Tài liệu ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Trình bày quan điểm duy vật lịch sử về quan hệ giữa tồn tạixã hội và ý thức xã hội. Từ đó, xem xét, đánh giá vấn đề thái độ, lối sống đẹp/xấu của người Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

CHỦ ĐỀ 11: Trình bày quan điểm duy vật lịch sử về quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Từ đó, xem xét, đánh giá vấn đề thái độ, lối sống
đẹp/xấu của người Việt Nam.
THÀNH VIÊN NHÓM:
Nguyễn Thị Phương Dung
Đào Phương Mai
NỘI DUNG TRÌNH BÀY:
I. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH
1. Khái niệm:
- Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội
giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau.
- Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh
tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ
này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác
công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ
thuật chế tác, có nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì
này con người nhận biết và tận dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá,
đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi
cộng với sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên
nguồn tài nguyên rất phong phú.
2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm có:
- Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Ví dụ: phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo
thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
- Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như:
các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của
không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
- các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất Ba là,
lưu dân cư, mô hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động
lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó
phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của
phương thức sản xuất như thế nào sẽ quyết định sự tác động của con
người đến môi trường tự nhiên và quy mô phát triển dân số như thế ấy.
Ví dụ: trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông
ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích
hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến hành được phương thức đó,
người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn
định bền vững,...
II. Ý THỨC XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU Ý THỨC XÃ HỘI
1. Khái niệm
- Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;
truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra
Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều
thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
2. Kết cấu của ý thức xã hội
a) Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
- Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa.
- là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái Ý thức lý luận
quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những
khái niệm, phạm trù, quy luật…
- Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sống hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý
thức thông thường tuy thấp hơn ý thức lý luận, nhưng tri thức kinh
nghiệm phong phú của nó là tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý
thuyết khoa học.
b) Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
Tâm lý xã hội
- Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen,
tập quán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội
hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và
phản ánh đời sống đó.
- Đặc điểm:
+ Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người.
+ Đây là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài
của tồn tại xã hội.
+ Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối
quan hệ xã hội của con người.
+ Vẫn còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận,
còn yếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm.
- Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý
xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội.
Hệ tư tưởng
- Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được hình
thành khi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật
chất của mình.
- Đặc điểm:
+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
+ Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội
+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất
định và truyền bá trong xã hội
+ Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những
quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…),
kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
c) Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã
hội, nhưng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối liên hệ tác động qua lại
với nhau. Chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn
tại xã hội.
- Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình
thành, truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất
định.
- Trái lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý
xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều
hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội
- Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không
phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội
của giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư
sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ
những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, và kế thừa
trực tiếp các học thuyết kinh tế, xã hội và triết học vào cuối thế kỷ 18,
đầu thế kỷ 19.
→ Như vậy, hệ tư tưởng liên hệ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của
tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã
hội.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
– Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt
vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp
quy định, nên ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức
phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
– Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ
tư tưởng xã hội.
+ Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói
quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn
xã hội khác
+ Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu
sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những
tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: Tư tưởng của giai cấp bóc lột và
bị bóc lột, của giai cấp thống trị và bị thống trị
+ Tuy nhiên, ý thức của các giai cấp trong xã hội cũng có sự tác động qua
lại với nhau. Không chỉ giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai
cấp thống trị mà giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai
cấp bị trị
– Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những
điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều
kiện sinh hoạt chung của dân tộc, chẳng hạn như những điều kiện lịch sử,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên được hình thành
trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.
Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai
cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói
quen, tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo
thành truyền thống dân tộc.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý
THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
- Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã
hội nào thì có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính
chất, đặc điểm và xu hướng biến đổi, phát triển của ý thức xã hội. Ý thức
xã hội phản ánh cái logic khách quan của tồn tại xã hội.
- Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay
đổi. Khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất, thay đổi thì những
từ tưởng, quan điểm về chính trị, pháp luật và triết học sớm hay muộn
cũng sẽ có những sự thay đổi nhất định.
- Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà
thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng,
quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và
trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng
mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh, bằng cách này
hay cách khác, trong các tư tưởng ấy. Như vậy, sự phản ánh tồn tại xã hội
của ý thức xã hội phải được xem xét một cách biện chứng.
2. Tính độc lập tương đối ý thức xã hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu
rồi, song ý thức xã hội do xã hội đó sản sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại. Điều
này biểu hiện rõ nhất ở các khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội như
truyền thống, thói quen và nhất là tập quán. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã
khẳng định, “sức mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu
người là một sức mạnh ghê gớm nhất”.
→ Nguyên nhân của điều này chúng ta có thể kể đến là:
- Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn
của con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng
phản ánh của ý thức xã hội.
- Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả
tính bảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại
xã hội mới cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền
thống cũ hoàn toàn mất đi.
- Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của
các giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu
thường níu kéo, bám chặt vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì
quyền lợi ích kỉ của họ, chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.
→ Vì vậy, muốn xây dựng xã hội mới thì nhất định phải từng bước xóa
bỏ được những tàn dư, những tư tưởng và ý thức xã hội cũ song song với
việc bồi đắp, xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Tuy nhiên, khi
thực hiện những nhiệm vụ này thì không được nóng vội, không được
dùng các biện pháp hành chính như đã từng xảy ra ở các nước XHCN và
cả ở nước ta nhiều năm trước đây.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
- Triết học Mác thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại
xã hội nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế là nhiều tư
tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt
trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa, hướng hoạt động thực tiễn của con
người vào mục đích nhất định. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do
nó phản ảnh đúng được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản
chất của tồn tại xã hội. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư
tưởng lớn phải sau một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực
tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của C.Mác đang trở thành sự thật trong thời
đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định điều đỏ.
- Chẳng hạn, dự báo tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đang
được thực tiễn của của cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số, thời đại
trí tuệ nhân tạo hay cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thời đại
tế tri thức xác nhận.
- Hay như Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng là một ví dụ điển hình khác. Chủ
nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại
– giai cấp công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa tư
bản nhưng đã chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài
người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư
bản nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản.
Ý thức xã hội có tính kế thừa.
- Tiến trình phát triển đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy
rằng, các quan điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ
cũng dựa vào những tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó. Chính
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng, ngay cả chủ nghĩa cộng
sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp… Và,
“nếu trước đó không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hêghen, thì sẽ
không bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy
nhất khoa học tồn tại từ trước đến nay.” Vì vậy, hoàn toàn hợp quy luật
rằng, chủ nghĩa Mác không chỉ đã tiếp thu tất cả những gì là tinh hoa
trong lịch sử văn minh nhân loại mà còn kế thừa trực tiếp từ nền triết học
cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp.
- Trong sự phát triển của mình ý thức xã hội có tính kế thừa nên không
thể giải thích một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng
phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, trình độ
phát triển kinh tế của nước Pháp vào thế kỷ XVIII kém xa nước Anh
nhưng tư tưởng lý luận thì nước Pháp tiên tiến hơn nước Anh nhiều.
Tương tự như vậy, kinh tế nước Đức đầu thế kỷ XIX kém xa nước Anh và
nước Pháp nhưng nền triết học của nước Đức thì vượt xa hai nước kia.
Điều đó chứng tỏ rằng, sự phát triển của ý thức xã hội không phải bao giờ
cũng song hành với sự phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế.
- Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong các xã hội có giai cấp thì các giai cấp
khác nhau sẽ kế thừa những di sản khác nhau của những giai đoạn trước.
Giai cấp tiến bộ đang lên sẽ chọn kế thừa những tư tưởng tiến bộ của thời
đại trước, trái lại, giai cấp lỗi thời, đi xuống bao giờ cũng chọn tiếp thu
những tư tưởng và lý thuyết bảo thủ, phản tiến bộ để cố gắng tìm cách
duy trì sự thống trị của mình.
VD: Khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên
tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản
của thời cổ đại.
- Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội
có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của
xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ
nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của
nền văn hoá nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mác-xít.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội ảnh hưởng
tới tồn tại xã hội.
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và
chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình
thái ý thức xã hội không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã
hội, mà còn chịu sự tác động lẫn nhau. Mối liên hệ và tác động lẫn nhau
đó giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có
những tính chất và những mặt không thể giải thích trực tiếp được bằng
các quan hệ vật chất.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn;
còn ở Tây Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh
thần xã hội như triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Bên
cạnh đó, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức
chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách
mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình
thái ý thức khác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động
tư tưởng như triết học, văn học nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính
trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai
lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
3. Ý thức xã hội tác động ngược trở lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội
mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào các
quan hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào
trình độ phản ánh và sự xâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả
chiều sâu, chiều rộng; và đặc biệt là vào vai trò lịch sử của giai cấp đại
diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Do đó, cần phân biệt ý thức xã hội tiến bộ
với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội. Ta có thể
kết luận, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực
tác động ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội
nói chung.
→ Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát
triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác
bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện
chứng của đời sống xã hội. → Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã
hội và ý thức xã hội.
- Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để
thay đổi ý thức xã hội.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã
hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần
của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội,
với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã
hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật
chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức
sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
IV. Xem xét, đánh giá thái độ và lối sống của người Việt Nam:
- Nhân sinh quan truyền thống người Việt là mẫu số chung của phép cộng
các triết lý nhân sinh của các tộc người Việt Nam, luôn gắn liền với nông
nghiệp (lúa nước) và thiết chế làng – xã, được triển khai trong một hệ
thống hoàn chỉnh trên mọi chiều kích của các mối quan hệ: lao động –
sản xuất, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dòng tộc,
họ hàng,… Nhân sinh quan người Việt thường gắn bó chặt chẽ với vận
mệnh của dân tộc, các triết lý nhân sinh đều giải đáp những vấn nạn mà
người Việt gặp phải trên con đường dựng nước và giữ nước.
- Nhân sinh quan truyền thống Việt Nam chính là những giá trị bản nhiên
của tư duy người Việt, không hoàn toàn vay mượn tư tưởng của Nho,
Phật, Lão. Những giá trị tích cực trong triết lý nhân sinh của cha ông ta là
cơ sở cho việc xây dựng lối sống mới cho người Việt Nam hiện nay.
Song, bên cạnh đó, những hạn chế từ nhân sinh quan truyền thống cũng
trở thành rào cản cho người Việt trên bước đường phát triển và hội nhập.
Do vậy, việc xác định rõ những giá trị tích cực, chỉ ra được những yếu tố
tiêu cực của nhân sinh quan truyền thống là một việc làm thiết thực nhằm
góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại, đáp ứng yêu cầu của
thời đại mới.
1. Điểm tích cực trong nhân sinh quan của người Việt Nam:
+ Tinh thần hiếu học là một trong những giá trị truyền thống quý báu
được hình thành và hun đúc từ dòng chảy lịch sử ngàn đời của dân tộc
Việt Nam. Đó chính là tinh thần quả quyết, tính kiên trì, nhẫn nại và ham
học hỏi. Sự hiếu học ấy đã tạo điều kiện sản sinh nhiều bậc anh tài, các
trung thần, những anh hùng dân tộc,… góp phần quan trọng cho sự
nghiệp giải phóng và kiến thiết nước nhà. Hiếu học không phải chỉ để
được vinh thân mà hiếu học là để có cơ hội tham gia vào việc nước.
Hiếu học còn là biểu tượng của ý chí và khát vọng vươn lên thoát khỏi
đói nghèo, thoát khỏi sự kém hiểu biết: “Làm trai cố chí học hành/Lập
nên công nghiệp để dành mai sau; Làm người mà được khôn ngoan/Cũng
nhờ học tập mọi đường mọi hay/Nghề gì đã có trong tay/Mai sau rồi cũng
có ngày ích to”,… Những tấm gương hiếu học thật sự là những con người
đáng được tôn vinh và học tập, vì họ là những người dám thực hiện ước
mơ của mình.
+ Lối sống cần cù, tiết kiệm của người Việt đã được coi là một trong
những đức tính điển hình, nói như cố giáo sư Trần Văn Giàu “cần cù đến
mức anh hùng tột bậc”.Từ xưa đến nay, người Việt vẫn coi trọng đức tính
cần cù, tiết kiệm, đề cao nó đến độ “cần cù bù thông minh”, “năng nhặt
chặt bị”, “tích cốc phòng cơ”, “buôn tầu bán bè không bằng ăn dè hà
tiện”. Lối sống tiết kiệm góp phần ổn định đời sống kinh tế gia đình, xã
hội trong điều kiện đất nước còn khó khăn, rèn luyện cách sống biết quý
trọng sức lao động, chống lối sống xa hoa, lãng phí theo kiểu “bóc ngắn
cắn dài”, “vung tay quá trán”, “ném tiền qua cửa sổ”,…
+ Lối sống đề cao tính tập thể, cộng đồng của người Việt có mặt tích cực
là coi trọng tình làng nghĩa xóm, đề cao tinh thần đoàn kết, hòa thuận,
tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, không chấp nhận lối sống hờ
hững, vô trách nhiệm. Lối sống cộng đồng này góp phần kìm hãm và hạn
chế những biểu hiện của bệnh vô cảm, của sự cạnh tranh một cách ghẻ
lạnh trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, đồng thời tạo nên
sức mạnh của sự thống nhất cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ý
nghĩa của sức mạnh đoàn kết, của tính cộng đồng đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh khái quát lại trong một nhận định về người Việt Nam như sau:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”
+ Trong đời sống tinh thần xã hội, người Việt truyền thống coi trọng chữ
“Tình”, đề cao ân nghĩa,… đôi khi, chữ “Tình” đã vượt lên trên cả lý lẽ,
luật pháp. Hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển, đặc biệt, khi
chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, giao thương với các nền kinh tế tư bản,
lúc này “Lý” sẽ áp đảo “Tình”. Trong điều kiện đó, truyền thống coi
trọng “Tình” có vẻ không còn phù hợp nữa, nhưng chúng ta vẫn cần phải
dung hòa,làm cho “Lý” không trở thành thái quá để dẫn đến “vô tình, vô
cảm”, thành con người “duy ngã”, ích kỷ; làm cho chữ “Tình” trong thời
hiện đại không yếm thế, biến con người thành yếu đuối, nhu nhược, ba
phải. Việc thiên về “Lý” hướng đến sự phát triển; còn “Tình” sẽ làm cho
sự phát triển diễn ra hài hòa, bền vững. Như vậy, chúng ta vẫn duy trì và
giữ gìn được bản sắcvà “làm mới, hiện đại hóa” nó cho phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh.
Việc coi trọng “Tình” sẽ làm cho việc áp dụng luật pháp uyển chuyển,
linh hoạt theo từng địa phương, từng vùng. Luật pháp, dù được xây dựng
trên đời sống thực tế, nhưng nó vẫn là “từ ngoài vào, từ trên xuống” áp
đặt người dân phải theo, nó vẫn có tính chất lý trí, cứng nhắc, máy móc,
không uyển chuyển và nhiều khi không tương thích với những hoàn cảnh
riêng của từng người dân, từng địa phương. Do đó, người Việt truyền
thống đã điều hòal uật pháp của nhà nước (triều đình) bằng Hương ước,
bằng tục lệ của làng để có cuộc sống phong lưu, thoải mái và tự tại hơn.
Tục “phép vua thua lệ làng” xưa và nay, không có nghĩa là coi thường kỷ
cương, phép nước mà phép nước ấy, luật pháp ấy cần phải uyển chuyển,
linh hoạt và phù hợp với tâm lý, lối sống của con người. Có như vậy, luật
pháp ấy, chủ trương ấy mới đi vào cuộc sống một cách dễ dàng, khả thi
hơn, bằng không, nó sẽ gặp phải sự kháng cự mãnh liệt, rốt cục, sẽ trở
thành không khả thi, không đi được vào đời sống xã hội và người dân.
Thiết nghĩ, truyền thống duy tình/trọng tình của người Việt vẫn có những
mặt tích cực của nó trong mọi mối quan hệ xã hội, dù xã hội phải vận
hành theo hướng duy lý, song vẫn rất cần xem xét đến yếu tố tình cảm để
con người và xã hội không trở thành một cỗ máy biết nói, biết tư duy. Và
duy “Tình”, duy “Tâm” sẽ là nhân tố cơ bản đánh thức thế giới nội tâm,
thế giới vô thức trong mỗi con người để họ không trở nên vô cảm trước
tha nhân (cả giới tự nhiên và cuộc sống cộng đồng), không đánh mất nhân
tính
+ Trong lịch sử, người Việt vốn rất gắn bó với thiên nhiên, yêu quý, tôn
trọng thiên nhiên. Triết lý sống “hài hòa” với giới tự nhiên khiến người
Việt trở nên gần gũi, thích nghi với sự biến thiên thất thường của thiên
nhiên và duy trì nền nông nghiệp lúa nước khá thịnh vượng, phát triển.
Khi người Việt đã biết thích ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo đến một
mức độ nhất định đối với tự nhiên, người Việt trở nên kiên cường hơn,
tính cách linh hoạt, lối sống năng động hơn trước những biến đổi của
thiên nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai, lựa theo tự nhiên mà sản
xuất và mưu sống.
Lối sống hài hòa với giới tự nhiên cũng tạo cho người Việt truyền thống
những đức tính ôn hòa, nhã nhặn, khiêm nhường. Dân tộc Việt được xem
là một dân tộc biết lấy khiêm nhu làm hậu thuẫn, thắng mà không kiêu
căng, đó là nghệ thuật ôn nhu khôn khéo của nước nhỏ đối với nước lớn,
biết làm chiến thuật Tâm công (đánh vào lòng người, không chiến trận
mà địch vẫn thua). Lối sống ấy khiến chocha ông chúng ta qua các triều
đại đều rất coi trọng chữ “Hòa” trong kế sách trị quốc và ngoại giao.
Trong ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, đạo trị quốc, trước hết,
phải lấy việc Nhân hòa làm đầu, dân là gốc của nước, có dân tâm, sĩ khí,
ắt thay đổi được thời cuộc.
=> Tất cả những giá trị tích cực trong nhân sinh quan truyền thống của
người Việt, cho đến nay, vẫn là những giá trị chung của cộng đồng, làm
nên cái gọi là bản sắc văn hóa của dân tộc Việt, người Việt.
Người Việt hiện nay không bằng lòng với cái nghèo, với sự thanh nhàn,
an phận, không tự thỏa mãn với lối sống hữu danh vô thực, họ bắt đầu
chú trọng đến lợi ích vật chất, biết vươn lên làm giàu, đề cao tính cá
nhân, sự tự do,…Hiện nay, từ cách thức lao động sản xuất, cách thức tư
duy, cách thức ứng xử, hưởng thụ, thỏa mãn nhu cầu sống của người Việt
đã ít nhiều khác xa các thế hệ cha ông ngày trước. Trong đời sống hiện
tại, người Việt đang cố gắng khắc phục những biểu hiện của nếp sống cũ:
tác phong lề mề, thủ công, trì trệ, làm ăn nhỏ,… xây dựng các giá trị mới
như trọng lý, trọng khoa học, trọng hiệu quả, đề cao tự do cá nhân (đặc
biệt rõ nét trong lối sống của tầng lớp thanh niên thành thị, trí thức,doanh
nhân).
Nhân sinh quan mới của con người Việt Nam hiện nay không chỉ là sự kế
thừa và phát huy nhân sinh quan truyền thống. Dân tộc Việt Nam đã trải
qua hàng ngàn năm lịch sử, đã hình thành nhiều phong tục, tập quán tốt
đẹp, sự tồn tại của chúng trong lối sống hiện đại thể hiện tính liên tục của
nhân sinh quan và bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. Hơn nữa,
trong lối sống của con người Việt Nam mà chúng ta xây dựng để đáp ứng
yêu cầu đổi mới và hội nhập phải là: dân tộc, hiện đại, văn minh. Để làm
được điều đó, chúng ta phải biết khơi dậy và phát huy hiệu quả những giá
trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống như: truyền thống hiếu học,
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, trọng tình trọng nghĩa, lối sống
cần cù, tiết kiệm,…
2. Một số mặt hạn chế trong nhân sinh quan của người Việt:
+ Hiếu học: Truyền thống hiếu học là một đặc trưng của người Việt, là
một đức tính tốt của người Việt vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên,
mặt trái của hiếu học là hiếu danh, trọng danh. Đi liền với tính trọng danh
là thói háo danh, mua danh: được thể hiện rõ qua nạn bằng giả, bằng thật
học giả trong xã hội ta hiện nay mà các phương tiện thông tin đại chúng
đã nêu ra. Trong một xã hội mà sự thăng tiến của mỗi cá nhân gắn liền
với độ cao tăng dần của bằng cấp thì “cuộc đua” để có được bằng nọ,
chứng chỉ kia là điều tất yếu. Nhiều người giỏi, tài thực sự, nhưng vì
không có đủ bằng cấp mà chấp nhận thua thiệt, không đạt được vị trí
xứng đáng, không được mọi người thừa nhận. Một số người không học
được để lấy bằng thật thì tất yếu phải mua bằng giả. Học để lấy bằng cấp
đã trở thành gánh nặng công danh chứ không còn là nhu cầu tri thức.
Vì chịu ảnh hưởng bởi thứ triết lý nhân sinh “học để làm quan” (với
những chuẩn mực về sự dùi mài kinh sử để vượt qua các kỳ thi, đảm bảo
cho mình một địa vị xã hội, để hưởng vinh hoa phú quý), nên người Việt
học hành thường không đến nơi đến chốn. Ngày nay, vào các thư viện
trong các trường đại học hay các thư viện lớn ở Việt Nam, chúng ta có thể
thấy số người đến đọc sách, học tập, nghiên cứu không ít, nhưng theo các
cuộc điều tra xã hội học đều cho thấy, số người đến thư viện đọc sách,
học tập, nghiên cứu vì say mê khoa học không nhiều, mà họ đến đó đọc
sách hay học tập để thi, để hoàn thành một chứng chỉ, hay làm xong một
việc nhất định nào đó rồi bỏ đấy. Do đó, khi học tập, nghiên cứu, người
Việt nặng về giáo điều, sao chép và thuộc lòng các lý thuyết sẵn có. Với
lối học “tầm chương” đó đã trói buộc những sáng kiến của con người,
kìm hãm lối suy tư phản biện, dẫn đến thiếu tự tin, không dám vượt bỏ
quá khứ.
+ Trong những năm gần đây, do điều kiện Lối sống cần cù, tiết kiệm:
kinh tế của người dân được cải thiện, thậm chí đồng tiền kiếm được một
cách quá nhanh chóng, dễ dàng, dẫn đến xu hướng hưởng thụ, sống gấp,
lười lao động, tìm mọi cách để kiếm tiền phục vụ nhu cầu ăn chơi, hưởng
thụ, kể cả vi phạm đạo đức và pháp luật. Trầm trọng hơn, hiện tượng
tham nhũng, tiêu “tiền chùa” đang trở thành quốc nạn của nhiều nước,
trong đó có Việt Nam. Về vấn đề này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận
định: Nước ta còn nghèo và kém phát triển, chúng ta lại chưa thực sự
thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn
cho đầu tư phát triển, vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nhất thiết
phải cần kiệm để công nghiệp hóa, phải khắc phục xu hướng chạy theo xã
hội tiêu thụ, lối sống xa hoa lãng phí, đó là những nhân tố quyết định sự
thành công của chúng ta…
+ Triết lý sống trọng tình nghĩa, duy tình, duy cảm của người Việt lại dẫn
đến lối sống dung hòa, xu thời, cam chịu, du di, xuề xòa, nhút nhát, tùy
tiện, thiếu triệt để, ý thức pháp luật chưa cao – đây chính là nhược điểm
đáng kể đối với việc xây dựng nhân sinh quan mới và tác phong công
nghiệp gắn với tư duy duy lý trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Lối sống thiếu triệt để của người Việt bắt nguồn từ triết lý sống duy tình,
duy cảm đã góp phần hình thành lối làm ăn tùy tiện, manh mún, không
biết lo xa, hạch toán, thiếu khả năng lao động liên kết, thiếu đầu óc tính
toán trong kinh doanh, sản xuất, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiển cận,
thực dụng, tính tổ chức, kỷ luật kém,… Lối tư duy và lối sống đó cũng đã
hình thành phương thức “ăn xổi, ở thì”, đề cao những lợi ích thiết thực
ngay trước mắt chứ ít chú tâm đến những lợi ích chiến lược, lâu dài hay
phải làm những gì to tát, lâu bền.
Lối sống du di, xuề xòa của người Việt truyền thống đã tác động không
nhỏ đến cuộc sống lao động sản xuất. Với Việt Nam, sản xuất nông
nghiệp là sản xuất theo thời vụ (do thời tiết có hai mùa nóng lạnh khác
biệt, buộc con người phải sản xuất theo), đã dẫn tới hình thành hiện tượng
ngày mùa thì vất vả, đầu tắt mặt tối, còn tháng ba ngày tám thì có nhiều
thời gian nghỉ ngơi/nhàn rỗi/nông nhàn. Ở một số vùng có nghề phụ
(nghề thủ công), người nông dân dùng thời gian nông nhàn tham gia sản
xuất vào các ngành nghề phụ, còn vùng không có nghề thủ công thì người
dân coi như rỗi rãi hàng tháng. Do rỗi rãi, không có việc làm thúc giục,
đã hình thành ở người Việt tác phong khoan thai, chậm chạp, không tiếc
thời gian: “Đi đâu mà vội mà vàng/Mà vấp phải đá, mà quàng phải
dây/Thủng thẳng như chúng anh đây/Chẳng đá nào vấp chẳng dây nào
quàng”.Tâm thế quen không tuân thủ chặt chẽ yếu tố thời gian trong lao
động sản xuất sẽ là một trở ngại lớn khi người Việt tiếp hợp vào xã hội
công nghiệp – cuộc sống đòi hỏi phải khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời
thì người Việt vẫn mang theo hành trang của nếp sống “giờ cao su”.
Tư duy nặng về kinh nghiệm (Trăm hay không bằng tay quen) đã tạo nên
lối sống gia trưởng, lão quyền (người cao tuổi được coi là người có nhiều
kinh nghiệm sống hơn cả), dẫn đến tư tưởng “trọng trưởng khinh ấu” của
người Việt. Với cách nghĩ và cách làm theo kinh nghiệm thì hoạt động
của con người thường hướng về quá khứ, bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới,
thường tìm cách phủ nhận năng lực của người đi sau (mặc dù trong thâm
tâm biết rằng họ hơn mình).
Và cũng do ảnh hưởng của thứ văn hóa coi trọng tinh thần, khinh chê vật
chất (vì cho nó là tầm thường, hạ đẳng) nên người Việt cũng hình thành
thói hư danh, ảo tưởng,sĩ diện. Người Việt thường dấu cái nghèo, cái khổ
“Tốt danh hơn lành áo; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp; Một
quan tiền công không bằng một đồng tiền thưởng; Ở đời muôn sự của
chung/Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”, không mấy khi người Việt
thú thật nỗi cực nhọc, vất vả đã từng phải chịu đựng, dẫn đến kiêu căng.
+ , cố kết cộng đồng là một trong những Ý thức cộng đồng, tính gắn kết
đặc điểm truyền thống nổi bật của người Việt Nam. Song, mặt trái của
tính cộng đồng dẫn tới tính cục bộ, kéo bè kéo cánh, ê kíp – đây cũng là
một trong những hạn chế khiến người Việt rất khó hòa nhập được với nền
kinh tế toàn cầu hóa vì nếu tham gia vào quá trình kinh tế toàn cầu với
một đầu óc cục bộ, vì lợi ích của cá nhân, đơn vị, địa phương thì chính
người Việt lại tự hại mình và hại lẫn nhau.
Tình trạng níu kéo nhau, không muốn cho người khác hơn mình “Khôn
độc không bằng ngốc đàn”, thói ghen ghét, đố kỵ khi thấy người khác
hơn mình, tài năng và thành đạt hơn mình,… khiến cho người Việt không
tạo ra được một sự hiệp thông thống nhất, dẫn đến việc một người làm thì
tốt, ba người làm thì tồi, bảy người làm thì hỏng.
+ đã trang bị cho người Việt một Ý tưởng về sự hòa hợp với thiên nhiên
sự nhận thức về tự nhiên, biết nắm lấy cái bản thể cốt lõi của thiên nhiên
mà hành động cho phù hợp với cuộc sống mưu sinh của mình. Người Việt
đã vận dụng những tri thức về tự nhiên đó để biết thích ứng với tự nhiên,
chinh phục, cải tạo tự nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai,…
Song, chính bởi sự gắn bó, thân thiện, hòa mình với thiên nhiên, với trời
đất, dẫn đến chỗ người Việt hình thành lối sống lệ thuộc, trông chờ, ỷ lại
vào thiên nhiên ưu đãi, nên dễ sinh ra lười biếng lao động và giản lược
hóa một cách thực dụng trong việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên một cách tùy ý, thiếu tôn trọng sự toàn vẹn, tuần hoàn của thiên
nhiên, thiếu ý thức trong việc vừa khai thác vừa tái tạo lại nó, dường như
trong suốt quá trình sống của mình, người Việt đã quay lưng lại với môi
trường sống tự nhiên của chính mình.
Lối sống phụ thuộc vào tự nhiên, trong khi đó tự nhiên, thời tiết thì lại
luôn thất thường, đỏng đảnh. Đối diện với sự biến thiên đó, đáng lẽ phải
biết tìm cách làm chủ và tự do trước thiên nhiên, thì người Việt lại quá lệ
thuộc vào “Trời”, nên trong quá trình sống hay lao động sản xuất, người
Việt thường tin vào số phận, may rủi, trông chờ vào thiên nhiên, dẫn đến
dễ chán nản, chùn bước khi gặp phải khó khăn.
Lối lao động, sản xuất chỉ biết dựa trên tri thức kinh nghiệm về thời tiết,
về trông mong ở trời đất của người Việt truyền thống khiến cho người
Việt hiện nay thiếu ý thức nghiên cứu khoa học trong sản xuất
=> Những kết quả nghiên cứu nêu trên khiến chúng ta phải nhìn lại mình,
nhất là trong điều kiện hiện nay, nhận thức lại chính mình là một trong
những nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới, nhận thức những hạn
chế của mình để tìm cách khắc phục, vượt qua, phá bỏ những rào cản,
những trở lực, những sức ỳ khá nặng nề cho bước đi lên của đất nước.
Lựa chọn những gì trong nhân sinh quan truyền thống giúp hình thành lối
sống, nếp sống mới cho người Việt đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập
cần một quá trình và sự sáng suốt không chỉ của một cá nhân, một nhóm
xã hội mà của cả cộng đồng. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và
phát huy những giá trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống trong
việc hình thành lối sống mới cho người Việt, thiết nghĩ, cần phải có một
hệ thống các nhóm giải pháp phù hợp, thực tế và mang tính khả thi.
| 1/14

Preview text:

CHỦ ĐỀ 11: Trình bày quan điểm duy vật lịch sử về quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Từ đó, xem xét, đánh giá vấn đề thái độ, lối sống
đẹp/xấu của người Việt Nam. THÀNH VIÊN NHÓM:
Nguyễn Thị Phương Dung Đào Phương Mai NỘI DUNG TRÌNH BÀY:
I. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH 1. Khái niệm:
- Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội
giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau.
- Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh
tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ
này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác
công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ
thuật chế tác, có nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì
này con người nhận biết và tận dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá,
đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi
cộng với sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên
nguồn tài nguyên rất phong phú.
2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm có:
- Một là,
phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Ví dụ: phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo
thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
- Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như:
các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của
không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
- Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất
lưu dân cư, mô hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động
lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó
phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của
phương thức sản xuất như thế nào sẽ quyết định sự tác động của con
người đến môi trường tự nhiên và quy mô phát triển dân số như thế ấy.
Ví dụ: trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông
ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích
hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến hành được phương thức đó,
người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...
II. Ý THỨC XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU Ý THỨC XÃ HỘI 1. Khái niệm
- Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;
truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra
Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều
thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
2. Kết cấu của ý thức xã hội
a) Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
- Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa.
- Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những
khái niệm, phạm trù, quy luật…
- Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sống hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý
thức thông thường tuy thấp hơn ý thức lý luận, nhưng tri thức kinh
nghiệm phong phú của nó là tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết khoa học.
b) Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng Tâm lý xã hội
- Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen,
tập quán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội
hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và
phản ánh đời sống đó. - Đặc điểm:
+ Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người.
+ Đây là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội.
+ Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối
quan hệ xã hội của con người.
+ Vẫn còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận,
còn yếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm.
- Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý
xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội. ● Hệ tư tưởng
- Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được hình
thành khi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. - Đặc điểm:
+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
+ Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội
+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất
định và truyền bá trong xã hội
+ Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những
quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…),
kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
c) Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã
hội, nhưng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối liên hệ tác động qua lại
với nhau. Chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
- Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình
thành, truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định.
- Trái lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý
xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều
hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội
- Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không
phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội
của giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư
sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ
những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, và kế thừa
trực tiếp các học thuyết kinh tế, xã hội và triết học vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.
→ Như vậy, hệ tư tưởng liên hệ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của
tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
– Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt
vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp
quy định, nên ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức
phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
– Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội.
+ Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói
quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác
+ Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu
sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những
tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: Tư tưởng của giai cấp bóc lột và
bị bóc lột, của giai cấp thống trị và bị thống trị
+ Tuy nhiên, ý thức của các giai cấp trong xã hội cũng có sự tác động qua
lại với nhau. Không chỉ giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai
cấp thống trị mà giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị trị
– Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những
điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều
kiện sinh hoạt chung của dân tộc, chẳng hạn như những điều kiện lịch sử,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên được hình thành
trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.
Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai
cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói
quen, tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo
thành truyền thống dân tộc.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
- Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai.
Tồn tại xã
hội nào thì có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính
chất, đặc điểm và xu hướng biến đổi, phát triển của ý thức xã hội. Ý thức
xã hội phản ánh cái logic khách quan của tồn tại xã hội.
- Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay
đổi
. Khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất, thay đổi thì những
từ tưởng, quan điểm về chính trị, pháp luật và triết học sớm hay muộn
cũng sẽ có những sự thay đổi nhất định.
- Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà
thường thông qua các khâu trung gian.
Không phải bất kỳ tư tưởng,
quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và
trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng
mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh, bằng cách này
hay cách khác, trong các tư tưởng ấy. Như vậy, sự phản ánh tồn tại xã hội
của ý thức xã hội phải được xem xét một cách biện chứng.
2. Tính độc lập tương đối ý thức xã hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu
rồi, song ý thức xã hội do xã hội đó sản sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại. Điều
này biểu hiện rõ nhất ở các khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội như
truyền thống, thói quen và nhất là tập quán. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã
khẳng định, “sức mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu
người là một sức mạnh ghê gớm nhất”.
→ Nguyên nhân của điều này chúng ta có thể kể đến là:
- Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn
của con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng
phản ánh của ý thức xã hội.
- Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả
tính bảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại
xã hội mới cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền
thống cũ hoàn toàn mất đi.
- Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của
các giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu
thường níu kéo, bám chặt vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì
quyền lợi ích kỉ của họ, chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.
→ Vì vậy, muốn xây dựng xã hội mới thì nhất định phải từng bước xóa
bỏ được những tàn dư, những tư tưởng và ý thức xã hội cũ song song với
việc bồi đắp, xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Tuy nhiên, khi
thực hiện những nhiệm vụ này thì không được nóng vội, không được
dùng các biện pháp hành chính như đã từng xảy ra ở các nước XHCN và
cả ở nước ta nhiều năm trước đây. ●
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
- Triết học Mác thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại
xã hội nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế là nhiều tư
tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt
trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa, hướng hoạt động thực tiễn của con
người vào mục đích nhất định. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do
nó phản ảnh đúng được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản
chất của tồn tại xã hội. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư
tưởng lớn phải sau một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực
tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của C.Mác đang trở thành sự thật trong thời
đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định điều đỏ.
- Chẳng hạn, dự báo tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đang
được thực tiễn của của cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số, thời đại
trí tuệ nhân tạo hay cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thời đại tế tri thức xác nhận.
- Hay như Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng là một ví dụ điển hình khác. Chủ
nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại
– giai cấp công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa tư
bản nhưng đã chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài
người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư
bản nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản. ●
Ý thức xã hội có tính kế thừa.
- Tiến trình phát triển đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy
rằng, các quan điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ
cũng dựa vào những tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó. Chính
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng, ngay cả chủ nghĩa cộng
sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp… Và,
“nếu trước đó không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hêghen, thì sẽ
không bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy
nhất khoa học tồn tại từ trước đến nay.” Vì vậy, hoàn toàn hợp quy luật
rằng, chủ nghĩa Mác không chỉ đã tiếp thu tất cả những gì là tinh hoa
trong lịch sử văn minh nhân loại mà còn kế thừa trực tiếp từ nền triết học
cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
- Trong sự phát triển của mình ý thức xã hội có tính kế thừa nên không
thể giải thích một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng
phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, trình độ
phát triển kinh tế của nước Pháp vào thế kỷ XVIII kém xa nước Anh
nhưng tư tưởng lý luận thì nước Pháp tiên tiến hơn nước Anh nhiều.
Tương tự như vậy, kinh tế nước Đức đầu thế kỷ XIX kém xa nước Anh và
nước Pháp nhưng nền triết học của nước Đức thì vượt xa hai nước kia.
Điều đó chứng tỏ rằng, sự phát triển của ý thức xã hội không phải bao giờ
cũng song hành với sự phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế.
- Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong các xã hội có giai cấp thì các giai cấp
khác nhau sẽ kế thừa những di sản khác nhau của những giai đoạn trước.
Giai cấp tiến bộ đang lên sẽ chọn kế thừa những tư tưởng tiến bộ của thời
đại trước, trái lại, giai cấp lỗi thời, đi xuống bao giờ cũng chọn tiếp thu
những tư tưởng và lý thuyết bảo thủ, phản tiến bộ để cố gắng tìm cách
duy trì sự thống trị của mình.
VD: Khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên
tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại.
- Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội
có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của
xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ
nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của
nền văn hoá nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mác-xít. ●
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội ảnh hưởng
tới tồn tại xã hội.
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và
chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình
thái ý thức xã hội không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã
hội, mà còn chịu sự tác động lẫn nhau. Mối liên hệ và tác động lẫn nhau
đó giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có
những tính chất và những mặt không thể giải thích trực tiếp được bằng các quan hệ vật chất.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn;
còn ở Tây Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh
thần xã hội như triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Bên
cạnh đó, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức
chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách
mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình
thái ý thức khác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động
tư tưởng như triết học, văn học nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính
trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai
lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
3. Ý thức xã hội tác động ngược trở lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội
mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào các
quan hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào
trình độ phản ánh và sự xâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả
chiều sâu, chiều rộng; và đặc biệt là vào vai trò lịch sử của giai cấp đại
diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Do đó, cần phân biệt ý thức xã hội tiến bộ
với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội. Ta có thể
kết luận, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực
tác động ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
→ Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát
triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác
bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện
chứng của đời sống xã hội. → Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
- Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để
thay đổi ý thức xã hội.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã
hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần
của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội,
với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã
hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật
chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức
sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
IV. Xem xét, đánh giá thái độ và lối sống của người Việt Nam:
- Nhân sinh quan truyền thống người Việt là mẫu số chung của phép cộng
các triết lý nhân sinh của các tộc người Việt Nam, luôn gắn liền với nông
nghiệp (lúa nước) và thiết chế làng – xã, được triển khai trong một hệ
thống hoàn chỉnh trên mọi chiều kích của các mối quan hệ: lao động –
sản xuất, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dòng tộc,
họ hàng,… Nhân sinh quan người Việt thường gắn bó chặt chẽ với vận
mệnh của dân tộc, các triết lý nhân sinh đều giải đáp những vấn nạn mà
người Việt gặp phải trên con đường dựng nước và giữ nước.
- Nhân sinh quan truyền thống Việt Nam chính là những giá trị bản nhiên
của tư duy người Việt, không hoàn toàn vay mượn tư tưởng của Nho,
Phật, Lão. Những giá trị tích cực trong triết lý nhân sinh của cha ông ta là
cơ sở cho việc xây dựng lối sống mới cho người Việt Nam hiện nay.
Song, bên cạnh đó, những hạn chế từ nhân sinh quan truyền thống cũng
trở thành rào cản cho người Việt trên bước đường phát triển và hội nhập.
Do vậy, việc xác định rõ những giá trị tích cực, chỉ ra được những yếu tố
tiêu cực của nhân sinh quan truyền thống là một việc làm thiết thực nhằm
góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
1. Điểm tích cực trong nhân sinh quan của người Việt Nam:
+ Tinh thần hiếu học là một trong những giá trị truyền thống quý báu
được hình thành và hun đúc từ dòng chảy lịch sử ngàn đời của dân tộc
Việt Nam. Đó chính là tinh thần quả quyết, tính kiên trì, nhẫn nại và ham
học hỏi. Sự hiếu học ấy đã tạo điều kiện sản sinh nhiều bậc anh tài, các
trung thần, những anh hùng dân tộc,… góp phần quan trọng cho sự
nghiệp giải phóng và kiến thiết nước nhà. Hiếu học không phải chỉ để
được vinh thân mà hiếu học là để có cơ hội tham gia vào việc nước.
Hiếu học còn là biểu tượng của ý chí và khát vọng vươn lên thoát khỏi
đói nghèo, thoát khỏi sự kém hiểu biết: “Làm trai cố chí học hành/Lập
nên công nghiệp để dành mai sau; Làm người mà được khôn ngoan/Cũng
nhờ học tập mọi đường mọi hay/Nghề gì đã có trong tay/Mai sau rồi cũng
có ngày ích to”,… Những tấm gương hiếu học thật sự là những con người
đáng được tôn vinh và học tập, vì họ là những người dám thực hiện ước mơ của mình.
+ Lối sống cần cù, tiết kiệm của người Việt đã được coi là một trong
những đức tính điển hình, nói như cố giáo sư Trần Văn Giàu “cần cù đến
mức anh hùng tột bậc”.Từ xưa đến nay, người Việt vẫn coi trọng đức tính
cần cù, tiết kiệm, đề cao nó đến độ “cần cù bù thông minh”, “năng nhặt
chặt bị”, “tích cốc phòng cơ”, “buôn tầu bán bè không bằng ăn dè hà
tiện”. Lối sống tiết kiệm góp phần ổn định đời sống kinh tế gia đình, xã
hội trong điều kiện đất nước còn khó khăn, rèn luyện cách sống biết quý
trọng sức lao động, chống lối sống xa hoa, lãng phí theo kiểu “bóc ngắn
cắn dài”, “vung tay quá trán”, “ném tiền qua cửa sổ”,…
+ Lối sống đề cao tính tập thể, cộng đồng của người Việt có mặt tích cực
là coi trọng tình làng nghĩa xóm, đề cao tinh thần đoàn kết, hòa thuận,
tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, không chấp nhận lối sống hờ
hững, vô trách nhiệm. Lối sống cộng đồng này góp phần kìm hãm và hạn
chế những biểu hiện của bệnh vô cảm, của sự cạnh tranh một cách ghẻ
lạnh trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, đồng thời tạo nên
sức mạnh của sự thống nhất cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ý
nghĩa của sức mạnh đoàn kết, của tính cộng đồng đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh khái quát lại trong một nhận định về người Việt Nam như sau:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
+ Trong đời sống tinh thần xã hội, người Việt truyền thống coi trọng chữ
“Tình”, đề cao ân nghĩa,… đôi khi, chữ “Tình” đã vượt lên trên cả lý lẽ,
luật pháp. Hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển, đặc biệt, khi
chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, giao thương với các nền kinh tế tư bản,
lúc này “Lý” sẽ áp đảo “Tình”. Trong điều kiện đó, truyền thống coi
trọng “Tình” có vẻ không còn phù hợp nữa, nhưng chúng ta vẫn cần phải
dung hòa,làm cho “Lý” không trở thành thái quá để dẫn đến “vô tình, vô
cảm”, thành con người “duy ngã”, ích kỷ; làm cho chữ “Tình” trong thời
hiện đại không yếm thế, biến con người thành yếu đuối, nhu nhược, ba
phải. Việc thiên về “Lý” hướng đến sự phát triển; còn “Tình” sẽ làm cho
sự phát triển diễn ra hài hòa, bền vững. Như vậy, chúng ta vẫn duy trì và
giữ gìn được bản sắcvà “làm mới, hiện đại hóa” nó cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh.
Việc coi trọng “Tình” sẽ làm cho việc áp dụng luật pháp uyển chuyển,
linh hoạt theo từng địa phương, từng vùng. Luật pháp, dù được xây dựng
trên đời sống thực tế, nhưng nó vẫn là “từ ngoài vào, từ trên xuống” áp
đặt người dân phải theo, nó vẫn có tính chất lý trí, cứng nhắc, máy móc,
không uyển chuyển và nhiều khi không tương thích với những hoàn cảnh
riêng của từng người dân, từng địa phương. Do đó, người Việt truyền
thống đã điều hòal uật pháp của nhà nước (triều đình) bằng Hương ước,
bằng tục lệ của làng để có cuộc sống phong lưu, thoải mái và tự tại hơn.
Tục “phép vua thua lệ làng” xưa và nay, không có nghĩa là coi thường kỷ
cương, phép nước mà phép nước ấy, luật pháp ấy cần phải uyển chuyển,
linh hoạt và phù hợp với tâm lý, lối sống của con người. Có như vậy, luật
pháp ấy, chủ trương ấy mới đi vào cuộc sống một cách dễ dàng, khả thi
hơn, bằng không, nó sẽ gặp phải sự kháng cự mãnh liệt, rốt cục, sẽ trở
thành không khả thi, không đi được vào đời sống xã hội và người dân.
Thiết nghĩ, truyền thống duy tình/trọng tình của người Việt vẫn có những
mặt tích cực của nó trong mọi mối quan hệ xã hội, dù xã hội phải vận
hành theo hướng duy lý, song vẫn rất cần xem xét đến yếu tố tình cảm để
con người và xã hội không trở thành một cỗ máy biết nói, biết tư duy. Và
duy “Tình”, duy “Tâm” sẽ là nhân tố cơ bản đánh thức thế giới nội tâm,
thế giới vô thức trong mỗi con người để họ không trở nên vô cảm trước
tha nhân (cả giới tự nhiên và cuộc sống cộng đồng), không đánh mất nhân tính
+ Trong lịch sử, người Việt vốn rất gắn bó với thiên nhiên, yêu quý, tôn
trọng thiên nhiên. Triết lý sống “hài hòa” với giới tự nhiên khiến người
Việt trở nên gần gũi, thích nghi với sự biến thiên thất thường của thiên
nhiên và duy trì nền nông nghiệp lúa nước khá thịnh vượng, phát triển.
Khi người Việt đã biết thích ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo đến một
mức độ nhất định đối với tự nhiên, người Việt trở nên kiên cường hơn,
tính cách linh hoạt, lối sống năng động hơn trước những biến đổi của
thiên nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai, lựa theo tự nhiên mà sản xuất và mưu sống.
Lối sống hài hòa với giới tự nhiên cũng tạo cho người Việt truyền thống
những đức tính ôn hòa, nhã nhặn, khiêm nhường. Dân tộc Việt được xem
là một dân tộc biết lấy khiêm nhu làm hậu thuẫn, thắng mà không kiêu
căng, đó là nghệ thuật ôn nhu khôn khéo của nước nhỏ đối với nước lớn,
biết làm chiến thuật Tâm công (đánh vào lòng người, không chiến trận
mà địch vẫn thua). Lối sống ấy khiến chocha ông chúng ta qua các triều
đại đều rất coi trọng chữ “Hòa” trong kế sách trị quốc và ngoại giao.
Trong ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, đạo trị quốc, trước hết,
phải lấy việc Nhân hòa làm đầu, dân là gốc của nước, có dân tâm, sĩ khí,
ắt thay đổi được thời cuộc.
=> Tất cả những giá trị tích cực trong nhân sinh quan truyền thống của
người Việt, cho đến nay, vẫn là những giá trị chung của cộng đồng, làm
nên cái gọi là bản sắc văn hóa của dân tộc Việt, người Việt.
Người Việt hiện nay không bằng lòng với cái nghèo, với sự thanh nhàn,
an phận, không tự thỏa mãn với lối sống hữu danh vô thực, họ bắt đầu
chú trọng đến lợi ích vật chất, biết vươn lên làm giàu, đề cao tính cá
nhân, sự tự do,…Hiện nay, từ cách thức lao động sản xuất, cách thức tư
duy, cách thức ứng xử, hưởng thụ, thỏa mãn nhu cầu sống của người Việt
đã ít nhiều khác xa các thế hệ cha ông ngày trước. Trong đời sống hiện
tại, người Việt đang cố gắng khắc phục những biểu hiện của nếp sống cũ:
tác phong lề mề, thủ công, trì trệ, làm ăn nhỏ,… xây dựng các giá trị mới
như trọng lý, trọng khoa học, trọng hiệu quả, đề cao tự do cá nhân (đặc
biệt rõ nét trong lối sống của tầng lớp thanh niên thành thị, trí thức,doanh nhân).
Nhân sinh quan mới của con người Việt Nam hiện nay không chỉ là sự kế
thừa và phát huy nhân sinh quan truyền thống. Dân tộc Việt Nam đã trải
qua hàng ngàn năm lịch sử, đã hình thành nhiều phong tục, tập quán tốt
đẹp, sự tồn tại của chúng trong lối sống hiện đại thể hiện tính liên tục của
nhân sinh quan và bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. Hơn nữa,
trong lối sống của con người Việt Nam mà chúng ta xây dựng để đáp ứng
yêu cầu đổi mới và hội nhập phải là: dân tộc, hiện đại, văn minh. Để làm
được điều đó, chúng ta phải biết khơi dậy và phát huy hiệu quả những giá
trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống như: truyền thống hiếu học,
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, trọng tình trọng nghĩa, lối sống cần cù, tiết kiệm,…
2. Một số mặt hạn chế trong nhân sinh quan của người Việt:
+ Hiếu học: Truyền thống hiếu học là một đặc trưng của người Việt, là
một đức tính tốt của người Việt vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên,
mặt trái của hiếu học là hiếu danh, trọng danh. Đi liền với tính trọng danh
là thói háo danh, mua danh: được thể hiện rõ qua nạn bằng giả, bằng thật
học giả trong xã hội ta hiện nay mà các phương tiện thông tin đại chúng
đã nêu ra. Trong một xã hội mà sự thăng tiến của mỗi cá nhân gắn liền
với độ cao tăng dần của bằng cấp thì “cuộc đua” để có được bằng nọ,
chứng chỉ kia là điều tất yếu. Nhiều người giỏi, tài thực sự, nhưng vì
không có đủ bằng cấp mà chấp nhận thua thiệt, không đạt được vị trí
xứng đáng, không được mọi người thừa nhận. Một số người không học
được để lấy bằng thật thì tất yếu phải mua bằng giả. Học để lấy bằng cấp
đã trở thành gánh nặng công danh chứ không còn là nhu cầu tri thức.
Vì chịu ảnh hưởng bởi thứ triết lý nhân sinh “học để làm quan” (với
những chuẩn mực về sự dùi mài kinh sử để vượt qua các kỳ thi, đảm bảo
cho mình một địa vị xã hội, để hưởng vinh hoa phú quý), nên người Việt
học hành thường không đến nơi đến chốn. Ngày nay, vào các thư viện
trong các trường đại học hay các thư viện lớn ở Việt Nam, chúng ta có thể
thấy số người đến đọc sách, học tập, nghiên cứu không ít, nhưng theo các
cuộc điều tra xã hội học đều cho thấy, số người đến thư viện đọc sách,
học tập, nghiên cứu vì say mê khoa học không nhiều, mà họ đến đó đọc
sách hay học tập để thi, để hoàn thành một chứng chỉ, hay làm xong một
việc nhất định nào đó rồi bỏ đấy. Do đó, khi học tập, nghiên cứu, người
Việt nặng về giáo điều, sao chép và thuộc lòng các lý thuyết sẵn có. Với
lối học “tầm chương” đó đã trói buộc những sáng kiến của con người,
kìm hãm lối suy tư phản biện, dẫn đến thiếu tự tin, không dám vượt bỏ quá khứ. + T
Lối sống cần cù, tiết kiệm: rong những năm gần đây, do điều kiện
kinh tế của người dân được cải thiện, thậm chí đồng tiền kiếm được một
cách quá nhanh chóng, dễ dàng, dẫn đến xu hướng hưởng thụ, sống gấp,
lười lao động, tìm mọi cách để kiếm tiền phục vụ nhu cầu ăn chơi, hưởng
thụ, kể cả vi phạm đạo đức và pháp luật. Trầm trọng hơn, hiện tượng
tham nhũng, tiêu “tiền chùa” đang trở thành quốc nạn của nhiều nước,
trong đó có Việt Nam. Về vấn đề này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận
định: Nước ta còn nghèo và kém phát triển, chúng ta lại chưa thực sự
thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn
cho đầu tư phát triển, vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nhất thiết
phải cần kiệm để công nghiệp hóa, phải khắc phục xu hướng chạy theo xã
hội tiêu thụ, lối sống xa hoa lãng phí, đó là những nhân tố quyết định sự
thành công của chúng ta…
+ Triết lý sống trọng tình nghĩa, duy tình, duy cảm của người Việt lại dẫn
đến lối sống dung hòa, xu thời, cam chịu, du di, xuề xòa, nhút nhát, tùy
tiện, thiếu triệt để, ý thức pháp luật chưa cao – đây chính là nhược điểm
đáng kể đối với việc xây dựng nhân sinh quan mới và tác phong công
nghiệp gắn với tư duy duy lý trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Lối sống thiếu triệt để của người Việt bắt nguồn từ triết lý sống duy tình,
duy cảm đã góp phần hình thành lối làm ăn tùy tiện, manh mún, không
biết lo xa, hạch toán, thiếu khả năng lao động liên kết, thiếu đầu óc tính
toán trong kinh doanh, sản xuất, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiển cận,
thực dụng, tính tổ chức, kỷ luật kém,… Lối tư duy và lối sống đó cũng đã
hình thành phương thức “ăn xổi, ở thì”, đề cao những lợi ích thiết thực
ngay trước mắt chứ ít chú tâm đến những lợi ích chiến lược, lâu dài hay
phải làm những gì to tát, lâu bền.
Lối sống du di, xuề xòa của người Việt truyền thống đã tác động không
nhỏ đến cuộc sống lao động sản xuất. Với Việt Nam, sản xuất nông
nghiệp là sản xuất theo thời vụ (do thời tiết có hai mùa nóng lạnh khác
biệt, buộc con người phải sản xuất theo), đã dẫn tới hình thành hiện tượng
ngày mùa thì vất vả, đầu tắt mặt tối, còn tháng ba ngày tám thì có nhiều
thời gian nghỉ ngơi/nhàn rỗi/nông nhàn. Ở một số vùng có nghề phụ
(nghề thủ công), người nông dân dùng thời gian nông nhàn tham gia sản
xuất vào các ngành nghề phụ, còn vùng không có nghề thủ công thì người
dân coi như rỗi rãi hàng tháng. Do rỗi rãi, không có việc làm thúc giục,
đã hình thành ở người Việt tác phong khoan thai, chậm chạp, không tiếc
thời gian: “Đi đâu mà vội mà vàng/Mà vấp phải đá, mà quàng phải
dây/Thủng thẳng như chúng anh đây/Chẳng đá nào vấp chẳng dây nào
quàng”.Tâm thế quen không tuân thủ chặt chẽ yếu tố thời gian trong lao
động sản xuất sẽ là một trở ngại lớn khi người Việt tiếp hợp vào xã hội
công nghiệp – cuộc sống đòi hỏi phải khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời
thì người Việt vẫn mang theo hành trang của nếp sống “giờ cao su”.
Tư duy nặng về kinh nghiệm (Trăm hay không bằng tay quen) đã tạo nên
lối sống gia trưởng, lão quyền (người cao tuổi được coi là người có nhiều
kinh nghiệm sống hơn cả), dẫn đến tư tưởng “trọng trưởng khinh ấu” của
người Việt. Với cách nghĩ và cách làm theo kinh nghiệm thì hoạt động
của con người thường hướng về quá khứ, bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới,
thường tìm cách phủ nhận năng lực của người đi sau (mặc dù trong thâm
tâm biết rằng họ hơn mình).
Và cũng do ảnh hưởng của thứ văn hóa coi trọng tinh thần, khinh chê vật
chất (vì cho nó là tầm thường, hạ đẳng) nên người Việt cũng hình thành
thói hư danh, ảo tưởng,sĩ diện. Người Việt thường dấu cái nghèo, cái khổ
“Tốt danh hơn lành áo; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp; Một
quan tiền công không bằng một đồng tiền thưởng; Ở đời muôn sự của
chung/Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”, không mấy khi người Việt
thú thật nỗi cực nhọc, vất vả đã từng phải chịu đựng, dẫn đến kiêu căng.
+ Ý thức cộng đồng, tính gắn kết, cố kết cộng đồng là một trong những
đặc điểm truyền thống nổi bật của người Việt Nam. Song, mặt trái của
tính cộng đồng dẫn tới tính cục bộ, kéo bè kéo cánh, ê kíp – đây cũng là
một trong những hạn chế khiến người Việt rất khó hòa nhập được với nền
kinh tế toàn cầu hóa vì nếu tham gia vào quá trình kinh tế toàn cầu với
một đầu óc cục bộ, vì lợi ích của cá nhân, đơn vị, địa phương thì chính
người Việt lại tự hại mình và hại lẫn nhau.
Tình trạng níu kéo nhau, không muốn cho người khác hơn mình “Khôn
độc không bằng ngốc đàn”, thói ghen ghét, đố kỵ khi thấy người khác
hơn mình, tài năng và thành đạt hơn mình,… khiến cho người Việt không
tạo ra được một sự hiệp thông thống nhất, dẫn đến việc một người làm thì
tốt, ba người làm thì tồi, bảy người làm thì hỏng.
+ Ý tưởng về sự hòa hợp với thiên nhiên đã trang bị cho người Việt một
sự nhận thức về tự nhiên, biết nắm lấy cái bản thể cốt lõi của thiên nhiên
mà hành động cho phù hợp với cuộc sống mưu sinh của mình. Người Việt
đã vận dụng những tri thức về tự nhiên đó để biết thích ứng với tự nhiên,
chinh phục, cải tạo tự nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai,…
Song, chính bởi sự gắn bó, thân thiện, hòa mình với thiên nhiên, với trời
đất, dẫn đến chỗ người Việt hình thành lối sống lệ thuộc, trông chờ, ỷ lại
vào thiên nhiên ưu đãi, nên dễ sinh ra lười biếng lao động và giản lược
hóa một cách thực dụng trong việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên một cách tùy ý, thiếu tôn trọng sự toàn vẹn, tuần hoàn của thiên
nhiên, thiếu ý thức trong việc vừa khai thác vừa tái tạo lại nó, dường như
trong suốt quá trình sống của mình, người Việt đã quay lưng lại với môi
trường sống tự nhiên của chính mình.
Lối sống phụ thuộc vào tự nhiên, trong khi đó tự nhiên, thời tiết thì lại
luôn thất thường, đỏng đảnh. Đối diện với sự biến thiên đó, đáng lẽ phải
biết tìm cách làm chủ và tự do trước thiên nhiên, thì người Việt lại quá lệ
thuộc vào “Trời”, nên trong quá trình sống hay lao động sản xuất, người
Việt thường tin vào số phận, may rủi, trông chờ vào thiên nhiên, dẫn đến
dễ chán nản, chùn bước khi gặp phải khó khăn.
Lối lao động, sản xuất chỉ biết dựa trên tri thức kinh nghiệm về thời tiết,
về trông mong ở trời đất của người Việt truyền thống khiến cho người
Việt hiện nay thiếu ý thức nghiên cứu khoa học trong sản xuất
=> Những kết quả nghiên cứu nêu trên khiến chúng ta phải nhìn lại mình,
nhất là trong điều kiện hiện nay, nhận thức lại chính mình là một trong
những nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới, nhận thức những hạn
chế của mình để tìm cách khắc phục, vượt qua, phá bỏ những rào cản,
những trở lực, những sức ỳ khá nặng nề cho bước đi lên của đất nước.
Lựa chọn những gì trong nhân sinh quan truyền thống giúp hình thành lối
sống, nếp sống mới cho người Việt đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập
cần một quá trình và sự sáng suốt không chỉ của một cá nhân, một nhóm
xã hội mà của cả cộng đồng. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và
phát huy những giá trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống trong
việc hình thành lối sống mới cho người Việt, thiết nghĩ, cần phải có một
hệ thống các nhóm giải pháp phù hợp, thực tế và mang tính khả thi.