Tài liệu ôn tập - Mạng máy tính | Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, mang màu săc trữ tình chính luận sâu sắc. Ông đặc biệt thành công với những bài thơ viết về đề tài quê hương đất nước, với những cảm nhận rất riêng. Tiêu biểu là Trường ca Mặt đường khát vọng. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Mạng máy tính (CSC)
Trường: Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|46958826
ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm) (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”)
- Tìm hiểu chung:
- Tác giả:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, mang màu săc trữ tình chính luận sâu sắc. Ông đặc biệt thành công với những bài thơ viết về đề tài quê hương đất nước, với những cảm nhận rất riêng. Tiêu biểu là Trường ca Mặt đường khát vọng.
- Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sáng tác:
Trường ca Mặt đường khát vọng:
Được hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu tiên năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mĩ.
+ Gồn 9 chương:
Chương 1: Lời chào Chương 2: Báo động Chương 3: Giặc Mỹ
Chương 4: Tổ quốc không yên Chương 5: Đất nớc
Chương 6: Áo trắng và mặt đường Chương 7: Xuống đường
Chương 8: Khoảng lớn âm vang Chương 9: Báo bão.
Đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu của chương V.
Đây là giai đoạn kháng chiếng chống Mỹ ác liệt nhất, toàn thể nhân dân VN cùng đứng lên đánh Mỹ nhằm giải phóng miền Nam hống nhất đất nước.
c.Chủ đề:
Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất nước: Đất Nước là sự hội tụ và kết tinh công sức và khát vọng của nhân dân. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá, truyền thồng…Từ đó đánh thức trách nhiệm của mỗi người đối với việc bảo vệ, giữ gìn đất nước.
d.Bố cục: 2 phần
- Phần 1: 42 câu đầu: Cảm nhận mới mẻ cả NKĐ về đất nước
- Phần 2: còn lại: Quan niệm đất nước của nhân dân.
Đọc – hiểu văn bản:
- Những cảm nhận mới mẻ của NKĐ về đất nước:
Đất nước là một cảm hứng lớn của thơ ca thời đại chống Mĩ. Với cảm xúc yêu mến, tự hào, Đất nước được tác giả khám phá, cảm nhận và suy ngẫm trong một cái nhìn toàn vẹn từ nhiều bình diện: thời gian lịch sử, không gian địa lí, chiều sâu văn hoá, phong tục, lối sống và tâm hồn dân tộc, từ đó làm nổi bật tư tưởng lớn: Đất Nước của nhân dân; đồng thời khơi dậy ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước trong cuộc đấu tranh của dân tộc.
a.Nguồn gốc hình thành của đất nước (câu 1-9)
Đất Nước là tên của chương V đồng thời cũng là tên của đoạn trích, và được viết hoa, nhắc đi nhắc lại 5 lầm trong 9 câu thơ đầu đã thể hiện thái độ trân trọng của tác giả đối với quê hương đất nước, đối với mảnh đấ linh thiêng đã sinh ra bao thế hệ người Việt; theo NHĐ ĐN không còn là một danh từ chung mà là một danh từ riêng chỉ một thực thể có tâm hồn có tính cách- người đã sinh ra cộng đồng người Việt.
Đoạn thơ mở đầu nói riêng và cả đoạn trích nói chung là những câu thơ dài ngắn khác nhau như những mạch cảm xúc tuôn trào, lúc cuộn dâng, lúc dàn trải mênh mông khi suy nghĩ về cội nguồn của đất nước.
Cảm nhận đoạn thơ:
Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, Đất Nước có từ trước “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt bốn ngàn năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, có chiều sâu cội nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay.
Tiếp theo tác giả bắt đầu những cảm nhận của mình về đất nước. Với NKĐ, đất nước thật gần gũi, ĐN có ngay trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa” mà các bà, các mẹ vẫn hay kể cho con cháu nghe. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Mỗi câu chuyện là một bài học đạo lí dạy ta biết “ở hiền gặp lành”, biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung, tình nghĩa,…..
Ý thơ không mới nhưng cách nói, cách thể hiện có nhiều điểm mới, vừa quen vừa lạ: Tác giả không dùng những từ ngữ, hình ảnh mĩ lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta hiểu Đất Nước có từ nền văn hoá dân gian cha ông ta để lại.
Tác giả cảm nhận đất nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hoá riêng của dân tộc: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. “Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “Sự tích trầu cau” khiến ta rưng rưng nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó hình ảnh “trầu cau” trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thuỷ chung.
Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” chính là hình ảnh đặc thù của người phũ nữ Việt Nam, thuỳ mị, duyên dáng và thật đáng yêu.
Đất Nước được cảm nhận trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa như “gừng cay muối mặn”. Hình ảnh thơ gợi nhớ câu ca dao: “Tay bưng dĩa muối, chén gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Dù cay đắng, gian nan nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẽ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết.
Đất Nước còn được cảm nhận qua truyền thống chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí chống giặc. Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”.
Đất Nước còn gắn với cách gọi tên “cái kèo, cái cột” khi dân ta biết làm nhà để che mưa che nắng, là quá trình lao động cần cù, vất vả của con người để mưu sinh:
“Cái kèo cái cột thành tên
2
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp “xay, giã, giần, sàng” gợi lên sự vất vả triền miên của người nông dân trên đồng ruộng. Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bảo, phải vất vả mới có được, vất vả để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc.
Cấu trúc thơ: “ Đất Nước đã có…”, “Đất Nước có…”, “Đất Nước bắt đầu…”,” Đất Nước lớn lên…”, “Đất Nước có từ…” cho phép ta hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên và trưởng thành của đất nước trong tâm thức con người Việt Nam bao thế hệ.
Nhận xét: Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giọng thơ trữ tình, câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tự nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ.
Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì bình thường, gần gũi, giản dị nhất. ĐN có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thuỷ chung
b.Những định nghĩa về đất nước theo cảm nhận của tác giả:( từ “Đất là nơi anh đến trường” đến “ Làm nên đất nước muôn đời”)
- Những định nghĩa về Đất Nước:
Trong những năm tháng Mĩ ngụy còn chiếm đống, các đô thị miền Nam chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng văn hoá nô dịch và phản động, việc nhận thức lại khái niệm Đất Nước và bản chất của Đất Nước là vộ cùng cần thiết.
Mỗi câu thơ là một định nghĩa, một khám phá về Đất và Nước, về Đất Nước. Điệp từ Đất Nước tiếp tục được lặp lai nhưng đã có sự thay đổi về cấu trúc câu. Đất và Nươc được tách ra làm hai thành tố riêng biệt. Nguyễn Khoa Điềm không giải thích một cách chung chung, trừu tượng mà dùng cách phân tách rồi tổng hợp nhiều lần để cụ thể hoá khái niệm ĐN, để phát hiện ra ĐN trong nhiều chiều, nhiều mặt: thời gian lịch sử đằng đẵng, không gian địa lí mênh mông, phong tục tập quán muôn màu muôn vẻ.
Về phương diện không gian đại lí: (Câu 10 -15)
Đất Nước là một không gian gần gũi, gắn bó thân thiết với con người:
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước trên hết là nơi gắn bó với những sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của mỗi người con đất Việt. Đó là nơi gắn liền với kí ức tuổi thơ. Cụ thể đó là nơi anh đến trường học những con chữ đầu tiên và những bào học vỡ lòng. Đó là nơi không chỉ trưởng thành về thể chất mà còn là nơi lớn lên về tâm hồn. Đó là không gian sinh hoạt trong cuộc sống đời thường, là cầu ao, bến nước, bãi sông….của dân mình.
Tác giả cảm nhận Đất Nước là kỉ niệm tuổi thơ, là tình yêu buồi đầu nồng nàn, trong sáng, là không gian riêng tư nơi ta hẹn hò, là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, diễn tả cảm giác nhớ nhung da diết của tình yêu đôi lứa. “Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất…/ Khăn chùi nước mắt…”. Tất cả đã làm nên góc riêng trong thế giới tâm hồn của con người. Năm tháng có thể trôi qua nhưng Đất Nước trong kí ức của mỗi người chẳng hề thay đổi.
Đất Nước trong cảm nhận của NKĐ là một dải non sông gấm vóc rộng lớn bao gồm cả núi sông rừng bể, đó là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi” Bằng những hình ảnh lấy từ ca dao Bình Trị thiên, NKĐ cho thấy niềm tự hào về quê hương tổ quốc, đất nước mênh mông. Đó không chỉ là nơi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng mà còn là tài nguyên quý giá của dân tộc.
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn cho rằng đó là một loạt "Những định nghĩa bằng thơ, chúng là sản phẩm của một tư duy vừa giàu chất trữ tình thi ca vừa mang tính huyền thoại vừa thấm đượm phong vị triết học." Hai yếu tố Đất và Nước được nhà thơ soi chiếu trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện tại. Đất nước là mảnh đất quen thuộc gắn bó với mỗi con người, đất nước thân thương như mái trường ta học, như bến sông, đình làng, ao sen, lũy tre , cây đa, bến nước nơi lứa đôi hò hẹn, một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư nhưng cũng đậm hồn quê hương xứ sở. Đất nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Trải qua thời gian, Đất nước trở thành một giá trị lâu bền, vĩnh hằng và được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác.
Về phương diện lịch sử: (câu 16 – 22)
Vẫn bằng những chất liệu từ văn học dân gian như truyền thuyết Con rồng cháu tiên, NKĐ tiếp tục cảm nhận Đất Nước ở phương diện lịch sử. Đất Nước đã trải qua hàng nghìn năm phát triển với thời gian “đằng đẵng”, không gian “mênh mông”. Đất Nước chính là cội nguồn của cộng đồng người Việt đã tồn sinh phát triển qua biết bao thế hệ. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ nhắc đến huyền thoại “Con Rồng cháu Tiên – Lạc Long Quân – Âu Cơ” mà đây là một sự suy ngẫm nghiêm túc, chân thành về cội nguồn của dân tộc.
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những câu thơ của NKĐ một lần nữa nhắc chúng ta về nguồn gốc Con Rồng cháu Tiên . Đó là lí do trên thế giới nước Việt Nam là nơi người dân gọi nhau bằng hai chữ “đồng bào”
Về phương diện văn hóa (câu 23 – 29)
Bằng nghệ thuật điệp ngữ, câu hỏi tu từ và chất liệu ca dao, những câu thơ của NKĐ đã khẳng định Đất Nước là cả một bề dày về văn hóa, đã có từ lâu đời, với những phong tục tập quán tốt đẹp. Những phong tục tập quán ấy bắt nguồn từ quá khứ với những người đã khuất, phát triển đến hiện tại “với những ai bây giờ” và lưu truyền đến tương lai để dặn dò con cháu “chuyện mai sau”
Hai câu thơ:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cuối đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính hướng về cội nguồn trong sự ngưỡng vọng. Từ “Tổ” có nghĩa là cội nguồn, suy rộng ra là nòi giống dân tộc, Đất Nước, nói hẹp là gia đình, dòng họ. Ở đây tác giả có cách nói mới giản dị mà sâu sắc lấy ý từ câu ca dao:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”.
Nhận xét: Với cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng, với những hình ảnh cụ thể, tiêu biểu lấy trong văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã giải thích khái niệm Đất Nước thật rõ ràng, dễ hiểu mà không kém phần hấp hẫn. Đất Nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà hiện hữu cụ thể, gắn liền với cuộc sống thiết thân của mỗi con người, Đất Nước bao gồm chiều dài lịch sử, chiều rộng không gian và chiều sâu văn hóa. Tất cả đều gợi nhớ về cội nguồn thiêng liêng của dân tộc.
4
- Suy ngẫm của nhà thơ về mối quan hệ giữa con người và Đất Nước. (câu 30 – 42)
Đất Nước không phải là khái niệm xa rời trừu tượng bởi nó hiện hữu trong mỗi con người qua màu da, vóc dáng, ngôn ngữ, phong tục tập quán. Nói cách khác, Đất nước chạy trong mỗi mạch máu của chúng ta:
“Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước”
“Anh” là nhân vật trữ tình nhà thơ, “em” là nhân vật tác giả tạo ra để tâm tình, chính là tuổi trẻ - đối tượng mà nhà thơ đang hướng tới.
Nguyễn Khoa Điềm nghĩ về Đất Nước sâu sắc và thấm thía trong cảm xúc ân nghĩa của thế hệ sau với những lớp người đi trước. Chúng ta được thừa hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do cha ông để lại thì trong mỗi chúng ta “đều có một phần ĐN”. Bằng cách lí giải này, nhà thơ giúp ta hiểu Đất Nước thật gần gũi, thân thiết ngay trong mỗi con người chúng ta như nhà văn Nga từng triết lý “Người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi con người”(Gamzatov)
Nói như thế cũng là để khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người.
“Khi hai đứa cầm tay
……..
Đất Nước vẹn tròn to lớn”
Hình ảnh “hai đứa cầm tay” gợi tả sự gắn bó thấm thiết của đôi lứa yêu nhau, là hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là một phần của ĐN. “Sự hài hoà nồng thắm” ấy có tác dụng khắc sâu mối hoà hợp, thân ái giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu Đất Nước.
Với cách sử dụng các tính từ đi liền nhau: “hài hoà nống thắm”, “vẹn tròn to lớn” trong kiểu câu có cặp đối xứng về ngôn từ: “Khi…Đất Nước…/ Khi…Đất Nước…” kết hợp với nghệ thuật tăng tiến: từ “hai đứa cầm tay” đến “chúng ta cầm tay mọi người”, từ “ ĐN…hài hoà nồng thắm” đến “ĐN vẹn tròn, to lớn”, tác giả muốn gởi đến người đọc thông điệp: Đất Nước là sự thống nhất hài hoà giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân và cộng đồng. Sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh để dân tộc vượt qua mọi thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù, để rồi:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Các cụm từ “mang Đất Nước đi xa”, “những tháng ngày mơ mộng” phác hoạ hình ảnh Đất Nước tươi đẹp, huy hoàng, phồn vinh, thịnh vượng ở tương lai. Đồng thời biểu thị một niềm tin mãnh liệt vào tài, đức của thế hệ trẻ Việt Nam. Soi vào thực tế, ta thấy khát vọng của nhà thơ đã thành hiện thực. Giữa những tháng ngày gian khổ hi sinh chống quân xâm lược, tác giả vẫn vững niềm tin vào tương lai dân tộc. Điều đó giúp ta hiểu giá trị của niềm tin, niềm lạc quan trong cuộc sống giúp con người đi tới thành công.
“ Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
……..…
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Nghệ thuật liên tưởng, liệt kê “máu xương”, “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” kết hợp với điệp ngữ “phải biết” và lời gọi ngọt ngào, trìu mến “Em ơi em” làm cho giọng điệu thơ giàu chất chính luận, chất trí tuệ mà vẫn trữ tình tha thiết. Các từ “gắn bó”, “san sẻ”, “ hoá thân” có sức gợi rất lớn, khiến mỗi con người phải trăn trở, suy ngẫm về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước.
Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh: Phải biết, phải biết…, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên tự trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy. Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình. Những câu thơ chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng'’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.
Cũng trong dòng cảm xúc ấy Chế Lan Viên đã viết
Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt, Như mẹ cha ta, như vợ như chồng Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
Đặc biệt cụm từ “hoá thân cho dáng hình xứ sở” nói đến sự hi sinh của mỗi người là góp phần bảo vệ và làm cho Đất Nước tươi đẹp hơn, giàu mạnh hơn. Ý thơ gợi nhớ bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân:
“Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ
Từ dáng đứng cùa anh trên đường băng Tân Sơn nhất Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
Nhận xét:
Đoạn thơ là lời tự nhủ, tự khuyên mình của nhà thơ, cũng là lời căn dặn, nhắn gửi thế hệ trẻ phải có trách nhiệm với Đất Nước, phải biết sống hết mình, sống cho ra sống, sống để bảo vệ, tô điểm, làm đẹp cho Đất Nước muôn đời. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình bộc lộ một tình yêu quê hương đất nước cháy bóng.
- Lí giải tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân (phần còn lại)(câu 43 – 89) a. Câu 53 – 54:Nhân dân góp phần làm nên hình hài đất nước
“Những người vợ nhớ chồng… Vọng Phu
……..
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Để chứng minh tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” nhà thơ đưa hàng loạt dẫn chứng bằng hình ảnh, sự việc, con người, câu chuyện dân gian, di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh trên khắp các miền Đất Nước, những tên làng, tên núi, tên sông…tất cả đều có bàn tay, máu xương của lớp lớp con người Việt Nam tạo dựng, giữ gìn và hi sinh cho sự trường tồn của Đất Nước và dân tộc.
6
Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định... hòn Trống Mái ở sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có "nhớ chồng", cặp vợ chồng có "yêu nhau" thì mới "góp cho Đất Nước", mới "góp nên" những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.
Nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Những "gót ngựa của Thánh Gióng ấy để lại" cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay! Chín mươi chín núi con Voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng "góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương". Các từ ngữ: "đi qua còn... để lại", "góp mình dựng" đã thế hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước.
Cửu Long sông nước hữu tình, trù phú tốt tươi là do những con rồng nằm imtạo thành.
Quảng Nam, Quáng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Châu Trinh Huỳnh Thúc Kháng., có núi An sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm khoong nghĩ về địa linh nhân kiệt mà nghĩ về người học trò nghèo về truyền thống hiếu học về tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta.Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên. "nghèo" mà vẫn góp cho Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền ăn hiến Đại Việt..nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng.
Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có "con cóc, con gà quê hương cùng góp cho". Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang. Bà Đen, Bà Điểm... ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do "những ngườ dân nào đã góp tên", đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào bắt sấu, bộ hổ... làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã "làm nên Đất Nước muôn đời".
Các điệp từ “những”, “góp” nhấn mạnh vào số lượng nhiều người, nhiều đối tượng cùng đóng góp làm nên Đất Nước.
Những hình ảnh quen mà lạ: “núi Vọng Phu” xứ Lạng, “hòn Trống Mái” ở Thanh Hoá, “gót ngựa Thánh Gióng” để lại ao đầm vùng Sóc Sơn, “chín mươi chín con voi dựng đất Tổ Hùng Vương”, “con rồng nằm im góp dòng sông…” Cửu Long ở miền Nam, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Nam, “con cóc, con gà quê hương góp phần cho Hạ Long thành thắng cảnh”, “những người dân góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” được nhắc đến một cách tự nhiên, thú vị trong cảm xúc chân thành và suy tư sâu lắng của nhà thơ nhằm khẳng định chân lí: Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước, là chủ nhân đích thực và muôn đời của Đất Nước.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Các từ “ruộng, đồng, gò, bãi” chỉ Đất Nước, nơi nào cũng in dấu người xưa. Dáng hình ông cha để lại cho cháu con phải chăng là dáng hiên ngang không khuất phục bất cứ kẻ thù nào? Ao ước của ông cha
phải chăng là ao ước về một cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc? Lối sống ông cha phải chăng là lối sống cần cù, giản dị, khiêm tốn, thật thà, thuỷ chung, tình nghĩa…?
Cảm xúc trào dâng khiến tác giả thốt lên thành lời khẳng định: “Và ở đâu…chẳng mang…”, thành tiếng gọi: “Ôi Đất Nước…” để bày tỏ niềm tự hào, xúc động trước những cuộc đời, những con người đã hoá thân cho Đất Nước.
- Câu 55 – 72: Nhân dân chống giặc ngoại xâm bảo vệ Đất nước
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
……..
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Tiếng gọi tha thiết “Em ơi em” với lời khuyên “Hãy nhìn rất xa/ Vào bốn nghìn năm Đất Nước” cho thấy tấm lòng và dụng ý nhà thơ muốn thức tỉnh tuổi trẻ bằng lịch sử bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc.
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng”
Nhà thơ khích lệ tuổi trẻ bằng cách so sánh kín đáo: “Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng…” Hai từ láy đi liền nhau làm nổi bật phẩm chất “cần cù” và điều kiện sống vất vả, lam lũ “làm lụng” của những lớp người đi trước.
Hình ảnh “những người con trai ra trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con” và “giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” đã cụ thể những việc làm mang tính đặc trưng của mỗi giới. Tác giả đặc biệt ngợi ca người phụ nữ Việt Nam “kiên cương, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Để thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả không nêu tên hoặc nhắc lại những chiến tích lẫy lừng của các anh hùng tên tuổi mà có dụng ý chứng minh bằng những anh hùng vô danh:
“Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
“Họ” ở đây là “những người con gái con trai. Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”. Họ đều trẻ trung, tương lai phơi phới nhưng họ biết vì Đất Nước mà quên thân mình. Họ sống giản dị mà hữu ích và chết thanh thản bởi họ biết chết cho lí tưởng của dân tộc.
Các cặp từ sóng đôi: “sống” và “chết”, “giản dị” và “bình tâm” tạo điểm nhấn ngợi ca những con người hi sinh thầm lặng.
Đất Nước với các nhà thơ khác là huyền thoại và anh hùng còn với N.K.Điềm là những anh hùng vô danh, của nhân dân. Bằng những cuộc đời thầm lặng nhân dân đã tạo nên giá trị vĩ đại và trường cửu đó là Đất Nước.
- Câu 73 – 81. Nhân dân làm nên những giá trị văn hóa
Bằng nghệ thuật liệt kê, điệp đại từ “họ” và sử dụng nhiều hoạt động từ liên tiếp ( giữ, truyền, chuyền, truyền, gánh, đắp đập, be bờ), nhà thơ muốn tôn xưng nhân dân và cụ thể hoá những việc làm thiết thực, lớn lao của nhân dân, tạo nên giá trị vật chất và tinh thần để lại cho con cháu muôn đời:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
8
Họ chuyền lửa cho mỗi nhà từ hòn rơm qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Từ buổi sơ khai của con người, “lửa” là một nhân tố quan trọng và cần thiết đưa loài người vượt hẳn lên một giá trị khác, tách xa loài vật. Từ “lửa” ở đây hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: lửa duy trì sự sống và ngọn lửa văn hoá, truyền thống dân tộc.
Khi phát triển cây lúa nước, với người Á Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, “lửa” và “lúa” là hai thứ tối cần thiết cho cuộc sống. Bởi vậy giữ gìn “lửa” và “lúa” là giữ gìn sự sống còn của cộng đồng. Đó là cuộc chiến đấu sinh tử giữa con người và thiên nhiên. Nguyễn Khoa Điềm trân trọng và biết ơn nhân dân.
Với tinh thần dân tộc cao cả, luôn khát khao duy trì bản sắc dân tộc, cha ông ta mới “truyền giọng nói, gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Nghĩa là giữ tiếng nói của dân tộc mình, giữ bản sắc của làng quê, của đất nước để con cháu biết cội biết nguồn. Nhân dân trong thời đại nào cũng vậy, lao động, chiến động, sống, chết giản dị, vô danh. Đánh giặc xong lại trở về với mảnh vườn thuở ruộng, cần cù, lam lũ với con trâu, cái cày. Nhân dân vĩ đại là ở đó.
Nhân dân không chỉ làm nên lịch sử, nhân dân còn sáng tạo văn hoá. Chính nhân dân làm ra Đất Nước, Đất Nước thuộc về nhân dân.
“Đất Nước của nhân dân. Đất Nước của ca dao thần thoại…”
Câu thơ đúc lại như một mệnh đề ,là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau. Hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ?
- Câu 82 – 89. Nhân dân xây dựng truyền thống dân tộc.
Khi nghĩ về truyền thống dân tộc, tác giả chọn ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất: Tình yêu, tình nghĩa và tinh thần chống giặc:
+ Say đắm trong tình yêu: “Yêu em từ thuở trong nôi”
+ Quý trọng tình nghĩa: “Quý công cầm vàng những ngày lặn lội”.
+ Kiên trì, nhẫn nại, quyết liệt trong căm thù và chiến đấu:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Những câu thơ lấy ý từ ca dao càng khẳng định rõ hơn tư tưởng Đất Nước nhân dân vì ca dao nói riêng, văn học dân gian nói chung là sản phẩm do nhân dân sáng tạo, là tâm hồn, tư tưởng, là trí tuệ, khát vọng, là lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Đoạn thơ cuối tiếp tục gợi bản sắc văn hoá dân tộc: “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về quê mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo thuyền lái đò vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Hình ảnh những dòng sông đã đi vào thơ ca từ xưa đến nay. Khi làm nông nghiệp, cuộc sống con người thường gắn với những dòng sông, tình yêuđôi lứa cũng gắn với dòng sông
“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi” (ca dao)
Sông đi vào tâm hồn nhân dân, là biểu tượng của nước Việt. Hơn nữa từ lâu, trong ý thức dân gian, sông còn mang ý nghĩa của sự sống, của tình yêu thương và khát vọng. Hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ?
Khi viết chương thơ Đất Nước (cũng như trường ca Mặt đường khát vọng, mục đích của N.K.Điềm là để thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ ở các đô thị miền Nam trong những ngày ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, mong họ dứt khoát trong sự lựa chọn, đứng về phía nhân dân, phía cách mạng. Cho đến nay, tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị.
- Tổng kết:
Với lối thơ tự do phù hợp mục đích giải thích, tâm tình, nhắc nhở; sử dụng từ ngữ linh hoat, vận dụng nhiều chất liệu ca dao, cổ tích, truyền thuyết, đoạn thơ trữ tình – chính luận là sự cảm nhận, phát hiện Đất Nước trong cái nhìn tổng hợp mang đậm tính nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
MỘT SỐ CÂU THƠ TIÊU BIỂU VỀ ĐẤT NƯỚC
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Bài thơ Hắc Hải – Nguyễn Đình Thi) Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha! Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm ngát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
10
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về! (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm! Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn, Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng – Chế Lan Viên)
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè rừng xanh ngào ngạt Năng chói sông Lô hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước bình ca (Tố Hữu)
Một vài nhận định:
- Cái đặc sắc trong đoạn thơ Đất Nước là sự cảm nhận về đất nước trong một cách nhìn trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện và nổi bật là tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. (Nguyễn Đăng Mạnh)
- Nguyễn Khoa Điềm đã làm cho mọi người cảm nhận Đất Nước một cách sâu sắc và hoàn toàn mới mẻ nhưng lại bình dị: Đất Nước, văn hóa, con người, cuộc sống là một thể toàn vẹn muôn đời… (Trần Đình Sử)
Một số dạng đề:
- Phân tích/ cảm nhận đoạn thơ.
- Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Một vài mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ như Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh… Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” là một trong những vần thơ hay nhất về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Ở đó nhà thơ đã có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước (nêu nội dung chính của đoạn thơ đề cho), dẫn thơ:
- Đất Nước là một đề tài muôn thuở của thi ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước cũng được khắc tạc muôn hình với nhiều vẻ đẹp khác nhau từ những góc nhìn khác nhau. Tố Hữu thấy Đất Nước trong bóng dáng người anh hùng, người Mẹ. Chế Lan Viên “tìm hình của nước” trong vị cha già Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trãi tự hào về triều đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”… còn Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ thời chống Mỹ lại tìm thấy vẻ đẹp của Đất Nước trong sự hình thành của Đất Nước, chiều rộng địa lý, chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa, phong tục (tuỳ đoạn thơ đề cho mà chọn ý cho phù hợp) mang đậm dấu ấn tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Vẻ đẹp ấy của hình tượng Đất Nước đã được Nguyễn Khoa Điềm tập trung thể hiện một cách tinh tế và sống động qua đoạn thơ: (dẫ đoạn thơ).
12