc chuyển hoá sang giai đoạn khác, không có hoạt
động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi
phối của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích
hoạt động.
Tóm lại, hoạt động thực tiễn là một phạm trù không thể thiếu đối với nhận
thức khoa học, với quá trình hoạt động trong lĩnh vực lý luận, nghiên cứu lý luận
cần phải hiểu nắm chắc được tính đúng đắn của thực tiễn đó yếu tố góp
phần làm nên thành công trong công việc của mỗi người.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tế là nguyên tắc nhận thức khoa
học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, biểu hiện mối quan hệ giữa nhận thức và
thực tiễn, trong đó, lý luận là giai đoạn cao của quá trình nhận thức - nhận thức lý
luận. luận khoa học phải được hình thành trên sở thực tiễn, xuất phát từ
thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn.
3.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn, mà ở trong mối
liên hệ với thực tiễn. Do vậy, giữa thực tiễn và lý luận có quan hệ biện chứng với
nhau, tác động qua lại nhau; trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định lý luận
luận sự tác động to lớn trở lại thực tiễn. Vai trò của thực tiễn được hiểu
trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích chủ yếu và trực tiếp của lý
luận, là tiêu chuẩn của chân lý.
Thứ nhất, thực tiễn sở của luận: Bằng hoạt động thực tiễn, con
người trực tiếp tác động vào sự vật, hiện tượng quá trình của thế giới, bắt
6
chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận
thức chúng. Điều đó có nghĩa là thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức,
cho lý luận, cho khoa học. Tri thức của con người thu nhận được dưới dạng trực
tiếp hoặc dưới dạng gián tiếp, từ thế hệ này truyền cho thế hệ khác đều nay sinh
từ hoạt động thực tiễn. Do đó, không có thực tiễn thì không có nhận thức, không
có lý luận không có khoa học. Ví dụ: Từ thực tiễn quan sát thời tiết, quan sát
bầu mới con người những tri thức về thiên văn học, tính được nhật thực,
nguyệt thực, dự báo thời tiết ngày một chính xác.
Thứ hai, thực tiễn động lực của luận: Thực tiễn không ngừng biến
đổi, phát triển luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ phương hướng phát triển của
nhận thức, của lý luận, cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn luôn đặt
ra những vấn đề mới đòi hỏi phải tri thức mới, phải tổng kết, khái quát kinh
nghiệm mới thành lý luận mới. Trên cơ sở đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
các ngành khoa học, nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nay sinh. Ví dụ:
Thành tựu khám phá giải bản đồ gen do nhu cầu chữa bệnh, cải tạo, lại
giống, bảo tồn giống.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận: Từ hoạt động thực tiễn mà có tri
thức lý luận và tri thức khoa học. Khoa học ra đời chính chủ yếu chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội, phục vụ
mục tiêu phát triển con người. Ví dụ: Thực tiễn trước cách mạng tháng Tám, nhân
dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, quân Nhật bắt ta nhổ lúa trồng đay,
quân Pháp bắt ta cung cấp lương thực cho chúng, vậy dẫn tới hơn hai triệu
người chết đói từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945. Tình cảnh khốn cùng đó
động lực thôi thúc nhân dân ta anh dũng đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp
và phát xít Nhật để giành độc lập dân tộc.
Thứ tư, thực tiễn tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của luận, tiêu
chuẩn của chân lý: Thực tiễn không chỉ sở, động lực mục đích của
luận, tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của luận, còn tiêu chuẩn của
7
chân lý. Chân tri thức nội dung phù hợp với thế giới khách quan
phản ánh. Triết học Mác - Lênin khẳng định và chứng minh rằng, thực tiễn là tiêu
chuẩn kiểm tra nhận thức, luận, khoa học. dụ: Chân về con đường cứu
nước của cách mạng Việt Nam chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Muốn cứu
nước giải phóng dân tộc không con đường nào khác ngoài con đường cách
mạng vô sản. Chân lý này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm
đúng đắn.
3.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Thứ nhất, luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn:
luận khái quát những kinh nghiệm thực tiễn. Do đó, luận khoa học soi đường
dẫn dắt, chi đạo thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiền đạt kết quả cao. Lý luận
khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác. luận
khoa học kim chỉ nam cho hành động thực tiễn. luận khoa học vạch ra
phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn, nhằm biến đổi hiện thực
khách quan theo hướng tiến bộ, lợi cho con người. Ví dụ: luận chủ nghĩa
Mác-Lênin đã soi đường, dẫn dắt các dân tộc trên thế giới đứng lên giành độc lập.
Thứ hai, luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập
hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông
đảo quần chúng: luận khoa học góp phần định hướng cho quần chúng trong
cuộc sống và trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, khi lý luận khoa học thâm nhập
được vào đông đảo quần chúng sẽ tạo thành sức mạnh vật chất vĩ đại. Trên cơ sở
đó tạo thành khối thống nhất giữa lý luận và quần chúng để cải tạo tự nhiên và xã
hội phục vụ con người. dụ: luận cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giáo dục, tập hợp thành phong trào cả dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi giặc
Pháp, Mỹ để giành độc lập, tự do.
Thứ ba, lý luận chỉ ra phương pháp tiến hành hoạt động thực tiễn: Lý luận
sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn; giúp cho hoạt
8
động thực tiễn chủ động, tự giác hơn. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi
1
”.
Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học
về tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học
đó con người thể thông qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự nhiên, xã hội
bản thân phục cho mục đích của mình. dụ: chúng ta đi học cập nhật
những kiến thức về lĩnh vực mình mong muốn, phục vụ cho đam nghề
nghiệp của chính bản thân mình.
Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn: Lý luận có vai
trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi phản ánh đúng đắn hiện thực
khách quan, nó sẽ được con người vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp
điều kiện thực tiễn, lịch sử cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, chủ quan, duy ý chí, giáo
điều... sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn. Mức độ, hiệu quả tác động của
lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc trước hết vào tính đúng đắn của lý luận.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Tử vai trò của luận đối với thực tiễn trên đây, chúng ta rút ra ý nghĩa
phương pháp luận là phải thấy được vai trò to lớn của lý luận khoa học, trên cơ s
đó, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... không ngừng học tập, nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho bản thân. Từ tất cả những điều đã phân tích trên
thể rút ra ý nghĩa cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của
chủ nghĩa Mác-Lênin là:
Thứ nhất, mọi luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải phục vụ thực tiễn,
được kiểm nghiệm trong thực tiễn, được bổ sung, phát triển qua thực tiễn.
Thhai, mọi thực tin phải đưc soi ng bởi luận, phi đưc lun dẫn
đưng.
Thứ ba, khắc phục bệnh kinh nghiệm bệnh giáo điều. Vai trò của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc ngăn ngừa, khắc phục
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr. 496.
9
bệnh kinh nghiệm bệnh giáo điều. Do vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa
luận và thực tiễn dẫn đến sai lầm cực đoan, đó bệnh kinh nghiệm bệnh
giáo điều.
II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI
VIỆC NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM VÀ BỆNH GIÁO ĐIỀU
1. Bệnh kinh nghiệm
Đó khuynh hướng tưởng hành động tuyệt đối hoá kinh nghiệm
thực tiễn, hoàn toàn thoả mãn với kinh nghiệm bản thân, chỉ dừng lại trình độ
kinh nghiệm, coi kinh nghiệm tất cả, hạ thấp luận, ít am hiểu luận, coi
thường lý luận khoa học, ngại học lý luận, lười học lý luận, không chịu vươn lên
để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận. Sự yếu
kém về lý luận không chỉ dẫn đến bệnh kinh nghiệm, mà còn dẫn đến bệnh giáo
điều. Bởi vì, chính sự yếu kém về lý luận sẽ dẫn tới sự tiếp thu chủ nghĩa Mác-
Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nơi, đến chốn.
nhiều nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm nước ta: Chẳng hạn như
ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ, lúa nước, theo mùa, theo chu kỳ; ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng gia trưởng, phong kiến; ảnh hưởng của kinh nghiệm
chiến tranh du kích quá lâu dài… Nhưng nguyên nhân bản, trực tiếp nhất
vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa luận thực tiễn, không hiểu quan hệ
biện chứng giữa lý luận với thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm đã gây ra hậu quả: Dễ dẫn đến duy áng chừng, đại
khái, thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ trong công tác; dễ rơi vào sự vụ trong công
tác, thiển cận, tự mãn, thiếu nhìn xa trông rộng; dễ dẫn đến coi thường chất xám,
coi thường giới trý thức, coi thường đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật; dễ nặng
về quá khứ, rơi vào khuynh hướng thủ cựu, phục cổ, bảo thủ trì trệ, không chịu
đổi mới, không chịu làm cách mạng; dễ rơi vào khuynh hướng đánh giá cán bộ
nặng về quá khứ, quá trình, lấy quá khứ, quá trình làm tiêu chuẩn để đề bạt cán
bộ. Đó là những tác hại của bệnh kinh nghiệm. Về tác hại của căn bệnh này, Chủ
10
tịch Hồ Chí Minh viết: “Có kinh nghiệm không luận, cũng như một
mắt sáng, một mắt mờ ”.
2
2. Bệnh giáo điều
Đó là khuynh hướng tưởng và hành động cường điệu luận, tuyệt đối
hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di, bất dịch, tách
rời luận khái thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể. hai biểu hiện của
bệnh giáo điều, đó giáo điều luận giáo điều về kinh nghiệm hay giáo
điều về hành động:
Một là, giáo điều lý luận
Đó bệnh sách vở trong nghiên cứu, học tập luận, nắm luận chỉ
dừng lại câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”, hiểu luận một cách trừu
tượng mà không thâu tóm được bản chất cách mạng và khoa học của nó, nặng về
diễn giải những đã có trong sách. Thực chất của giáo điềuluận là đọc sách
nhưng không hiểu sách, không gắn sách với cuộc sống, không gắn luận với
thực tiễn. Khi đề ra chủ trương và chính sách, người mắc bệnh giáo điều thường
nặng về xuất phát từ sách vở mà không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể, xa
rời thực tiễn sinh động.
Có nhiều nguyên nhân của bệnh giáo điều ở nước ta: Như ảnh hưởng tiêu
cực của chế tập trung, bao cấp quá lâu; ảnh hưởng của tưởng tiểu sản,
như bệnh thành tích, bệnh hình thức... Đặc biệt vi phạm nguyên tắc thống
nhất giữa luận với thực tiễn không hiểu quan hệ biện chứng giữa luận
với thực tiễn một số bộ phận. Đây nguyên nhân bản, trực tiếp nhất của
căn bệnh giáo điều ở nước ta.
Chống bệnh giáo điều luận thực chất phê phán bệnh sách vở. Song,
phê phán bệnh sách vở không nghĩa là không đọc sách, bởi không sách
thì không tri thức, không tri thức thì không chủ nghĩa hội chủ
nghĩa cộng sản. Trái lại, phải đọc nhiều sách để tri thức, nhưng phải “tiêu
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 5, tr. 234.
11
hoá” được tri thức, phải đối chiếu sách vở với cuộc sống. Theo Hồ Chí Minh, lý
luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam,
chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không luận t
lúng túng như nhắm mắt mà đi", "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi
mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp". 4
Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "phải học tinh thần
của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan điểm phương pháp của
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm phương pháp cho
chúng ta. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,
đối với mọi người đối với bản thân mình, học tập những chân phổ biến
của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế
của nước ta. Học để mà làm và nói cần phải đi đôi với làm…”. 5
| 1/11

Preview text:

MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã và đang
mang lại những thành quả to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm
qua, đất nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
được những tiền đề và điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng
tạo nên thắng lợi của quá trình đổi mới là đội ngũ cán bộ. Đội ngũ này giữ vị trí
đặc biệt trong hệ thống chính trị, là cầu nối có hiệu lực nhất giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn những hạn chế chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp đất
nước. Một trong những hạn chế đó là họ đã mắc phải bệnh kinh nghiệm, bệnh
giáo điều. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ này đã gây tác hại rất lớn trong sự
nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Do đó, nghiên cứu vấn đề “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn và vận dụng vào ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo
điều ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu
luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong việc giúp cho bản thân đứng
vững trên lập trường nhận thức luận của triết học Mác-Lênin để hiểu rõ bệnh
kinh nghiệm, bệnh giáo điều, trên cơ sở đó tránh mắc phải những căn bệnh này
và có căn cứ đấu tranh chống lại quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề này. 2 NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN – NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Phạm trù lý luận
Lý luận được hình thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn,
nhưng không phải cứ có kinh nghiệm thực tiễn là có được lý luận. Lý luận được
hình thành thông qua hoạt động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lý
luận của các nhà lý luận. Vì vậy, lý luận không thể ra đời một cách tự phát và
luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bằng tổng kết những kinh nghiệm
thực tiễn mới, phong phú bởi các nhà lý luận. Do tính độc lập tương đối của
mình, lý luận có thể phản ánh vượt trước các dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét đến
cùng, lý luận không thể không dựa trên cơ sở của kinh nghiệm thực tiễn.
Từ những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh có thể hiểu,
luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn, phản ảnh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của
các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Theo quan điểm duy vật biện chứng nhận thức là một quá trình biện
chứng từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận. Trong đó, “lý luận đã
được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ tri thức về thế giới khách
quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong
logic của các khái niệm logic khách quan của sự vật”.
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những qui luật của sự vật hiện tượng
trong hiện thực. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. 3
Quá trình hình thành lý luận, con người phải thông qua nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình nhận thức bởi sự thu nhận từ quan
sát và thí nghiệm, nó tạo thành tri thức kinh nghiệm. Có hai loại tri thức kinh
nghiệm: tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những
quan sát hàng ngày và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí
nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả,
phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm, nó vừa là sự phản
ánh trực tiếp, nhưng cũng có tính trừu tượng và khái quát nhất định. Tri thức kinh
nghiệm có vai trò không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của cái đặc thù,
hoặc áp dụng một lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm nghiệm thực sự bởi thực tiễn.
2. Phạm trù thực tiễn
Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói
riêng, cùng với việc kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong
những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước và khắc phục những yếu
tố sai lầm của những quan niệm cũ về thực tiễn, cùng với những hoạt động của
các ông trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, C.Mác -
Ph.Ăngghen đã có công lớn trong việc đưa thực tiễn vào nhận thức luận. Không
những thế, cả lý luận và thực tiễn đều được các nâng lên trình độ mới: Thực tiễn
cách mạng và lý luận cách mạng. Nhờ đó, lý luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn,
trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào
lý luận của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách
mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức luận nói riêng. Thực tiễn là toàn
bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động mà
trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể hình thành tri
thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp các nhà khoa 4
học hình thành lý luận. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức nhưng ở
trình độ thấp. Thế nhưng nó là cơ sở hình thành lý luận. Lý luận là sản phẩm cao
nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con
người. Cho nên, bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Nhận thức là cả một quá trình biện chứng từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều, từ nông cạn đến sâu sắc, từ hiện tượng đến bản chất… Đúng như
Lênin nhận xét: “Trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác
của khoa học cần suy luận một cách biện chứng nghĩa là đừng giả định rằng nhận
thức chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn mà phải phân tích xem xét sự hiểu biết
như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ và
chính xác hơn như thế nào”.
Như vậy có thể thấy, nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất
phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.
Tuy theo tính chất nghiên cứu mà quá trình đó được phân chia thành nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính.
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách
quan, lý luận được hình thành không phải nằm ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ là
chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp luận cho
hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật
chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận đều phản ánh hiện
thực khách quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực và trình độ khác nhau. Lý luận
phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo
hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn. 5
Như vậy, không có hoạt động thực tiễn con người và xã hội không thể tồn
tại và phát triển được. Vì vậy có thể nói: Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản
của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ
giữa con người và thế giới. Mỗi hoạt động của con người đều mang tính lịch sử
cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có quá trình hình
thành phát triển và kết thúc hoặc chuyển hoá sang giai đoạn khác, không có hoạt
động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi
phối của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động.
Tóm lại, hoạt động thực tiễn là một phạm trù không thể thiếu đối với nhận
thức khoa học, với quá trình hoạt động trong lĩnh vực lý luận, nghiên cứu lý luận
cần phải hiểu rõ và nắm chắc được tính đúng đắn của thực tiễn đó là yếu tố góp
phần làm nên thành công trong công việc của mỗi người.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tế là nguyên tắc nhận thức khoa
học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, biểu hiện mối quan hệ giữa nhận thức và
thực tiễn, trong đó, lý luận là giai đoạn cao của quá trình nhận thức - nhận thức lý
luận. Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ
thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn.
3.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn, mà ở trong mối
liên hệ với thực tiễn. Do vậy, giữa thực tiễn và lý luận có quan hệ biện chứng với
nhau, tác động qua lại nhau; trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định lý luận và
lý luận có sự tác động to lớn trở lại thực tiễn. Vai trò của thực tiễn được hiểu
trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích chủ yếu và trực tiếp của lý
luận, là tiêu chuẩn của chân lý.
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận: Bằng hoạt động thực tiễn, con
người trực tiếp tác động vào sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới, bắt 6
chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận
thức chúng. Điều đó có nghĩa là thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức,
cho lý luận, cho khoa học. Tri thức của con người thu nhận được dưới dạng trực
tiếp hoặc dưới dạng gián tiếp, từ thế hệ này truyền cho thế hệ khác đều nay sinh
từ hoạt động thực tiễn. Do đó, không có thực tiễn thì không có nhận thức, không
có lý luận và không có khoa học. Ví dụ: Từ thực tiễn quan sát thời tiết, quan sát
bầu mới mà con người có những tri thức về thiên văn học, tính được nhật thực,
nguyệt thực, dự báo thời tiết ngày một chính xác.
Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận: Thực tiễn không ngừng biến
đổi, phát triển và luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức, của lý luận, cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn luôn đặt
ra những vấn đề mới đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết, khái quát kinh
nghiệm mới thành lý luận mới. Trên cơ sở đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
các ngành khoa học, nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nay sinh. Ví dụ:
Thành tựu khám phá và giải mã bản đồ gen do nhu cầu chữa bệnh, cải tạo, lại giống, bảo tồn giống.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận: Từ hoạt động thực tiễn mà có tri
thức lý luận và tri thức khoa học. Khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội, phục vụ
mục tiêu phát triển con người. Ví dụ: Thực tiễn trước cách mạng tháng Tám, nhân
dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, quân Nhật bắt ta nhổ lúa trồng đay,
quân Pháp bắt ta cung cấp lương thực cho chúng, vì vậy dẫn tới hơn hai triệu
người chết đói từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945. Tình cảnh khốn cùng đó là
động lực thôi thúc nhân dân ta anh dũng đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp
và phát xít Nhật để giành độc lập dân tộc.
Thứ tư, thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, là tiêu
chuẩn của chân lý: Thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực và mục đích của lý
luận, là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, mà còn là tiêu chuẩn của 7
chân lý. Chân lý là tri thức có nội dung phù hợp với thế giới khách quan mà nó
phản ánh. Triết học Mác - Lênin khẳng định và chứng minh rằng, thực tiễn là tiêu
chuẩn kiểm tra nhận thức, lý luận, khoa học. Ví dụ: Chân lý về con đường cứu
nước của cách mạng Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Muốn cứu
nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách
mạng vô sản. Chân lý này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm là đúng đắn.
3.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Thứ nhất, lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn:
luận khái quát những kinh nghiệm thực tiễn. Do đó, lý luận khoa học soi đường
dẫn dắt, chi đạo thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiền đạt kết quả cao. Lý luận
khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác. Lý luận
khoa học là kim chỉ nam cho hành động thực tiễn. Lý luận khoa học vạch ra
phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn, nhằm biến đổi hiện thực
khách quan theo hướng tiến bộ, có lợi cho con người. Ví dụ: Lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin đã soi đường, dẫn dắt các dân tộc trên thế giới đứng lên giành độc lập.
Thứ hai, lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập
hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông
đảo quần chúng: Lý luận khoa học góp phần định hướng cho quần chúng trong
cuộc sống và trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, khi lý luận khoa học thâm nhập
được vào đông đảo quần chúng sẽ tạo thành sức mạnh vật chất vĩ đại. Trên cơ sở
đó tạo thành khối thống nhất giữa lý luận và quần chúng để cải tạo tự nhiên và xã
hội phục vụ con người. Ví dụ: Lý luận cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giáo dục, tập hợp thành phong trào cả dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi giặc
Pháp, Mỹ để giành độc lập, tự do.
Thứ ba, lý luận chỉ ra phương pháp tiến hành hoạt động thực tiễn: Lý luận
sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn; giúp cho hoạt 8
động thực tiễn chủ động, tự giác hơn. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi1”.
Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học
về tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học
đó con người có thể thông qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự nhiên, xã hội
và bản thân phục cho mục đích của mình. Ví dụ: chúng ta đi học và cập nhật
những kiến thức về lĩnh vực mình mong muốn, phục vụ cho đam mê và nghề
nghiệp của chính bản thân mình.
Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn: Lý luận có vai
trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi nó phản ánh đúng đắn hiện thực
khách quan, nó sẽ được con người vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp
điều kiện thực tiễn, lịch sử cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, chủ quan, duy ý chí, giáo
điều... sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn. Mức độ, hiệu quả tác động của
lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc trước hết vào tính đúng đắn của lý luận.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Tử vai trò của lý luận đối với thực tiễn trên đây, chúng ta rút ra ý nghĩa
phương pháp luận là phải thấy được vai trò to lớn của lý luận khoa học, trên cơ sở
đó, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... không ngừng học tập, nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho bản thân. Từ tất cả những điều đã phân tích trên có
thể rút ra ý nghĩa cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin là:
Thứ nhất, mọi lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải phục vụ thực tiễn,
được kiểm nghiệm trong thực tiễn, được bổ sung, phát triển qua thực tiễn.
Thứ hai, mọi thực tiễn phải được soi sáng bởi lý luận, phải được lý luận dẫn đường.
Thứ ba, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Vai trò của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc ngăn ngừa, khắc phục
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr. 496. 9
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Do vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn mà dẫn đến sai lầm cực đoan, đó là bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI
VIỆC NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM VÀ BỆNH GIÁO ĐIỀU 1. Bệnh kinh nghiệm
Đó là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hoá kinh nghiệm
thực tiễn, hoàn toàn thoả mãn với kinh nghiệm bản thân, chỉ dừng lại ở trình độ
kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là tất cả, hạ thấp lý luận, ít am hiểu lý luận, coi
thường lý luận khoa học, ngại học lý luận, lười học lý luận, không chịu vươn lên
để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận. Sự yếu
kém về lý luận không chỉ dẫn đến bệnh kinh nghiệm, mà còn dẫn đến bệnh giáo
điều. Bởi vì, chính sự yếu kém về lý luận sẽ dẫn tới sự tiếp thu chủ nghĩa Mác-
Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nơi, đến chốn.
Có nhiều nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở nước ta: Chẳng hạn như
ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ, lúa nước, theo mùa, theo chu kỳ; ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng gia trưởng, phong kiến; ảnh hưởng của kinh nghiệm
chiến tranh du kích quá lâu dài… Nhưng nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất là
vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, không hiểu quan hệ
biện chứng giữa lý luận với thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm đã gây ra hậu quả: Dễ dẫn đến tư duy áng chừng, đại
khái, thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ trong công tác; dễ rơi vào sự vụ trong công
tác, thiển cận, tự mãn, thiếu nhìn xa trông rộng; dễ dẫn đến coi thường chất xám,
coi thường giới trý thức, coi thường đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật; dễ nặng
về quá khứ, rơi vào khuynh hướng thủ cựu, phục cổ, bảo thủ trì trệ, không chịu
đổi mới, không chịu làm cách mạng; dễ rơi vào khuynh hướng đánh giá cán bộ
nặng về quá khứ, quá trình, lấy quá khứ, quá trình làm tiêu chuẩn để đề bạt cán
bộ. Đó là những tác hại của bệnh kinh nghiệm. Về tác hại của căn bệnh này, Chủ 10
tịch Hồ Chí Minh viết: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một
mắt sáng, một mắt mờ2”. 2. Bệnh giáo điều
Đó là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý luận, tuyệt đối
hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di, bất dịch, tách
rời lý luận khái thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể. Có hai biểu hiện của
bệnh giáo điều, đó là giáo điều lý luận và giáo điều về kinh nghiệm hay giáo điều về hành động:
Một là, giáo điều lý luận
Đó là bệnh sách vở trong nghiên cứu, học tập lý luận, nắm lý luận chỉ
dừng lại ở câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”, hiểu lý luận một cách trừu
tượng mà không thâu tóm được bản chất cách mạng và khoa học của nó, nặng về
diễn giải những gì đã có trong sách. Thực chất của giáo điều lý luận là đọc sách
nhưng không hiểu sách, không gắn sách với cuộc sống, không gắn lý luận với
thực tiễn. Khi đề ra chủ trương và chính sách, người mắc bệnh giáo điều thường
nặng về xuất phát từ sách vở mà không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể, xa
rời thực tiễn sinh động.
Có nhiều nguyên nhân của bệnh giáo điều ở nước ta: Như ảnh hưởng tiêu
cực của cơ chế tập trung, bao cấp quá lâu; ảnh hưởng của tư tưởng tiểu tư sản,
như bệnh thành tích, bệnh hình thức... Đặc biệt là vi phạm nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận với thực tiễn và không hiểu quan hệ biện chứng giữa lý luận
với thực tiễn ở một số bộ phận. Đây là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất của
căn bệnh giáo điều ở nước ta.
Chống bệnh giáo điều lý luận thực chất là phê phán bệnh sách vở. Song,
phê phán bệnh sách vở không có nghĩa là không đọc sách, bởi vì không có sách
thì không có tri thức, không có tri thức thì không có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Trái lại, phải đọc nhiều sách để có tri thức, nhưng phải “tiêu
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 5, tr. 234. 11
hoá” được tri thức, phải đối chiếu sách vở với cuộc sống. Theo Hồ Chí Minh, lý
luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó
chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi", "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi
mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp". 4
Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "phải học tinh thần
của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp cho
chúng ta. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,
đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến
của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế
của nước ta. Học để mà làm và nói cần phải đi đôi với làm…”. 5