-
Thông tin
-
Quiz
Tài liệu ôn tập lý thuyết - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng
Sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã được ảnh hưởng bởi một số yếu tố quan trọng. Dưới đây là một số yếu tố tác động đến quá trình hìnhthành Đảng Cộng sản Việt Nam. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐT121) 250 tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Tài liệu ôn tập lý thuyết - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng
Sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã được ảnh hưởng bởi một số yếu tố quan trọng. Dưới đây là một số yếu tố tác động đến quá trình hìnhthành Đảng Cộng sản Việt Nam. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐT121) 250 tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:












Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
Họ và Tên: Trần Lê Minh Khang MSSV: 021H0040
1. Làm rõ các yếu tố tác động đến sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã được ảnh hưởng bởi
một số yếu tố quan trọng. Dưới đây là một số yếu tố tác động đến quá trình hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Các yếu tố lịch sử và xã hội: Sự hình thành của ĐCSVN phần lớn bắt
nguồn từ tình hình xã hội và lịch sử Việt Nam. Những sự kiện như chiến
tranh giành độc lập chống lại các thực thể ngoại xâm (như Pháp và Mỹ), sự
đóng góp của các tư tưởng cách mạng và xã hội chủ nghĩa từ các nước khác,
và những thay đổi xã hội đối với giai cấp công nhân và nông dân đã tạo nền
tảng cho sự hình thành của ĐCSVN.
- Chủ nghĩa Marx-Lênin và tư tưởng cách mạng: Các tư tưởng của Karl
Marx và Vladimir Lenin, bao gồm chủ nghĩa Marx-Lênin, đã có tác động
lớn đến việc hình thành ĐCSVN. Các lý thuyết này cung cấp cơ sở tư tưởng
và phương pháp để tổ chức và lãnh đạo một cuộc cách mạng công nhân.
Nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lênin đã được áp dụng vào tình hình
đặc thù của Việt Nam, tạo nên lý thuyết và phương pháp cách mạng Việt
Nam. Đường Kách Mệnh (1927) cũng đánh dấu cho sự truyền bá Chủ
nghĩa Marx – Lenin vào Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX.
- Hoàn cảnh lịch sử quốc gia: Sự hình thành của ĐCSVN cũng liên quan
mật thiết đến hoàn cảnh lịch sử quốc gia. Các biến cố lịch sử như thực dân
Pháp chiếm đóng, chiến tranh thế giới, cuộc kháng chiến chống Mỹ, và sự
thống nhất đất nước đã góp phần xác định hướng đi và mục tiêu của
ĐCSVN. Những thách thức và cơ hội trong quá trình xây dựng quốc gia đã
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành Đảng.
- Nhân vật lãnh đạo và nhân sự: Sự hình thành và phát triển của ĐCSVN
cũng liên quan đến sự xuất hiện và đóng góp của các nhân vật lãnh đạo. Các
nhà lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn đã chơi một
vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển ĐCSVN, đồng thời ảnh
hưởng lớn đến tư tưởng và hành động của Đảng.
- Quy chế tổ chức và hoạt động: Quy chế tổ chức và hoạt động của ĐCSVN
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành Đảng. Những nguyên
tắc, quy định và quy trình được thiết lập để đảm bảo sự tổ chức và hoạt động
hiệu quả của Đảng trong việc thực hiện mục tiêu của mình.
Tổng quan, sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ảnh hưởng bởi
một loạt yếu tố lịch sử, xã hội, tư tưởng cách mạng, quy chế tổ chức và nhân vật
lãnh đạo. Những yếu tố này đã tác động tương đối phức tạp và tương đối trong
quá trình hình thành ĐCSVN và định hình bản chất và hướng đi của Đảng.
2. Phân biệt các khuynh hướng cứu nước ở Việt Nam cuối thế kỳ 19, đầu thế kỷ 20.
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản:
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong
trào cần Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo
(1885 - 1896); cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng
tổ chức (1885 - 1886); cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật
đứng đầu (1885 - 1892). Kéo dài và quyết liệt nhất là phong trào nông dân
Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 — 1913)...
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý
chí bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn
thất nặng nề, không ổn định thống trị hàng chục năm trời.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến do thiếu đường lối đúng đắn. Giai cấp phong kiến đã không đủ
sức lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam đi đến thành công.
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong trào
yêu nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ
chức phong trào Đông Du (1906 — 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp
đỡ. Phong trào du học diễn ra gần hai năm, Pháp - Nhật Bản thoả hiệp trục
xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du thất bại.
Sau khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về
Trung Quốc thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp
ở trong nước, khôi phục độc lập dân tộc.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ
chức. Những năm 1906 - 1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao
dân trí, cổ vũ tinh thần, cải thiện đời sống nhân dân bằng con đường bất bạo
động, công khai khai hoá cải cách, chấn hưng văn hóa, công nghệ, chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông
Kinh Nghĩa Thục, Hà Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung
Kỳ (1908); phong trào đấu tranh của Đảng Lập Hiến (1923), Đảng Thanh
Niên (1926). Mạnh mẽ nhất là phong trào của Việt Nam quốc dân Đảng (1929- 1930).
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh
thần dân tộc của một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất
bại. Nguyên nhân thất bại chính là do thiếu đường lối đúng đắn. Địa vị kinh
tế, chính trị non yếu của giai cấp tư sản Việt Nam đã không đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ
khủng hoàng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Cách mạng Việt
Nam ví như “trong đêm tối không có đường ra”.
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị thành lập Đảng và
phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.
3. Làm rõ vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc. Trong bối cảnh lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp,
các phong trào yêu nước đều thất bại thì Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do, bình đẳng, bác ái", với
tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý
chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin,
Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con
đường cách mạng vô sản giải phóng dân tộc ,
để tiến tới giải phóng con
người. Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và chỉ có
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước thì mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính,
đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào
trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
- Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong
nước. Người đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng
đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung qua những bài giảng của
Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
- Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin
vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là
giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưu thế
trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội
dung truyền bá là những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được
cụ thể hoá cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
- Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra
đời của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn
luyện, đào tạo cán bộ từ các lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở Quảng
Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm
1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra
báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí, từ đó
giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng
lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và
là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác
được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng
với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ
họ. Thông qua phong trào "vô sản hoá", tầng lớp thanh niên yêu nước được rèn
luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào
yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở
Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản. Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc
dù chưa nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng do sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái
Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch
sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng
có ý nghĩa chiến lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối
chính trị cấp thiết hơn bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông
qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc
biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là do đồng chí
Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu lịch sử?
Đảng CMVN ra đời ngày 3/2/1930 là tất yếu lịch sử bởi vì:
Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử - Hoàn cảnh quốc tế:
+ Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi mở ra một thời đại mới trong
lịch sử nhân loại, có tác động thức tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải phóng.
+ Những tư tưởng cách mạng cấp tiến dội vào các nước thuộc địa. - Trong nước:
+ Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các
mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.
+ Tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội, đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và
giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng.
+ Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết cả nhân dân ta: là
nhu cầu bức thiết của dân tộc
Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước
– Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc tuy
diễn ra liên tục mạnh mẽ, nhưng các phong trào đều lần lượt bị thất bại vì
đã không đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
– Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau
đang bế tắc về đường lối thì khuynh hướng vô sản thắng thế: Phong trào
dân tộc đi theo khuynh hướng vô sản.
– Đảng Cộng sản ra đời để giải quyết sự khủng hoảng này.
– Đảng ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
– Từ sự phân tích vị trí kinh tế xã hội của giai cấp trong xã hội Việt Nam
cho thấy chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng đến thắng lợi cuối cùng.
– Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
– Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tồn tại
tự nhiên. Muốn trở thành phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; Vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân
– Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản.
– Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào
công nhân từ tự phát thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
– Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-
Lênin và con đường giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.
– Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị , tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam .
– Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong
trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển.
– Các phong trào đấu tranh từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp
công nhân đã trưởng thành và đang trở thành một lực lượng độc lập. Tình
hình khách quan ấy đòi hỏi phải có một Đảng cộng sản lãnh đạo.
– Ba tổ chức cộng sản ra đời là: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam
cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản đảng liên đoàn đã thúc đẩy mạnh
mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng
Ngày 3-2-1930 thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tổng quan lại, Đảng CSVN ra đời ngày 3/2/1930 là tất yếu lịch sử bởi vì:
- Đó là kết quả chín muồi của cuô „c đấu tranh dân tô „c và đấu tranh giai cấp trong
thời đại lịch sử mới.
- Đó là kết quả của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
trên cả ba mă „t chính trị tư tưởng và tổ chức.
- Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào đấu
tranh của GCCN và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trong đầu thế kỷ
XX. Sự ra đời của ĐCSVN vừa thể hiê „n quy luâ „t phổ biến của sự hình thành chính
đảng CM của GCCN (chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân) vừa
thể hiê „n quy luâ „t đă „c thù Việt Nam (chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam).
5. Làm rõ giá trị khoa học của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930).
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa - phong
kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách
mạng Việt Nam: kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp
truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những
kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng
tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên
tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
- Nội dung được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản
ánh một cách súc tích những vấn đề cơ bản có tính quy luật của cách mạng
Việt Nam, thể hiện sự đúng đắn của Đảng trong đánh giá đặc điểm, tính chất
xã hội thuộc địa - phong kiến ở Việt Nam, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và
chủ yếu trong xã hội, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờđể từ đó, đã xác định
đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam; xác định
phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng
để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Cụ thể: Cương lĩnh xác định đường hướng chiến lược đúng đắn cho tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam nằm trong
phạm trù cách mạng vô sản, độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên, là điều kiện
tiên quyết để đi đến xã hội cộng sản. Chánh cương vắn tắt của Đảng viết:
“Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Đó là con đường khách quan, tất yếu của cách mạng Việt Nam,
vừa đáp ứng những yêu cầu cơ bản, cấp bách trước mắt, vừa định hướng chiến lược lâu dài.
– Thứ nhất, xác định những nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp bách
của cách mạng Việt Nam:
+ Về phương diện chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến; Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; Dựng ra Chính
phủ công nông binh; Tổ chức ra quân đội công nông.
+ Về phương diện xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; Nam nữ bình
quyền; Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
+ Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; Thâu hết sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; Thâu hết
ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo;
Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;
Thi hành luật ngày làm 8 giờ.
– Thứ hai, xác định lực lượng cách mạng gồm toàn bộ những người Việt
Nam yêu nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm: Công nhân,
Nông dân, Tiểu tư sản, Trí thức, Trung nông...; tranh thủ, làm trung lập
phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản. Nội dung trên đây thể hiện quan
điểm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, do liên minh công nhân và
nông dân làm nền tảng, coi đây là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, xuyên
suốt trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
– Thứ ba, xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế
giới, Sách lược vắn tắt viết: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước
An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Nội
dung này thể hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết
hợp cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam với phong trào công
nhân quốc tế, với phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức và với
nhân loại tiến bộ là một vấn đề khách quan.
– Thứ tư, xác định phương pháp thực hiện độc lập dân tộc, tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải tiến hành bằng con đường cách mạng, sử
dụng phương pháp cách mạng bạo lực; không đi vào con đường cải lương, thỏa hiệp.
– Thứ năm, xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng
Cộng sản Việt Nam, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
Từ thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam và từ những nội
dung được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có thể
khẳng định rằng, đây là lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một văn
kiện chính trị phản ánh đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam
trong điều kiện lịch sử mới; đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách
của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại.
Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh chính trị đầu tiên, nhất là những
định hướng về những vấn đề có tính chiến lược của cách mạng được đề
cập trong Cương lĩnh chính là nền móng, cơ sở quan trọng để Đảng đã
không ngừng cụ thể hóa và có bổ sung, phát triển trong đường lối, chủ
trương; trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn của Đảng ở từng giai đoạn lịch sử,
dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác ghềnh để đi đến những thắng lợi.
Ngay cả đến hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách
mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và nhân dân đã lựa chọn.
6. Phân tích ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra
thời kì mới cho cách mạng Việt Nam – thời kì đấu tranh giành độc lập dân
tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác
định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam;
đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập
hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
– Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào
yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển
và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về
mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những
chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ
giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được
sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích
cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.