PHẦN LÝ THUYẾT
BÀI 1. KỸ THUẬT HÒA TAN VÀ KỸ THUẬT LỌC
I. KỸ THUẬT HÒA TAN
1. Định nghĩa
Hòa tan sự phân tán một hay nhiều chất vào trong một dung môi hoặc hỗn hợp
dung môi trong những điều kiện nhất định.
Hòa tan chiết xuất một quá trình kỹ thuật dùng dung môi để hòa tan tách các
chất tan ra khỏi dược liệu. Đây là quá trình hòa tan không hoàn toàn.
2. Các phương pháp hòa tan
2.1. Hòa tan thông thường
Áp dụng khi dược chất dễ tan ở nhiệt độ thường hoặc bền ở nhiệt độ cao.
Thí dụ: hòa tan natri clorid, glucose trong nước…
2.2. Hòa tan đặc biệt
Áp dụng khi dược chất khó tan trong dung môi sử dụng nhưng tan khi dùng:
Phương pháp dùng hỗn hợp dung môi có thành phần và tỷ lệ thích hợp.
Phương pháp tạo dẫn chất dễ tan.
Phương pháp dùng chất trung gian thân nước.
Phương pháp dùng chất diện hoạt làm tăng độ tan.
Ví dụ:
Hòa tan iod vào nước nhờ chất trung gian hòa tan là kali iodide.
Dùng Natri benzoat hòa tan cafein.
Dùng Tween 20 để hòa tan các tinh dầu.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hòa tan
Bản chất chất tan dung môi: chất nhiều nhóm thân nước tan trong dung
môi phân cực và ngược lại.
Diện tiếp xúc giữa chất tan và dung môi càng lớn thì sự hòa tan càng nhanh.
Khi nhiệt độ tăng, độ tan tăng (ngoại trừ calci glycerophosphat, calci citrat…độ
tan giảm khi nhiệt độ giảm). Các chất dễ bay hơi (tinh dầu…) hoặc không bền
với nhiệt (natri hydrocarbonat) cần hòa tan ở nhiệt độ phòng.
Áp suất trên bề mặt của dung môi cũng có ảnh hưởng đến quá trình hòa tan.
Các chất trung gian làm tăng độ tan bằng những cơ chế khác nhau. Thí dụ: natri
salicylat và natri benzoat giúp cafein hòa tan dễ dàng trong nước.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác như pH, tạo dòng xoáy, siêu âm…
II. KỸ THUẬT LỌC
1. Định nghĩa
Lọc một thao tác học để tách riêng các pha trong một hệ dị thể khi bào chế
dung dịch thuốc. Mục đích của quá trình lọc là làm trong hoặc vô khuẩn dung môi, dung
dịch, khí.
Vật liệu dùng để lọc
Loại vật liệu
Đặc tính và sử dụng
Tiệt khuẩn
Bông thấm nước, vải
Giấy lọc
Lọc dịch chiết và dung dịch keo
Lọc dung dịch
Nhiệt ẩm
Màng cellulose acetat/ nitrat
Màng cellulose tái tổ hợp (RC),
polytetrafluoroethylen (PTFE)
Lọc dung dịch nước
Lọc dung dịch nước hoặc dung môi
hữu cơ
Nhiệt ẩm
Thủy tinh xốp
G-1 (100-120 m)
G-2 (40-50 m)
G-3 (20-30 m)
G-4 (5-10 m)
G-5 (1-1,5 m)
Lọc thô
Lọc dung dịch
Lọc dung dịch nhỏ mắt
Lọc dung dịch tiêm
Lọc vô khuẩn
Nhiệt khô, nhiệt
ẩm
Các phương pháp và thiết bị lọc
Lọc do chênh lệch áp suất thủy tĩnh. Áp dụng với vật liệu lọc là bông, vải, giấy lọc
với giá đỡ là phễu thủy tinh.
Lọc áp suất giảm (lọc hút chân không): tạo chân không ở phía dưới phễu lọc.
Lọc áp suất cao (lọc nén): tạo áp suất phía trên phễu lọc.
Một số điểm cần lưu ý khi lọc
Cho vật liệu lọc vào phía trong của phễu một cách cẩn thận.
Khi rót dịch lọc vào phễu cần gạn, rót từ từ, tốt nhất qua đũa thủy tinh vào
thành phễu.
Khi lọc các chất lỏng bay hơi cần đậy kín phễu.
Thường gạn lọc bộ kết tủa trước khi cho vào phễu để lọc trong hoặc lọc
khuẩn.
Với màng lọc: cần kiểm tra tình trạng nguyên vẹn của màng, thấm ướt màng lọc
bằng dung môi trước khi lọc.
BÀI 2. KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC NHŨ TƯƠNG
I. ĐẠI CƯƠNG
1. Định nghĩa
1.1. Nhũ tương
Nhũ tương là một hệ phân tán vi dị thể gồm 2 pha lỏng không đồng tan
vào nhau, trong đó một pha lỏng gọi pha phân tán được phân tán
đồng nhất dưới dạng giọt mịn trong một pha lỏng khác gọi môi
trường phân tán.
1.2. Nhũ tương thuốc
Theo DĐVN, nhũ tương thuốc gồm các dạng thuốc lỏng hoặc mềm để uống, tiêm,
dùng ngoài; được điều chế bằng cách dùng tác dụng của các chất nhũ hóa thích hợp để
trộn đều 2 chất lỏng không đồng tan được gọi một cách quy ước là dầu và nước
2. Thuật ngữ quy ước
Pha Nước (tướng Nước) chỉ chất lỏng phân cực.
Pha Dầu (tướng Dầu) chỉ chất lỏng không phân cực hoặc rất ít phân cực.
Pha phân tán, pha nội, tướng nội, tướng phân tán hoặc pha không liên tục chất lỏng
ở trạng thái phân tán thành giọt mịn.
Pha ngoại, tướng ngoại, môi trường phân tán hoặc pha liên tục chất lỏng chứa
đựng chất lỏng phân tán.
3. Thành phần chính của nhũ tương
Pha nội + pha ngoại + chất nhũ hóa hoặc dầu + nước + chất nhũ hóa.
Trong các nhũ tương thuốc:
Pha Dầu: bao gồm tất cả các dược chất và chất dẫn hoặc tá dược không phân cực
hoặc rất ít phân cực như các loại dầu, mỡ, sáp, tinh dầu, nhựa, các dược chất hòa tan được
trong dầu…
Pha Nước: bao gồm các chất lỏng phân cực như nước thơm, nước sắc, nước hãm,
ethanol, glycerin…và các dược chất hoặc chất phụ dễ hòa tan trong các chất lỏng trên.
Chất nhũ hóa: trong đa số các trường hợp, để giúp cho nhũ tương hình thành
có độ bền nhất định thường cần đến những chất trung gian đặc biệt được gọi là chất nhũ
hóa.
Khi nồng độ pha phân tán < 0,2% thể không dùng chất nhũ hóa, từ 0,2 2%
thể ổn định bằng cách tăng độ nhớt; > 2% phải dùng chất nhũ hóa thì nhũ ơng mới bền.
4. Kiểu nhũ tương
Các kiểu nhũ tương đơn giản gồm 2 pha. Tùy theo môi trường phân tán nước
hay dầu có 2 kiểu được gọi quy ước là:
+ Nhũ tương dầu trong nước viết là D/N (O/W hoặc H/E).
+ Nhũ tương nước trong dầu viết N/D (W/O hoặc E/H).
Nhũ tương kép được điều chế bằng cách phân tán một nhũ tương vào trong một
môi trường phân tán khác. dụ, nhũ tương D/N/D thể xem một nhũ tương N/D
mà bản thân các giọt nước đã chứa cá giọt dầu nhỏ hơn trong đó.
Kiểu nhũ tương được hình thành phụ thuộc chủ yếu vào độ tan tương đối trong
các pha của chất nhũ hóa. Theo quy tắc Bancroft, chất nhũ hóa tan trong pha nào thì pha
đó sẽ trở thành tướng ngoại. Như vậy, các polymer thân nước và các chất diện hoạt thân
nước tạo nhũ tương D/N, các chất diện hoạt thân dầu tạo nhũ tương N/D.
(1) (2) (3) (4) Các kiểu nhũ tương (1)
N/D/N; (2) D/N/D (3) D/N; (4) N/D;
5. Phân loại nhũ tương
5.1. Theo kiểu nhũ tương
Nhũ tương thuốc kiểu D/N: pha phân tán pha dầu môi trường phân tán pha
nước.
Nhũ tương kiểu N/D: pha phân tán là pha nước và môi trường phân tán là pha dầu.
Nhũ tương kép N/D/N: pha phân tán một nhũ tương N/D môi trường phân tán
là nước.
Để nhận biết kiểu nhũ tương, có thể xác định bằng các phương pháp:
+ Pha loãng: lấy một giọt nước cất vào một ợng nhỏ nhũ tương dựng trên một lam
kính. Nếu thấy giọt nước khuếch tán nhanh chóng vào khối nhũ tương và nhũ tương vẫn
giữ nguyên tính đồng nhất thì nhũ tương đem thử là kiểu nhũ tương D/N. Nếu giọt nước
vẫn đọng thành khối riêng trên bề mặt của nhũ tương thì đó nhũ tương kiểu N/D. +
Nhuộm màu: chất màu được sử dụng tan trong pha nào của nhũ tương pha đó sẽ có màu,
pha thứ hai sẽ hoàn toàn không màu. Trên nguyên tắc này thể dùng các chất màu tan
trong nước hoặc trong dầu pha vào nhũ tương rồi quan sát trên nh hiển vi để xác định
kiểu nhũ tương.
+ Đo độ dẫn điện: dựa trên nguyên tắc pha nước của nhũ tương (đặc biệt khi có các
chất điện ly) dẫn điện, còn pha dầu không dẫn điện. Nhũ tương cho dòng điện chạy qua
thì môi trường phân tán của nhũ tương là nước.
5.2. Theo nguồn gốc
Nhũ tương thiên nhiên: gồm các sản phẩm sẵn trong thiên nhiên ới dạng nhũ
tương (sữa, lòng đỏ trứng) các nhũ tương chế từ các hạt dầu nhạnh nhân,
lạc, bí...
Nhũ tương nhân tạo: các nhũ tương được điều chế bằng cách dùng chất nhũ hóa
thích hợp để phối hợp hai pha dầu và nước thành nhũ tương.
5.3. Theo nồng độ pha phân tán
Nhũ tương loãng: gồm những nhũ tương có nồng độ pha phân tán < 2%.
Nhũ tương đặc: gồm những nhũ tương có nồng độ pha phân tán > 2%. Đa số các n
tương thuốc là nhũ tương đặc có nồng độ pha phân tán 10 – 50%.
Về lý thuyết, pha phân tán có thể chiếm tỷ lệ lên đến 74% thể tích đối với nhũ tương
D/N nếu chọn được chất nhũ hóa thích hợp.
5.4. Theo kích thước pha phân tán
Vi nhũ tương: kích thước các tiểu phân phân tán nhỏ gần bằng tiêu phân keo
(khoảng 10 – 100 nm) nên nhìn bề ngoài, vi nhũ tương trong suốt hay trong mờ.
Nhũ tương mịn: có các tiểu phân pha phân tán cỡ 0,5 – 1 m.
Nhũ tương thô: có các tiểu phân có kích thước từ vài micromet trở lên.
5.5. Theo đường sử dụng
Nhũ tương tiêm, truyền: tiêm bắp thể dùng 2 kiểu nhũ tương D/N N/D. Tiêm
tĩnh mạch chỉ dùng kiểu nhũ tương D/N. Truyền tĩnh mạch với liều lớn các nhũ tương
cung cấp năng lượng phải là kiểu nhũ tương D/N, có kích thước tiểu phân pha phân
tán nhỏ hơn 0,5 m để tránh gây tắc mạch. Không được tiêm ntương thuốc trực
tiếp vàocột sống bất kể nhũ tương đó là D/N hay N/D.
Nhũ tương uống: chỉ uống các nhũ tương kiểu D/N (nhũ tương N/D mùi vị khó
chịu rất khó uống). Các nhũ tương uống thường các potio nhũ tương, trong thành
phần có mặt của các chất điều vị, điều hương.
Nhũ tương ng ngoài: dùng để xoa, bôi, đặt lên da niêm mạc được dùng cả 2
kiểu D/N và N/D. Nhũ tương D/N dễ rửa sạch và không gây bẩn quần áo hơn.
6. Ưu nhược điểm
6.1. Ưu điểm
Cho phép phối hợp dễ dàng các dược chất lỏng không đồng tan hoặc các dược
chất rắn chỉ tan trong một loại dung môi.
Làm cho dược chất phát huy tốt hơn tác dụng điều trị dưới dạng nhũ tương,
dược chất thường đạt độ phân tán cao và đồng nhất, khi sử dụng sẽ có diện tích tiếp xúc
lớn với các tổ chức của cơ thể.
Đối với thuốc uống nhũ ơng kiểu D/N, cho phép phối hợp các chất thân nước
với các dược chất không tan trong nước như các loại dầu và nhiều dược chất không phân
cực khác, phát huy tác dụng tốt của thuốc do chúng dễ được hấp thu hơn, che giấu mùi
vị khó chịu, giảm kích ứng của dược chất đối với niêm mạc tiêu hóa.
Đối với thuốc tiêm nhũ tương D/N, thể chế được thuốc tiêm chứa các dược chất
không tan hoặc rất ít tan trong nước dưới dạng thuốc tiêm tĩnh mạch.
Thuốc mỡ, thuốc xoa chế dưới dạng nhũ tương thể dễ dàng phối hợp nhiều loại
dược chất khác nhau với các dược thành các chế phẩm đồng nhất, thể chất mềm,
mịn màng, tác dụng dịu đối với da, niêm mạc, ít gây nhờn, bẩn da quần áo, đồng
thời có thể điều khiển được tác dụng của thuốc trên bề mặt da, niêm mạc, hoặc tác dụng
sâu ở các tổ chức dưới da bằng cách bào chế thành nhũ tương D/N hoặc N/D.
Đối với thuốc đạn, thuốc trứng chế dưới dạng nhũ tương có thể dễ dàng phối hợp
đồng đều nhiều loại ợc chất khác nhau với các dược, làm thành viên độ bền
học đảm bảo, viên dễ tan rã, đảm bảo sự giải phóng hấp thu dược chất tốt khi đặt thuốc
vào các hốc của thể. Riêng đối với thuốc đạn thể làm cho thuốc chỉ tác dụng tại
chỗ đặt hoặc gây tác dụng toàn thân bằng cách chế thành nhũ tương D/N hoặc N/D.
6.2. Nhược điểm
Nhũ tương là hệ phân tán học, không đồng thể nên không bền, dễ bị tách lớp
trong quá trình bảo quản.
Việc phân liều nhũ tương thuốc sẽ không đảm bảo chính xác khi nhũ tương bị tách
pha.
7. Ứng dụng của nhũ tương trong ngành Dược
Dùng đưa thuốc qua đường uống, qua da và qua trực tràng khi dược chất là dầu hoặc
dược chất tan trong dầu dưới dạng bào chế có nồng độ, hàm lượng thích hợp.
Làm cho thuốc dễ uống khi dược chất dầu làm giảm tính nhờn che dấu vị
khó chịu của dầu. dụ, nhũ tương dầu gan cá, nhũ tương dầu parafin, nhũ tương
dầu thầu dầu,…Nhũ tương dùng đường uống phải là kiểu D/N.
Gia tăng sự hấp thu của dầu và các dược chất tan trong dầu tại thành ruột non.
Kiểu nhũ tương ng đường tiêm phụ thuộc vào đường cho thuốc mục đích trị
liệu. Kiểu D/N thể được sử dụng cho mọi đường tiêm, kiểu N/D chỉ dùng tiêm
bắp hoặc dưới da để cho tác dụng kéo dài.Ví dụ, nhũ tương tiêm bắp của một số
vaccin tác dụng kéo dài làm tăng cường đáp ứng kháng thể, kéo dài thời gian miễn
dịch.
Các chế phẩm dinh dưỡng toàn thân dùng qua đường tiêm dưới dạng nhũ ơng. Các
nhũ tương trùng được chỉ định để đưa các chất béo, carbohydrat vitamin vào
cơ thể bệnh nhân suy nhược. Vài nhũ tương D/N hiện đang lưu hành trên thị trường
với tiểu phân phân tán kích thước trong khoảng 0,5 2 mm, tương tự như kích
thước của các vi dưỡng trấp (là các tiểu phân béo thiên nhiên có trong máu).
Các thuốc dùng ngoài là các dạng bào chế ứng dụng cấu trúc nhũ tương nhiều nhất.
Cả hai loại nhũ tương N/D D/N đều được sử dụng cho các thuốc dùng ngoài do
khả năng dẫn thuốc qua da tốt (làm tăng hiệu quả trị liệu của chế phẩm).
Đôi khi các dược chất hoặc tá dược được điều chế thành dạng nhũ tương ở nồng độ
thích hợp để tiện bảo quản như nhũ tương Chloroform B.P. hoặc nhũ tương tinh dầu
bạc hà B.P.
8. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và bền vững của nhũ tương
Sự lên bông: sự liên kết yếu giữa các giọt chất lỏng pha phân tán nhưng vẫn ngăn
cách nhau bởi một lớp mỏng của pha liên tục, nhũ tương có thể trở về trạng thái phân tán
đều khi lắc. Sự lên bông có thể khơi mào cho sự kết dính.
Sự nổi kem hay sự lắng cặn: các giọt của pha phân tán hay khối kết bông bị tách
ra dưới ảnh hưởng của trọng lực tạo thành một lớp nhũ tương có nồng độ đậm đặc ở phía
trên (sự nổi kem) hoặc phía dưới (sự lắng cặn).
Sự kết dính: các giọt của pha phân tán kết dính thành giọt kích thước lớn hơn
giọt ban đầu và nếu tiếp tục sẽ dẫn đến sự tách pha. Nếu có sự kết dính, nhũ tương bị phá
vỡ hoàn toàn và không hồi phục được.
Ngoài các hiện tượng trên còn có hiện tượng đảo pha. Nguyên nhân của hiện tượng
đảo pha thường do stương tác của các thành phần trong công thức làm phá vỡ hoặc
thay đổi tính chất của chất nhũ hóa.
Hệ thức Stokes dùng để tính vận tốc tách ra của các tiểu phân phân tán, cho phép
xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến sự bền vững của nhũ tương.
V: vận tốc tách ra của các tiểu phân pha phân tán (cm/s).
R: bán kính của các giọt chất lỏng
(cm). d
1
– d
2
: hiệu số tỷ trọng giữa hai
pha. η: độ nhớt của môi trường phân
tán. g: gia tốc trọng trường (980 cm/s).
Sự quan trọng của gia tốc trọng trường được ứng dụng trong việc theo dõi nhanh độ
ổn định của nhũ tương bằng phương pháp ly tâm để gia tốc sự tách lớp.
Nhũ tương càng bền khi vận tốc tách lớp càng nhỏ.
Ảnh hưởng do chênh lệch tỷ trọng của 2 pha: nhũ tương càng bền khi sự chênh
lệch tỷ trọng giữa 2 pha càng nhỏ.
Ví dụ: lắc dầu hướng dương với ethanol 60% sẽ cho nhũ tương bền do tỷ trọng của
dầu hướng dương và của ethanol 60% tương đương nhau. Tuy nhiên, khi lắc dầu hướng
với nước hay bromoform với nước thì nhũ tương thường không vững bền do sự chênh
lệch tỷ trọng đáng kể giữa hai pha. Giải quyết trong pha chế
Tăng tỷ trọng của môi trường phân tán của ntương D/N bằng cách thêm vào
môi trường phân tán các chất tỷ trọng lớn hơn nước như kết hợp với các chất tác
dụng làm ngọt, làm tăng độ nhớt. Tuy nhiên, biện pháp này không làm tăng tỷ trọng được
nhiều.
Giảm tỷ trọng của pha phân tán của nhũ tương D/N khi pha phân tán tỷ trọng
lớn như trường hợp của bromoform. Bromoform tỷ trọng 2,8. Rất khó phân tán
bromoform vào nước do sự chênh lệch tỷ trọng giữa hai pha quá lớn. Do đó bromoform
được hòa tan trong lượng dầu thích hợp để làm giảm tỷ trọng của pha dầu xuống.
Ảnh hưởng do kích thước tiểu phân của pha phân tán:
+ Nhũ tương bền khi kích thước tiểu phân của pha phân tán nhỏ. Khi tiểu phân kích
thước lớn, vận tốc tách lớp xảy ra nhanh hơn dẫn đến hiện tượng lắng cặn (lắng xuống
đáy) hay hiện tượng kết bông, hai hiện tượng trên thể khơi mào cho sự tách pha dễ
dàng hơn.
+ Trong điều chế pha nội được phân tán bằng tác dụng của lực cơ học. Lực phân tán lớn
tác động trong thời gian thích hợp làm cho ch thước tiểu phân pha nội càng nhỏ và
đồng đều. Tuy nhiên, sức căng liên bề mặt giữa 2 pha lớn cũng cản trở quá trình phân
tán.
Ảnh hưởng do độ nhớt của môi trường phân tán:
+ Nhũ tương càng bền khi độ nhớt của môi trường phân tán càng lớn. Độ nhớt lớn làm
cho sự chuyển động của tiểu phân pha phân tán giảm xuống, sự va chạm giữa các tiểu
phân sự kết hợp thành giọt lớn hơn sẽ được giảm thiểu, điều này giải thích các nhũ
tương lỏng m bền hơn các dạng thuốc mỡ, đạn, trứng thể chất đặc sệt kiểu nhũ
tương.
+ Để làm tăng độ nhớt của pha ngoại khi pha chế các nhũ tương D/N thường sử dụng
các chất m tăng độ nhớt như siro, glycerin, PEG, các gôm, thạch, dẫn chất, cellulose,
các chất rắn dạng hạt rất nhỏ như bentonit…Đối với nhũ tương N/D dùng các phòng
stearat kim loại…vừa làm chất nhũ hóa làm tăng độ nhớt của pha ngoại.
Ảnh hưởng của sức căng liên bề mặt giữa 2 pha lỏng không đồng tan:
+ Khi phân tán để phân chia một pha lỏng thành các tiểu phân kích thước nhỏ trong
môi trường không đồng tan làm cho diện tích bề mặt tiếp xúc giữa 2 pha ng lên, năng
lượng tự do bề mặt của hệ thống cũng tăng tương ứng theo.
= .S
: năng lượng bề mặt tự do (N.m).
: Sức căng liên bề mặt (N/m).
S: diện tích liên bề mặt (m
2
).
+ Sự tăng năng ợng tự do bề mặt làm tăng tính bất ổn định về mặt động học của hệ
phân tán. Để đạt được trạng thái bền hệ cần có năng lượng tự do tối thiểu do đó cân bằng
của hệ sẽ đạt được khi =0. Theo phương trình trên điều này thđạt được bằng cách
giảm sức căng liên bề mặt () hoặc giảm diện tích tiếp xúc bề mặt (S). Để giảm diện tích
bề mặt, các giọt khuynh hướng co lại thành hình cầu khi gần nhau, các giọt chất
lỏng khuynh hướng kết tụ lại để giảm diện tích bề mặt trong khi sức căng bề mặt
không thay đổi. Sự kết tụ sẽ tiếp tục xảy ra cho đến khi diện tích tiếp xúc bề mặt giữa 2
pha thu lại như ban đầu, dẫn đến sự tách pha hoàn toàn.
vậy để nhũ tương được bền vững mức độ phân tán đạt được, phải làm giảm sức căng
bề mặt tiếp xúc giữa 2 pha bằng tác dụng của các chất nhũ hóa.
Ảnh hưởng do tỉ lệ của pha phân tán:
+ Nhũ tương càng bền khi nồng độ của pha phân tán càng nhỏ. dụ nhũ ơng điều
chế với 0,2 ml dầu trong 1000 ml ớc sẽ bền n nhũ tương điều chế với 2 ml dầu
trong 1000 ml nước.
+ Trong thức tế, các nhũ tương thuốc là nhũ tương đặc, tỷ lệ pha phân tán chiếm từ 2
50% nên khi điều chế phải có chất nhũ hóa thích hợp.
Ảnh hưởng của chuyển động Brown: chyển động Brown kết quả lực đẩy của các
phân tử môi trường phân tán trên những tiểu phân của pha phân tán. Chuyển động này
làm thay đổi hướng chuyển động bình thường các tiểu phân (quá trình xích lại gần nhau
của các tiểu phân để đạt tới cân bằng) làm các tiểu phân này rời xa những vị trí tự nhiên
trong cân bằng, chống lại khuynh hướng kết hợp lại, do đó giúp nhũ tương ổn định hơn.
Ảnh ởng của chất nhũ hóa: chất nhũ hóa vừa giúp phân tán để tạo thành nhũ tương
ở giai đoạn bào chế, vừa giúp cho nhũ tương ổn định trong suốt quá trình bảo quản.
Ảnh hưởng do thời gian phân tán và cường độ của lực gây phân tán:
+ Cần xác định thời gian tối ưu cho quá trình nhũ hóa (thường nằm trong khoảng 1-5
phút).
+ Trong điều kiện nh thường, ch thước các tiểu phân phân tán giảm đi rất nhanh
trong những giây ban đầu dần đạt đến giá trị tới hạn sau 1 5 phút. Trong giai đoạn
này, sự phân tán chiếm ưu thế, sau đó là giai đoạn cân bằng giữa quá trình phân tán
quá trình ngưng tụ. Nếu vượt quá thời gian tối ưu thì sự tiêu hao năng lượng không cần
thiết và chất lượng nhũ tương cũng không tốt hơn.
+ Cường độ lực gây phân tán càng lớn thì nhũ tương càng dễ hình thành trong thời gian
ngắn.
Ảnh hưởng của nhiệt độ, pH và các chất điện giải:
+ Trong quá trình điều chế nhũ tương, cần kiểm soát nhiệt độ hỗn hợp một cách thích
hợp vì nhiệt độ tăng làm giảm sức căng liên bề mặt và độ nhớt tạo điều kiện cho sự nhũ
hóa nhanh hơn dễ hơn. Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp sẽ đưa đến sự ngưng tụ các
tiểu phân làm giảm chất lượng của nhũ tương.
+ Mỗi chất nhũ hóa ổn định trong một khoảng pH thích hợp, do đó cần chú ý đến pH
của chế phẩm hoặc thay đổi chất nhũ hóa.
+ Các chất điện giải nồng độ cao thể làm tách lớp nhũ tương trong khi điều chế hay
trong thời gian bảo quản.
II. THÀNH PHẦN CỦA NHŨ TƯƠNG THUỐC 1.
Pha dầu
Bao gồm các chất không phân cực tan trong dầu:
Các dược chất tan trong dầu: bromoform, menthol, vitamin A, D, E…
Các chất phụ tan trong dầu: các chất chống oxy hóa như butyl hydroxy anisol (BHA),
butyl hydroxytoluen (BHT), isopropyl galat, tocoferol. Các chất làm thơm như các
tinh dầu…
Dầu thực vật, dầu parafin, vaselin, parafin, các alcol béo, acid béo, sáp…
2. Pha nước
Bao gồm các chất phân cực là:
Các dược chất tan trong nước hay các dung môi phân cực.
Các chất bảo quản như nipagin với nồng độ từ 0,1 – 0,2%, nipasol với nồng độ từ
0,01 0,02%...dùng trong các nhũ ơng thuốc uống. benzalkonium clorid với nồng độ
0,01% hoặc clocresol từ 0,1 0,2%...dùng trong các nhũ tương thuốc dùng ngoài. Đối
với các nhũ tương chế với các loại dầu dễ bị oxy hóa thể cho thêm các chất chống oxy
hóa thích hợp.
Các chất làm ngọt, chất làm thơm, chất giữ ẩm…tan trong ớc hay các dung môi
phân cực.
Các chất lỏng phân cực như nước, ethanol, glycerin…
3. Các chất nhũ hóa thường dùng trong bào chế nhũ tương thuốc
Các nhũ tương thuốc thường có nồng độ pha phân tán cao, muốn thu được nhũ tương
bền, trong thành phần của nhũ tương phải các chất giúp nhũ ơng hình thành ổn
định, đó các chất nhũ hóa. Chất nhũ hóa tác dụng làm giảm sức căng bề mặt phân
cách pha, làm giảm năng lượng tự do bề mặt làm cho nhũ tương dễ hình thành ổn định.
Một số chất nhũ hóa còn làm tăng độ nhớt của môi trường phân tán giữ cho nhũ tương
ổn định hơn.
3.1. Chất nhũ hóa thiên nhiên
Các hydrat carbon: hay dùng gôm arabic, gôm adragant, thạch…
Gôm arabic: thường ng làm chất nhũ hóa trong các potio nhũ tương tạo kiểu nhũ
tương D/N. Gôm arabic chỉ hòa tan hoàn toàn trong lượng ớc gấp đôi lượng gôm,
khi đó mới tác dụng nhũ hóa tốt. m arabic khả năng nhũ hóa nhanh cả
khi điều chế nhũ tương bằng dụng cụ thô sơ như chày cối.
Gôm adragant: có độ nhớt thấp khoảng 50 lần độ nhớt của dung dịch gôm arabic có
cùng nồng độ. thế, thường dùng gôm adragant làm chất ổn định phối hợp với gôm
arabic trong các nhũ tương thuốc để uống.
Các saponin: thường dùng cồn thuốc (1/5) điều chế từ các dược liệu có saponin như
bồ hòn, bồ kết, quillaya, salsepareille để làm chất nhũ hóa cho các ntương dùng
ngoài.
Các protein dùng làm chất nhũ hóa có gelatin, sữa, casein và các dẫn chất.
Các sterol: chất nhũ hóa điển hình trong các stertol cholesterol nhiều trong
lanolin (sáp lông cừu), trong mỡ lợn, dầu lòng đỏ trứng; người ta cũng dùng các
acid mật như acid cholic, taurocholic, glycolic…làm chất nhũ hóa.
Các phospholipid: điển hình lecithin, nhiều trong lòng đỏ trứng, trong đỗ
tương…không độc nên là chất nhũ hóa thích hợp cho nhũ tương tiêm.
3.2. Các chất nhũ hóa tổng hợp và bán tổng hợp
So với các chất nhũ hóa thiên nhiên, các chất nhũ hóa tổng hợp có tác dụng nhũ hóa
mạnh hơn, vững bền, ít bị ảnh hưởng của các yếu tố như pH, nhiệt độ, vi khuẩn, nấm nên
được sử dụng khá rộng rãi làm chất nhũ hóa, chất gây thấm trong bào chế các nhũ tương
hay hỗn dịch thuốc.
3.2.1. Các chất diện hoạt
Các chất diện hoạt là một nhóm lớn gồm rất nhiều chất. Các chất diện hoạt điển hình
là những hợp chất lưỡng thân, trong phân tử của chúng có chứa các nhóm thân nước
và thân dầu.
Các chất diện hoạt dùng trong dược phẩm gồm 4 phân nhóm:
+ Chất diện hoạt anion: là những chất trong phân tử có các nhóm thân nước mang điện
tích âm như nhóm carboxyl (RCOO
-
), sulfonat (RSO
3
-
) hay sulfat (ROSO
3
-
). Các chất
thường dùng muối natri hay kali hay calci của acid béo (các phòng), natri lauryl
sulfat, kali laurat…
+ Chất diện hoạt cation: là những chất trong phân tử có các nhóm thân nước mang điện
tích dương như muối halogenid của amoni bậc 4 (R
4
N
+
X
-
). Các chất thường dùng
cetrimid, benzalkonium clorid, ngoài tác dụng nhũ hóa, các chất này còn có tác dụng sát
khuẩn.
+ Chất diện hoạt lưỡng tính: thực tế ít dùng trong bào chế nhũ tương thuốc. + Chất
diện hoạt không ion hóa: là những hợp chất có phần thân nước của phân tử không mang
điện nhưng vẫn tính thân nước do chứa các nhóm chức độ phân cực cao như
nhóm hydroxyl hay polyoxyethylen. Dùng nhiều trong bào chế cetomacrogol (Brij),
các sorbital ether (Span) các polysorbat (Tween)…Tên gọi các chất diện hoạt y
thường kèm theo một chỉ số, ví dụ: Tween 80, Tween 20, Span 60, Span 80,…
Các chất diện hoạt dễ tan trong nước như phòng natri, Tween dùng cho nhũ tương
kiểu D/N, các chất diện hoạt dễ tan trong dầu như phòng calci. Span dùng cho
nhũ tương kiểu N/D. Nhưng cũng có thể dùng 2 chất nhũ hóa ngược pha nhau trong
cùng một công thức nhũ tương để thu được nhũ tương bền vững.
3.2.2. Các chất nhũ hóa ổn định
Các polyethylen glycol (PEG): dễ hòa tan trong nước và không phải là chất nhũ hóa
thực sự nhưng chất ổn định tốt đối với nhũ tương thuốc. do tính thân nước mạnh
nên khả năng gây thấm biến dược chất rắn nước thành thân nước nên hay được
dùng làm chất gây thấm trong bào chế các dạng hỗn dịch thuốc.
Các alcol polyvinylic: những sản phẩm trùng hợp cao phân tử của alcol vinylic, tan
trong nước glycerin. Dung dịch trong nước sức căng bề mặt thấp, pH gần trung
tính độ nhớt thay đổi phụ thuộc o nồng độ. Các alcol polyvinylic hay được dùng
làm chất gây thấm và chất nhũ hóa trong bào chế các hỗn dịch và nhũ tương thuốc uống,
tiêm và dùng ngoài.
Các alcol polyvinylic rất thích hợp trong bào chế các nhũ tương, hỗn dịch dung
dịch thuốc nhỏ mắt vì các chất này hoàn toàn trơ về mặt hóa học, có thể tiệt khuẩn được
thích hợp với các niêm mạc mắt, giúp cho sự phục hồi nhanh chóng các tổn thương
về mắt và giữ cho thuốc tiếp xúc lâu hơn với niêm mạc mắt.
3.2.3. Các dẫn chất của cellulose
Các dẫn chất của cellulose nhiều tính chất giống với các chất keo thiên nhiên
nhưng ưu điểm: tinh khiết, bền vững, ít bị c dụng của vi khuẩn, nấm mốc, ít chịu
ảnh hưởng của nhiệt độ nên có thể tiệt khuẩn mà không bị hỏng.
Do có các ưu điểm nói trên, các chất này hay được dùng làm chất nhũ hóa gây thấm
trong bào chế nhũ ơng hỗn dịch thuốc uống, tiêm hay dùng ngoài làm dược
trong thuốc viên, thuốc mỡ (kể cả thuốc mỡ tra mắt).
Thường dùng methyl cellulose, hydroxymethyl cellulose, carboxymethyl cellulose,
natri carboxymethyl cellulose, carboxy polymethylen (carbopol)…
Các loại dẫn chất này đều tan trong nước tạo ra dịch keo, pH gần trung tính,
độ nhớt tùy theo loại dần chất và nồng độ của nó trong dung dịch.
Để hòa tan nhanh các dẫn chất của cellulose trong nước cần thấm ướt chúng với nước
nóng và để cho chúng trương nở trong một thời gian, sau đó mới khuấy trộn đều đến
khi thu được một dịch thể đồng nhất.
3.3. Các chất nhũ hóa rắn ở dạng hạt nhỏ
Là những chất rắn dưới dạng bột rất mịn không tan trong nước và dầu. muốntác
dụng nhũ hóa, kích thước của các tiểu phân bột phải bé hơn rất nhiều lần kích thước
các tiểu phân pha phân tán của nhũ tương.
Loại chất o dễ thấm nước hơn dầu sẽ cho nhũ tương D/N, dễ thấm dầu hơn nước
sẽ cho nhũ tương N/D. Những chất khả năng thấm nước dầu như nhau thì nếu trộn
chất nhũ hóa với pha nào trước thì pha đó sẽ là môi trường phân tán của nhũ tương.
Một số chất thường dùng là bentonit, magnesi nhôm silicat (Veegum), hectorit.
III. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHẾ NHŨ TƯƠNG
Để điều chế một nhũ tương đạt yêu cầu, cần lưu ý:
Thiết bị gây lực phân tán phải phù hợp với phương pháp điều chế nhũ tương.
Điều chế ở nhiệt độ thích hợp. Trong trường hợp cần đun nóng chảy pha dầu để hòa
tan các chất trong dầu thì phải đun nóng pha nước ở nhiệt độ cao hơn pha dầu từ 3 –
5
0
C.
Phối hợp các dược chất khi điều chế nhũ tương tuân theo những nguyên tắc sau:
Các dược chất dễ tan trong pha nước được hòa tan trong pha nước.
Các hoạt chất độc mạnh, để tránh nhầm lẫn hao n hòa tan trước vào một
lượng nhỏ nước hoặc dầu trước khi tiến hành phối hợp.
Các hoạt chất tan trong dầu như camphor, bromoform, vitamin A, E…được hòa tan
vào pha dầu phải tăng lượng chất nhũ hóa thích hợp.
Các thành phần tan trong pha nội phải hòa tan trong pha nội trước tiến hành nhũ hóa.
Các thành phần tan trong pha ngoại tùy ý từng trường hợp có thể phối hợp trước hay
sau khi nhũ hóa.
Các chất không tan trong ớc, không tan trong dầu như muối bismuth được điều
chế dưới dạng hỗn nhũ ơng bằng cách nghiền mịn (khô) rồi nghiền ướt pha
loãng với nhũ tương đã được điều chế.
Kỹ thuật điều chế c nhũ tương thuốc đã được tả bởi White: sự điều chế nhũ
tương được thực hiện bằng cách phân chia pha nội thành những giọt nhỏ phân n
chúng trong pha ngoại. Kỹ thuật này thể được thực hiện bằng phương tiện đơn giản
như cối chày hoặc bằng máy trộn nhũ tương cao tốc. Chất nhũ hóa không những vai
trò giúp làm giảm lực khuấy trộn mà còn giúp cho nhũ tương bền vững hơn.
Nhũ tương có thể được điều chế theo các phương pháp sau:
1. Thêm pha nội vào pha ngoại (phương pháp keo ướt)
phương pháp thích hợp nhất thường áp dụng quy công nghiệp để điều chế
nhũ tương.
Nguyên tắc: Chất nhũ hóa được hòa tan trong lượng lớn pha ngoại, sau đó thêm từ
từ pha nội vào, vừa phân tán đến khi hết pha nội và tiếp tục phân tán cho đến khi n
tương đạt yêu cầu.
Thiết bị gây phân tán: Là máy khuấy chân vịt, máy khuấy cánh quạt…Trong nhiều
trường hợp, máy khuấy hay máy trộn chỉ cho nhũ tương thô, kích thước của pha nội
không đồng đều. Vì vậy, phải cho nhũ tương thô qua máy làm mịn và làm đồng nhất
như máy xay keo, máy làm mịn ở áp suất cao hay có khe hẹp (máy đồng nhất hóa).
dụ: Khi điều chế nhũ tương (D/N), các chất tan trong nước được hòa tan vào nước,
các chất trong dầu được phối hợp từng lượng nhỏ vào pha nước m theo lực phân tán
thích hợp. Đôi khi, để quá trình phân n tốt, không được dùng tất cnước để trộn với
chất nhũ hóa. Sau khi nhũ tương đã chứa dầu hình thành mới thêm lượng nước còn lại
vào.
Dầu .................................................500 ml Gelatin A
.......................................................8 g Acid
tartric ....................................................0,6 g Chất tạo
mùi ........................................................vđ
Ethanol ...................................................60 ml Nước
tinh khiết .........................................vđ 100 ml
Điều chế: cho gelatin và acid tartric vào khoảng 300 ml ớc, để yên vài phút, đun
nóng đến khi gelatin hòa tan hoàn toàn, sau đó nâng nhiệt độ hỗn hợp đến 98
0
C duy
trì nhiệt độ này trong khoảng 20 phút. Để nguội đến 50
0
C thêm chất tạo mùi, cồn nước
để điều chỉnh đến 500 ml. Thêm dầu, phân n thành nhũ tương đồng nhất. Điều chỉnh
thể tích, thchuyển qua máy đồng nhất hóa hoặc máy xay keo để xử cho đến khi
đạt yêu cầu.
Nhũ tương này cũng thể được điều chế bằng các thiết bị phân tán khuấy trộn
thông thường.
2. Thêm pha ngoại vào pha nội (phương pháp keo khô)
Phương pháp này thích hợp để điều chế một lượng nhỏ tương bằng cối chày.
Nguyên tắc: Chất nhũ hóa dạng bột mịn được trộn với toàn bộ ớng nội, thêm
một lượng tướng ngoại vừa đủ phân tán mạnh để tạo nhũ tương đậm đặc. Thêm
từ từ tướng ngoại còn lại vào và hoàn chỉnh nhũ tương.
Phương pháp này áp dụng thuận lợi để điều chế nhũ tương D/N trong trường hợp
chất nhũ hóa thân nước là gôm arabic, adragant, hoặc methyl cellulose. Chất nhũ hóa
được trộn với dầu tạo một hệ phân tán nhưng không gây thấm ướt. Thêm nước vào
và phân tán thành nhũ tương đậm đặc D/N.
Kỹ thuật keo khô một phương pháp nhanh để điều chế một lượng nhỏ nhũ tương
D/N với chất nhũ hóa gôm arabic. Tỷ lệ 4 dầu, 2 ớc 1 gôm tỷ lệ để phân
tán pha dầu thành những giọt bằng cối chày. Tuy nhiên tỷ lệ này thể được điều
chỉnh sao cho có một nhũ tương tốt, dụ tinh dầu, dầu parafin, dầu hạt lanh thể
áp dụng tỷ lệ 3:2:1 hoặc 2:2:1 sau đó, nhũ tương được pha loãng phân tán trong
nước đến nồng độ xác định.
Nếu có sự phối hợp của nhiều loại dầu, lượng gôm tính được tính riêng cho từng loại
và cộng lại.
Ví dụ
Nhũ tương dầu khoáng
Dầu khoáng .................................................500 ml
Gôm arabic (bột rất mịn) ..................................125 g
Siro .................................................100 ml Vanilin
.....................................................40 g Ethanol
...................................................60 ml Nước tinh
khiết .......................................vđ 1000 ml
Điều chế: Trộn đều dầu khoáng gôm arabic trong cối khô, thêm 250 ml nước
đánh nhanh (một chiều) cho đến khi thu được nhũ tương đậm đặc. Thêm từ từ từng lượng
nhỏ, vừ thêm vừa khuấy, một hỗn hợp gồm siro, 50ml nước cồn vanilin vào. Thêm
nước để điều chỉnh thể tích. Trộn đều hoặc chuyển qua máy đồng hóa.
3. Các phương pháp đặc biệt
3.1. Trộn lẫn 2 pha sau khi đun nóng
Phương pháp này áp dụng trong hai trường hợp: trong công thức sáp hoặc các
chất cần thiết đun chảy.
Nguyên tắc: Thành phần thân dầu, dầu p được đun chảy thành hỗn hợp đồng
nhất thành phần tan trong nước được hòa tan và đun nóng ở nhiệt độ cao hơn một ít
so với pha dầu (3 – 5
o
C). Trộn đều 2 pha và phân tán cho đến khi nguội.
Để thuận tiện, nhưng không bắt buộc, pha nước được đổ vào pha dầu.
Phương pháp này thường dùng điều chế nhũ tương có thể đặc như các thuốc mỡ hay
kem bôi da.
Ví dụ
Kali hydroxid ..................................................0,75 g Acid
stearic .....................................................15 g
Glycerin .......................................................5 g Chất thơm
........................................................vđ
Chất bảo quản .......................................................vđ
Nước cất ..............................................vđ 100 g
Đun nóng để giảm độ nhớt 2 pha khi phân tán. Áp
dụng khi điều chế các nhũ tương có thể chất đặc như
trường hợp điều chế nhũ tương dầu hạt bông có kết
hợp với dược chất rắn là sulfadiazin tạo sản phẩm có
thể chất đặc có cấu trúc hỗn nhũ tương.
Dầu hạt bông ..................................................460 g
Sulfadiazin ...................................................200 g
Sorbitan monostearat .........................................84 g
Polyoxyethylen ..................................................20 g
Sorbitan monostearat .........................................36 g
Natrt benzoat .......................................................2 g Chất
làm ngọt ........................................................vđ
Hương liệu ........................................................vđ
Nước tinh khiết ..............................................1000 g
Quy trình điều chế công thức trên theo Rieger:
Đun nóng 3 thành phần đầu tiên đến 50
0
C và nghiền qua máy xay keo(1).
Thêm hỗn hợp 4 thành phần liên tiếp theo (đã được đun nóng đến 50
0
C) vào hỗn hợp
3 thành phần phần (1) đã được đun nóng đến 65
0
C, vừa khuấy đều vừa để nguội đến
45
0
C.
Thêm hương liệu và tiếp tục khuấy cho đến khi đạt đến nhiệt độ phòng.
3.2. Phương pháp xà phòng hóa trực tiếp
Áp dụng khi chất nhũ hóa là xà phòng được tạo ra trực tiếp trong quá trình phân tán.
phòng hóa tạo ra chyếu do các phản ứng hóa học xảy ra trên bề mặt phân cách
pha do các acid béo tan trong tướng dầu và kiềm tan trong tướng nước.
Tùy theo bản chất của phòng tạo ra thể thu được nhũ tương kiểu D/N hay
N/D.
Ví dụ
Dầu lạc thô .....................................................20 g
Nước vôi nhì .....................................................20 g
Phương pháp tạo phòng thường cho nhũ tương rất bền vững kích thước của
tiểu phân phân tán thường rất bé do nhũ hóa được tạo ra tập trung rất nhanh trên bề mặt
phân cách trong khi ở các phương pháp khác để đạt điều này cần qua quá trình phân tán.
3.3. Phương pháp dùng dung môi chung
Áp dụng khi có một dung môi vừa hòa tan tướng nội, chất nhũ hóa, vừa đồng tan với
tướng ngoại và không có tác dụng dược lý riêng
Phương pháp này hạn chế khó tìm được 1 loại dung môi phổ biến đạt các yêu cầu
như trên
Nguyên tắc: dung môi hòa tan tướng nội và chất nhũ hóa thành dung dịch. Cho từng
ít một dung dịch vào pha ngoại phân n mạnh tạo ra những tiểu phân của pha nội
được bao lại bởi chất nhũ hóa.
Vi dụ
Créosot .....................................................33 g
Lecithin .......................................................2 g
Nước cất ..............................................vđ 100 g
Créosot, lecithin dễ tan trong ethanol 90% và ethanol lại hỗn hòa tan trong nước.
Dùng 10g ethanol hòa tan Créosot lecithin trong lọ. Sau đó cho từng lượng nhỏ
dung dịch trên vào nước. Lắc mạnh tạo nhũ tương.
3.4. Nhũ hóa các tinh dầu vàc các chất dễ bay hơi
Tinh dầu hoặc các chất dễ bay hơi thường có độ nhớt thấp, có thể được nhũ hóa bằng
cách lắc các thành phần trong lọ có nắp (Briggs’method hay bottle method, phương pháp
của Briggs hay phương pháp lắc chai).
Briggs cho rằng lắc gián đoạn (để yên 30 giây) tốt hơn là lắc liên tục vì khi đó có đủ
thời gian cho sự hấp phụ và định hướng các chất nhũ hóa trên bề mặt tiếp xúc trước khi
các tiểu phân bị phân chia bởi lần lắc tiếp theo.
IV. VÍ DỤ MỘT SỐ NHŨ TƯƠNG
1. Nhũ tương thiên nhiên
Hạt bí ngô .....................................................10 g ớc
............................................vđ 100 ml
(Có thể thay phân nửa khối lượng hạt bằng đường kính)
Hạt lạc .......................................................5 g
Đường kính .......................................................5 g
ớc ............................................vđ 100 ml
Chất nhũ hóa các albumin sẵn trong hạt, chỉ cần giã nhỏ, hòa với nước thu được
nhũ dịch.
2. Potio nhũ tương
Bromoform .......................................................2 g
Natri benzoat .......................................................4 g
Codein phosphat................................................0,2 g
Siro đơn .....................................................20 g
Nước cất ............................................vđ 100 ml
Bromoform tỷ trọng 2,8 rất cao so với nước, mùi vị khó uống, kích ứng niêm mạc,
không tan trong nước, vì vậy phải chế dưới dạng nhũ dịch D/N.
Thêm một lượng dầu vào công thức để làm giảm tỷ trọng của pha dầu.
Tính lượng gôm Arabic thêm vào công thức để nhũ hóa dầu.
Áp dụng phương pháp keo khô để điều chế.
3. Nhũ tương dầu thuốc
Dầu parafin .................................................500 ml
Gôm Arabic .....................................................50 g
Gôm adragant ....................................................2,5 g
Thạch ....................................................7,5 g
Tinh dầu chanh...................................................1 ml
Vanilin ....................................................0,2 g
Natri benzoat ....................................................1,5 g Glycerin
...................................................50 ml
Nước .........................................vđ 1000 ml
Pha dầu trong công thức chiếm tỷ lệ 50% và có tác dụng dược lý nên được gọi là nhũ
tương dầu thuốc.
Công thức này dùng phối hợp nhiều chất nhũ hóa với tỷ lệ thích hợp.
Tùy số lượng nhũ tương cần điều chế thiết bị thích hợp đchọn phương pháp điều
chế là phương pháp keo ướt hay phối hợp phương pháp keo ướt và keo khô.
4. Nhũ tương thuốc tiêm
Điều chế từ chất béo như các dầu thực vật: dầu đỗ tương (đậu nành), vừng, oliu để
tiêm truyền nhằm cung cấp acid béo và năng lượng cơ thể.
Kích thước của pha dầu phải đường kính khoảng 0,5 µm (< 1 µm không
tiểu phân nào > 1 µm)
Chất nhũ hóa mạnh, không độc, chuyển hóa dễ trong thể như lecithin đã được loại
cephalin được hydrogen hóa để bão hòa acid béo hoặc polysorbat (tween) hay
polyglyceryl monooleat (demol), các dẫn chất của polypropylen với PEG (pluronic).

Preview text:

PHẦN LÝ THUYẾT
BÀI 1. KỸ THUẬT HÒA TAN VÀ KỸ THUẬT LỌC
I. KỸ THUẬT HÒA TAN 1. Định nghĩa
Hòa tan là sự phân tán một hay nhiều chất vào trong một dung môi hoặc hỗn hợp
dung môi trong những điều kiện nhất định.
Hòa tan chiết xuất là một quá trình kỹ thuật dùng dung môi để hòa tan và tách các
chất tan ra khỏi dược liệu. Đây là quá trình hòa tan không hoàn toàn.
2. Các phương pháp hòa tan
2.1. Hòa tan thông thường
Áp dụng khi dược chất dễ tan ở nhiệt độ thường hoặc bền ở nhiệt độ cao.
Thí dụ: hòa tan natri clorid, glucose trong nước…
2.2. Hòa tan đặc biệt
Áp dụng khi dược chất khó tan trong dung môi sử dụng nhưng tan khi dùng:
 Phương pháp dùng hỗn hợp dung môi có thành phần và tỷ lệ thích hợp.
 Phương pháp tạo dẫn chất dễ tan.
 Phương pháp dùng chất trung gian thân nước.
 Phương pháp dùng chất diện hoạt làm tăng độ tan. Ví dụ:
Hòa tan iod vào nước nhờ chất trung gian hòa tan là kali iodide.
Dùng Natri benzoat hòa tan cafein.
Dùng Tween 20 để hòa tan các tinh dầu.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hòa tan
 Bản chất chất tan và dung môi: chất có nhiều nhóm thân nước tan trong dung
môi phân cực và ngược lại.
 Diện tiếp xúc giữa chất tan và dung môi càng lớn thì sự hòa tan càng nhanh.
 Khi nhiệt độ tăng, độ tan tăng (ngoại trừ calci glycerophosphat, calci citrat…độ
tan giảm khi nhiệt độ giảm). Các chất dễ bay hơi (tinh dầu…) hoặc không bền
với nhiệt (natri hydrocarbonat) cần hòa tan ở nhiệt độ phòng.
 Áp suất trên bề mặt của dung môi cũng có ảnh hưởng đến quá trình hòa tan.
 Các chất trung gian làm tăng độ tan bằng những cơ chế khác nhau. Thí dụ: natri
salicylat và natri benzoat giúp cafein hòa tan dễ dàng trong nước.
 Ngoài ra còn có các yếu tố khác như pH, tạo dòng xoáy, siêu âm… II. KỸ THUẬT LỌC 1. Định nghĩa
Lọc là một thao tác cơ học để tách riêng các pha trong một hệ dị thể khi bào chế
dung dịch thuốc. Mục đích của quá trình lọc là làm trong hoặc vô khuẩn dung môi, dung dịch, khí.
Vật liệu dùng để lọc
Loại vật liệu
Đặc tính và sử dụng Tiệt khuẩn Nhiệt ẩm Bông thấm nước, vải
Lọc dịch chiết và dung dịch keo Giấy lọc Lọc dung dịch Nhiệt ẩm
Màng cellulose acetat/ nitrat Lọc dung dịch nước
Màng cellulose tái tổ hợp (RC), Lọc dung dịch nước hoặc dung môi polytetrafluoroethylen (PTFE) hữu cơ Nhiệt khô, nhiệt Thủy tinh xốp ẩm G-1 (100-120 m) Lọc thô G-2 (40-50 m) Lọc dung dịch G-3 (20-30 m) Lọc dung dịch nhỏ mắt G-4 (5-10 m) Lọc dung dịch tiêm G-5 (1-1,5 m) Lọc vô khuẩn
Các phương pháp và thiết bị lọc
Lọc do chênh lệch áp suất thủy tĩnh. Áp dụng với vật liệu lọc là bông, vải, giấy lọc
với giá đỡ là phễu thủy tinh.
Lọc áp suất giảm (lọc hút chân không): tạo chân không ở phía dưới phễu lọc.
Lọc áp suất cao (lọc nén): tạo áp suất phía trên phễu lọc.
Một số điểm cần lưu ý khi lọc
 Cho vật liệu lọc vào phía trong của phễu một cách cẩn thận.
 Khi rót dịch lọc vào phễu cần gạn, rót từ từ, tốt nhất là qua đũa thủy tinh vào thành phễu.
 Khi lọc các chất lỏng bay hơi cần đậy kín phễu.
 Thường gạn lọc sơ bộ kết tủa trước khi cho vào phễu để lọc trong hoặc lọc vô khuẩn.
 Với màng lọc: cần kiểm tra tình trạng nguyên vẹn của màng, thấm ướt màng lọc
bằng dung môi trước khi lọc.
BÀI 2. KỸ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC NHŨ TƯƠNG I. ĐẠI CƯƠNG 1. Định nghĩa 1.1. Nhũ tương
Nhũ tương là một hệ phân tán vi dị thể gồm 2 pha lỏng không đồng tan
vào nhau, trong đó một pha lỏng gọi là pha phân tán được phân tán
đồng nhất dưới dạng giọt mịn trong một pha lỏng khác gọi là môi trường phân tán.
1.2. Nhũ tương thuốc
Theo DĐVN, nhũ tương thuốc gồm các dạng thuốc lỏng hoặc mềm để uống, tiêm,
dùng ngoài; được điều chế bằng cách dùng tác dụng của các chất nhũ hóa thích hợp để
trộn đều 2 chất lỏng không đồng tan được gọi một cách quy ước là dầu và nước
2. Thuật ngữ quy ước
 Pha Nước (tướng Nước) chỉ chất lỏng phân cực.
 Pha Dầu (tướng Dầu) chỉ chất lỏng không phân cực hoặc rất ít phân cực.
 Pha phân tán, pha nội, tướng nội, tướng phân tán hoặc pha không liên tục là chất lỏng
ở trạng thái phân tán thành giọt mịn.
 Pha ngoại, tướng ngoại, môi trường phân tán hoặc pha liên tục là chất lỏng chứa
đựng chất lỏng phân tán.
3. Thành phần chính của nhũ tương
Pha nội + pha ngoại + chất nhũ hóa hoặc dầu + nước + chất nhũ hóa.
Trong các nhũ tương thuốc: 
Pha Dầu: bao gồm tất cả các dược chất và chất dẫn hoặc tá dược không phân cực
hoặc rất ít phân cực như các loại dầu, mỡ, sáp, tinh dầu, nhựa, các dược chất hòa tan được trong dầu… 
Pha Nước: bao gồm các chất lỏng phân cực như nước thơm, nước sắc, nước hãm,
ethanol, glycerin…và các dược chất hoặc chất phụ dễ hòa tan trong các chất lỏng trên. 
Chất nhũ hóa: trong đa số các trường hợp, để giúp cho nhũ tương hình thành và
có độ bền nhất định thường cần đến những chất trung gian đặc biệt được gọi là chất nhũ hóa.
Khi nồng độ pha phân tán < 0,2% có thể không dùng chất nhũ hóa, từ 0,2 – 2% có
thể ổn định bằng cách tăng độ nhớt; > 2% phải dùng chất nhũ hóa thì nhũ tương mới bền. 4. Kiểu nhũ tương
Các kiểu nhũ tương đơn giản gồm 2 pha. Tùy theo môi trường phân tán là nước
hay dầu có 2 kiểu được gọi quy ước là:
+ Nhũ tương dầu trong nước viết là D/N (O/W hoặc H/E).
+ Nhũ tương nước trong dầu viết N/D (W/O hoặc E/H). 
Nhũ tương kép được điều chế bằng cách phân tán một nhũ tương vào trong một
môi trường phân tán khác. Ví dụ, nhũ tương D/N/D có thể xem là một nhũ tương N/D
mà bản thân các giọt nước đã chứa cá giọt dầu nhỏ hơn trong đó. 
Kiểu nhũ tương được hình thành phụ thuộc chủ yếu vào độ tan tương đối trong
các pha của chất nhũ hóa. Theo quy tắc Bancroft, chất nhũ hóa tan trong pha nào thì pha
đó sẽ trở thành tướng ngoại. Như vậy, các polymer thân nước và các chất diện hoạt thân
nước tạo nhũ tương D/N, các chất diện hoạt thân dầu tạo nhũ tương N/D.
(1) (2) (3) (4) Các kiểu nhũ tương (1)
N/D/N; (2) D/N/D (3) D/N; (4) N/D;
5. Phân loại nhũ tương
5.1. Theo kiểu nhũ tương
 Nhũ tương thuốc kiểu D/N: pha phân tán là pha dầu và môi trường phân tán là pha nước.
 Nhũ tương kiểu N/D: pha phân tán là pha nước và môi trường phân tán là pha dầu.
 Nhũ tương kép N/D/N: pha phân tán là một nhũ tương N/D và môi trường phân tán là nước.
 Để nhận biết kiểu nhũ tương, có thể xác định bằng các phương pháp:
+ Pha loãng: lấy một giọt nước cất vào một lượng nhỏ nhũ tương dựng trên một lam
kính. Nếu thấy giọt nước khuếch tán nhanh chóng vào khối nhũ tương và nhũ tương vẫn
giữ nguyên tính đồng nhất thì nhũ tương đem thử là kiểu nhũ tương D/N. Nếu giọt nước
vẫn đọng thành khối riêng trên bề mặt của nhũ tương thì đó là nhũ tương kiểu N/D. +
Nhuộm màu: chất màu được sử dụng tan trong pha nào của nhũ tương pha đó sẽ có màu,
pha thứ hai sẽ hoàn toàn không màu. Trên nguyên tắc này có thể dùng các chất màu tan
trong nước hoặc trong dầu pha vào nhũ tương rồi quan sát trên kính hiển vi để xác định kiểu nhũ tương.
+ Đo độ dẫn điện: dựa trên nguyên tắc pha nước của nhũ tương (đặc biệt là khi có các
chất điện ly) dẫn điện, còn pha dầu không dẫn điện. Nhũ tương cho dòng điện chạy qua
thì môi trường phân tán của nhũ tương là nước.
5.2. Theo nguồn gốc
 Nhũ tương thiên nhiên: gồm các sản phẩm có sẵn trong thiên nhiên dưới dạng nhũ
tương (sữa, lòng đỏ trứng) và các nhũ tương chế từ các hạt có dầu như hạnh nhân, lạc, bí...
 Nhũ tương nhân tạo: là các nhũ tương được điều chế bằng cách dùng chất nhũ hóa
thích hợp để phối hợp hai pha dầu và nước thành nhũ tương.
5.3. Theo nồng độ pha phân tán
 Nhũ tương loãng: gồm những nhũ tương có nồng độ pha phân tán < 2%.
 Nhũ tương đặc: gồm những nhũ tương có nồng độ pha phân tán > 2%. Đa số các nhũ
tương thuốc là nhũ tương đặc có nồng độ pha phân tán 10 – 50%.
Về lý thuyết, pha phân tán có thể chiếm tỷ lệ lên đến 74% thể tích đối với nhũ tương
D/N nếu chọn được chất nhũ hóa thích hợp.
5.4. Theo kích thước pha phân tán
 Vi nhũ tương: có kích thước các tiểu phân phân tán nhỏ gần bằng tiêu phân keo
(khoảng 10 – 100 nm) nên nhìn bề ngoài, vi nhũ tương trong suốt hay trong mờ.
 Nhũ tương mịn: có các tiểu phân pha phân tán cỡ 0,5 – 1 m.
 Nhũ tương thô: có các tiểu phân có kích thước từ vài micromet trở lên. 
5.5. Theo đường sử dụng
 Nhũ tương tiêm, truyền: tiêm bắp có thể dùng 2 kiểu nhũ tương D/N và N/D. Tiêm
tĩnh mạch chỉ dùng kiểu nhũ tương D/N. Truyền tĩnh mạch với liều lớn các nhũ tương
cung cấp năng lượng phải là kiểu nhũ tương D/N, có kích thước tiểu phân pha phân
tán nhỏ hơn 0,5 m để tránh gây tắc mạch. Không được tiêm nhũ tương thuốc trực
tiếp vàocột sống bất kể nhũ tương đó là D/N hay N/D.
 Nhũ tương uống: chỉ uống các nhũ tương kiểu D/N (nhũ tương N/D có mùi vị khó
chịu rất khó uống). Các nhũ tương uống thường là các potio – nhũ tương, trong thành
phần có mặt của các chất điều vị, điều hương.
 Nhũ tương dùng ngoài: dùng để xoa, bôi, đặt lên da và niêm mạc được dùng cả 2
kiểu D/N và N/D. Nhũ tương D/N dễ rửa sạch và không gây bẩn quần áo hơn.
6. Ưu nhược điểm 6.1. Ưu điểm
Cho phép phối hợp dễ dàng các dược chất lỏng không đồng tan hoặc các dược
chất rắn chỉ tan trong một loại dung môi. 
Làm cho dược chất phát huy tốt hơn tác dụng điều trị vì dưới dạng nhũ tương,
dược chất thường đạt độ phân tán cao và đồng nhất, khi sử dụng sẽ có diện tích tiếp xúc
lớn với các tổ chức của cơ thể. 
Đối với thuốc uống nhũ tương kiểu D/N, cho phép phối hợp các chất thân nước
với các dược chất không tan trong nước như các loại dầu và nhiều dược chất không phân
cực khác, phát huy tác dụng tốt của thuốc do chúng dễ được hấp thu hơn, che giấu mùi
vị khó chịu, giảm kích ứng của dược chất đối với niêm mạc tiêu hóa. 
Đối với thuốc tiêm nhũ tương D/N, có thể chế được thuốc tiêm chứa các dược chất
không tan hoặc rất ít tan trong nước dưới dạng thuốc tiêm tĩnh mạch. 
Thuốc mỡ, thuốc xoa chế dưới dạng nhũ tương có thể dễ dàng phối hợp nhiều loại
dược chất khác nhau với các tá dược thành các chế phẩm đồng nhất, có thể chất mềm,
mịn màng, có tác dụng dịu đối với da, niêm mạc, ít gây nhờn, bẩn da và quần áo, đồng
thời có thể điều khiển được tác dụng của thuốc trên bề mặt da, niêm mạc, hoặc tác dụng
sâu ở các tổ chức dưới da bằng cách bào chế thành nhũ tương D/N hoặc N/D. 
Đối với thuốc đạn, thuốc trứng chế dưới dạng nhũ tương có thể dễ dàng phối hợp
đồng đều nhiều loại dược chất khác nhau với các tá dược, làm thành viên có độ bền cơ
học đảm bảo, viên dễ tan rã, đảm bảo sự giải phóng hấp thu dược chất tốt khi đặt thuốc
vào các hốc của cơ thể. Riêng đối với thuốc đạn có thể làm cho thuốc chỉ tác dụng tại
chỗ đặt hoặc gây tác dụng toàn thân bằng cách chế thành nhũ tương D/N hoặc N/D. 6.2. Nhược điểm
Nhũ tương là hệ phân tán cơ học, không đồng thể nên không bền, dễ bị tách lớp
trong quá trình bảo quản. 
Việc phân liều nhũ tương thuốc sẽ không đảm bảo chính xác khi nhũ tương bị tách pha.
7. Ứng dụng của nhũ tương trong ngành Dược
 Dùng đưa thuốc qua đường uống, qua da và qua trực tràng khi dược chất là dầu hoặc
dược chất tan trong dầu dưới dạng bào chế có nồng độ, hàm lượng thích hợp.
 Làm cho thuốc dễ uống khi dược chất là dầu vì làm giảm tính nhờn và che dấu vị
khó chịu của dầu. Ví dụ, nhũ tương dầu gan cá, nhũ tương dầu parafin, nhũ tương
dầu thầu dầu,…Nhũ tương dùng đường uống phải là kiểu D/N.
 Gia tăng sự hấp thu của dầu và các dược chất tan trong dầu tại thành ruột non.
 Kiểu nhũ tương dùng đường tiêm phụ thuộc vào đường cho thuốc và mục đích trị
liệu. Kiểu D/N có thể được sử dụng cho mọi đường tiêm, kiểu N/D chỉ dùng tiêm
bắp hoặc dưới da để cho tác dụng kéo dài.Ví dụ, nhũ tương tiêm bắp của một số
vaccin có tác dụng kéo dài làm tăng cường đáp ứng kháng thể, kéo dài thời gian miễn dịch.
 Các chế phẩm dinh dưỡng toàn thân dùng qua đường tiêm dưới dạng nhũ tương. Các
nhũ tương vô trùng được chỉ định để đưa các chất béo, carbohydrat và vitamin vào
cơ thể bệnh nhân suy nhược. Vài nhũ tương D/N hiện đang lưu hành trên thị trường
với tiểu phân phân tán có kích thước trong khoảng 0,5 – 2 mm, tương tự như kích
thước của các vi dưỡng trấp (là các tiểu phân béo thiên nhiên có trong máu).
 Các thuốc dùng ngoài là các dạng bào chế ứng dụng cấu trúc nhũ tương nhiều nhất.
Cả hai loại nhũ tương N/D và D/N đều được sử dụng cho các thuốc dùng ngoài do
khả năng dẫn thuốc qua da tốt (làm tăng hiệu quả trị liệu của chế phẩm).
 Đôi khi các dược chất hoặc tá dược được điều chế thành dạng nhũ tương ở nồng độ
thích hợp để tiện bảo quản như nhũ tương Chloroform B.P. hoặc nhũ tương tinh dầu bạc hà B.P.
8. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và bền vững của nhũ tương
Sự lên bông: sự liên kết yếu giữa các giọt chất lỏng pha phân tán nhưng vẫn ngăn
cách nhau bởi một lớp mỏng của pha liên tục, nhũ tương có thể trở về trạng thái phân tán
đều khi lắc. Sự lên bông có thể khơi mào cho sự kết dính. 
Sự nổi kem hay sự lắng cặn: các giọt của pha phân tán hay khối kết bông bị tách
ra dưới ảnh hưởng của trọng lực tạo thành một lớp nhũ tương có nồng độ đậm đặc ở phía
trên (sự nổi kem) hoặc phía dưới (sự lắng cặn). 
Sự kết dính: các giọt của pha phân tán kết dính thành giọt có kích thước lớn hơn
giọt ban đầu và nếu tiếp tục sẽ dẫn đến sự tách pha. Nếu có sự kết dính, nhũ tương bị phá
vỡ hoàn toàn và không hồi phục được. 
Ngoài các hiện tượng trên còn có hiện tượng đảo pha. Nguyên nhân của hiện tượng
đảo pha thường là do sự tương tác của các thành phần trong công thức làm phá vỡ hoặc
thay đổi tính chất của chất nhũ hóa. 
Hệ thức Stokes dùng để tính vận tốc tách ra của các tiểu phân phân tán, cho phép
xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến sự bền vững của nhũ tương.
V: vận tốc tách ra của các tiểu phân pha phân tán (cm/s).
R: bán kính của các giọt chất lỏng
(cm). d1 – d2: hiệu số tỷ trọng giữa hai
pha. η: độ nhớt của môi trường phân
tán. g: gia tốc trọng trường (980 cm/s).
Sự quan trọng của gia tốc trọng trường được ứng dụng trong việc theo dõi nhanh độ
ổn định của nhũ tương bằng phương pháp ly tâm để gia tốc sự tách lớp.
Nhũ tương càng bền khi vận tốc tách lớp càng nhỏ. 
Ảnh hưởng do chênh lệch tỷ trọng của 2 pha: nhũ tương càng bền khi sự chênh
lệch tỷ trọng giữa 2 pha càng nhỏ.
Ví dụ: lắc dầu hướng dương với ethanol 60% sẽ cho nhũ tương bền do tỷ trọng của
dầu hướng dương và của ethanol 60% tương đương nhau. Tuy nhiên, khi lắc dầu hướng
với nước hay bromoform với nước thì nhũ tương thường không vững bền do sự chênh
lệch tỷ trọng đáng kể giữa hai pha. Giải quyết trong pha chế
Tăng tỷ trọng của môi trường phân tán của nhũ tương D/N bằng cách thêm vào
môi trường phân tán các chất có tỷ trọng lớn hơn nước như kết hợp với các chất có tác
dụng làm ngọt, làm tăng độ nhớt. Tuy nhiên, biện pháp này không làm tăng tỷ trọng được nhiều. 
Giảm tỷ trọng của pha phân tán của nhũ tương D/N khi pha phân tán có tỷ trọng
lớn như trường hợp của bromoform. Bromoform có tỷ trọng 2,8. Rất khó phân tán
bromoform vào nước do sự chênh lệch tỷ trọng giữa hai pha quá lớn. Do đó bromoform
được hòa tan trong lượng dầu thích hợp để làm giảm tỷ trọng của pha dầu xuống.
 Ảnh hưởng do kích thước tiểu phân của pha phân tán:
+ Nhũ tương bền khi kích thước tiểu phân của pha phân tán nhỏ. Khi tiểu phân có kích
thước lớn, vận tốc tách lớp xảy ra nhanh hơn dẫn đến hiện tượng lắng cặn (lắng xuống
đáy) hay hiện tượng kết bông, hai hiện tượng trên có thể khơi mào cho sự tách pha dễ dàng hơn.
+ Trong điều chế pha nội được phân tán bằng tác dụng của lực cơ học. Lực phân tán lớn
tác động trong thời gian thích hợp làm cho kích thước tiểu phân pha nội càng nhỏ và
đồng đều. Tuy nhiên, sức căng liên bề mặt giữa 2 pha lớn cũng cản trở quá trình phân tán.
 Ảnh hưởng do độ nhớt của môi trường phân tán:
+ Nhũ tương càng bền khi độ nhớt của môi trường phân tán càng lớn. Độ nhớt lớn làm
cho sự chuyển động của tiểu phân pha phân tán giảm xuống, sự va chạm giữa các tiểu
phân và sự kết hợp thành giọt lớn hơn sẽ được giảm thiểu, điều này giải thích các nhũ
tương lỏng kém bền hơn các dạng thuốc mỡ, đạn, trứng có thể chất đặc sệt kiểu nhũ tương.
+ Để làm tăng độ nhớt của pha ngoại khi pha chế các nhũ tương D/N thường sử dụng
các chất làm tăng độ nhớt như siro, glycerin, PEG, các gôm, thạch, dẫn chất, cellulose,
các chất rắn dạng hạt rất nhỏ như bentonit…Đối với nhũ tương N/D dùng các xà phòng
stearat kim loại…vừa làm chất nhũ hóa làm tăng độ nhớt của pha ngoại.
 Ảnh hưởng của sức căng liên bề mặt giữa 2 pha lỏng không đồng tan:
+ Khi phân tán để phân chia một pha lỏng thành các tiểu phân có kích thước nhỏ trong
môi trường không đồng tan làm cho diện tích bề mặt tiếp xúc giữa 2 pha tăng lên, năng
lượng tự do bề mặt của hệ thống cũng tăng tương ứng theo.  = .S
: năng lượng bề mặt tự do (N.m).
: Sức căng liên bề mặt (N/m).
S: diện tích liên bề mặt (m2).
+ Sự tăng năng lượng tự do bề mặt làm tăng tính bất ổn định về mặt động học của hệ
phân tán. Để đạt được trạng thái bền hệ cần có năng lượng tự do tối thiểu do đó cân bằng
của hệ sẽ đạt được khi =0. Theo phương trình trên điều này có thể đạt được bằng cách
giảm sức căng liên bề mặt () hoặc giảm diện tích tiếp xúc bề mặt (S). Để giảm diện tích
bề mặt, các giọt có khuynh hướng co lại thành hình cầu và khi gần nhau, các giọt chất
lỏng có khuynh hướng kết tụ lại để giảm diện tích bề mặt trong khi sức căng bề mặt
không thay đổi. Sự kết tụ sẽ tiếp tục xảy ra cho đến khi diện tích tiếp xúc bề mặt giữa 2
pha thu lại như ban đầu, dẫn đến sự tách pha hoàn toàn.
Vì vậy để nhũ tương được bền vững ở mức độ phân tán đạt được, phải làm giảm sức căng
bề mặt tiếp xúc giữa 2 pha bằng tác dụng của các chất nhũ hóa.
 Ảnh hưởng do tỉ lệ của pha phân tán:
+ Nhũ tương càng bền khi nồng độ của pha phân tán càng nhỏ. Ví dụ nhũ tương điều
chế với 0,2 ml dầu trong 1000 ml nước sẽ bền hơn nhũ tương điều chế với 2 ml dầu trong 1000 ml nước.
+ Trong thức tế, các nhũ tương thuốc là nhũ tương đặc, tỷ lệ pha phân tán chiếm từ 2 –
50% nên khi điều chế phải có chất nhũ hóa thích hợp.
Ảnh hưởng của chuyển động Brown: chyển động Brown là kết quả lực đẩy của các
phân tử môi trường phân tán trên những tiểu phân của pha phân tán. Chuyển động này
làm thay đổi hướng chuyển động bình thường các tiểu phân (quá trình xích lại gần nhau
của các tiểu phân để đạt tới cân bằng) làm các tiểu phân này rời xa những vị trí tự nhiên
trong cân bằng, chống lại khuynh hướng kết hợp lại, do đó giúp nhũ tương ổn định hơn.
 Ảnh hưởng của chất nhũ hóa: chất nhũ hóa vừa giúp phân tán để tạo thành nhũ tương
ở giai đoạn bào chế, vừa giúp cho nhũ tương ổn định trong suốt quá trình bảo quản.
 Ảnh hưởng do thời gian phân tán và cường độ của lực gây phân tán:
+ Cần xác định thời gian tối ưu cho quá trình nhũ hóa (thường nằm trong khoảng 1-5 phút).
+ Trong điều kiện bình thường, kích thước các tiểu phân phân tán giảm đi rất nhanh
trong những giây ban đầu và dần đạt đến giá trị tới hạn sau 1 – 5 phút. Trong giai đoạn
này, sự phân tán chiếm ưu thế, sau đó là giai đoạn cân bằng giữa quá trình phân tán và
quá trình ngưng tụ. Nếu vượt quá thời gian tối ưu thì sự tiêu hao năng lượng không cần
thiết và chất lượng nhũ tương cũng không tốt hơn.
+ Cường độ lực gây phân tán càng lớn thì nhũ tương càng dễ hình thành trong thời gian ngắn.
 Ảnh hưởng của nhiệt độ, pH và các chất điện giải:
+ Trong quá trình điều chế nhũ tương, cần kiểm soát nhiệt độ hỗn hợp một cách thích
hợp vì nhiệt độ tăng làm giảm sức căng liên bề mặt và độ nhớt tạo điều kiện cho sự nhũ
hóa nhanh hơn và dễ hơn. Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp sẽ đưa đến sự ngưng tụ các
tiểu phân làm giảm chất lượng của nhũ tương.
+ Mỗi chất nhũ hóa ổn định trong một khoảng pH thích hợp, do đó cần chú ý đến pH
của chế phẩm hoặc thay đổi chất nhũ hóa.
+ Các chất điện giải nồng độ cao có thể làm tách lớp nhũ tương trong khi điều chế hay
trong thời gian bảo quản.
II. THÀNH PHẦN CỦA NHŨ TƯƠNG THUỐC 1. Pha dầu
Bao gồm các chất không phân cực tan trong dầu:
 Các dược chất tan trong dầu: bromoform, menthol, vitamin A, D, E…
 Các chất phụ tan trong dầu: các chất chống oxy hóa như butyl hydroxy anisol (BHA),
butyl hydroxytoluen (BHT), isopropyl galat, tocoferol. Các chất làm thơm như các tinh dầu…
Dầu thực vật, dầu parafin, vaselin, parafin, các alcol béo, acid béo, sáp… 2. Pha nước
Bao gồm các chất phân cực là:
 Các dược chất tan trong nước hay các dung môi phân cực.
 Các chất bảo quản như nipagin với nồng độ từ 0,1 – 0,2%, nipasol với nồng độ từ
0,01 – 0,02%...dùng trong các nhũ tương thuốc uống. benzalkonium clorid với nồng độ
0,01% hoặc clocresol từ 0,1 – 0,2%...dùng trong các nhũ tương thuốc dùng ngoài. Đối
với các nhũ tương chế với các loại dầu dễ bị oxy hóa có thể cho thêm các chất chống oxy hóa thích hợp.
 Các chất làm ngọt, chất làm thơm, chất giữ ẩm…tan trong nước hay các dung môi phân cực.
 Các chất lỏng phân cực như nước, ethanol, glycerin…
3. Các chất nhũ hóa thường dùng trong bào chế nhũ tương thuốc
Các nhũ tương thuốc thường có nồng độ pha phân tán cao, muốn thu được nhũ tương
bền, trong thành phần của nhũ tương phải có các chất giúp nhũ tương hình thành và ổn
định, đó là các chất nhũ hóa. Chất nhũ hóa có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt phân
cách pha, làm giảm năng lượng tự do bề mặt làm cho nhũ tương dễ hình thành và ổn định.
Một số chất nhũ hóa còn làm tăng độ nhớt của môi trường phân tán giữ cho nhũ tương ổn định hơn.
3.1. Chất nhũ hóa thiên nhiên
Các hydrat carbon: hay dùng gôm arabic, gôm adragant, thạch…
 Gôm arabic: thường dùng làm chất nhũ hóa trong các potio nhũ tương tạo kiểu nhũ
tương D/N. Gôm arabic chỉ hòa tan hoàn toàn trong lượng nước gấp đôi lượng gôm,
khi đó nó mới có tác dụng nhũ hóa tốt. Gôm arabic có khả năng nhũ hóa nhanh cả
khi điều chế nhũ tương bằng dụng cụ thô sơ như chày cối.
 Gôm adragant: có độ nhớt thấp khoảng 50 lần độ nhớt của dung dịch gôm arabic có
cùng nồng độ. Vì thế, thường dùng gôm adragant làm chất ổn định phối hợp với gôm
arabic trong các nhũ tương thuốc để uống.
 Các saponin: thường dùng cồn thuốc (1/5) điều chế từ các dược liệu có saponin như
bồ hòn, bồ kết, quillaya, salsepareille để làm chất nhũ hóa cho các nhũ tương dùng ngoài.
 Các protein dùng làm chất nhũ hóa có gelatin, sữa, casein và các dẫn chất.
Các sterol: chất nhũ hóa điển hình trong các stertol là cholesterol có nhiều trong
lanolin (sáp lông cừu), trong mỡ lợn, dầu cá và lòng đỏ trứng; người ta cũng dùng các
acid mật như acid cholic, taurocholic, glycolic…làm chất nhũ hóa.
 Các phospholipid: điển hình là lecithin, có nhiều trong lòng đỏ trứng, trong đỗ
tương…không độc nên là chất nhũ hóa thích hợp cho nhũ tương tiêm.
3.2. Các chất nhũ hóa tổng hợp và bán tổng hợp
So với các chất nhũ hóa thiên nhiên, các chất nhũ hóa tổng hợp có tác dụng nhũ hóa
mạnh hơn, vững bền, ít bị ảnh hưởng của các yếu tố như pH, nhiệt độ, vi khuẩn, nấm nên
được sử dụng khá rộng rãi làm chất nhũ hóa, chất gây thấm trong bào chế các nhũ tương hay hỗn dịch thuốc.
3.2.1. Các chất diện hoạt
 Các chất diện hoạt là một nhóm lớn gồm rất nhiều chất. Các chất diện hoạt điển hình
là những hợp chất lưỡng thân, trong phân tử của chúng có chứa các nhóm thân nước và thân dầu.
 Các chất diện hoạt dùng trong dược phẩm gồm 4 phân nhóm:
+ Chất diện hoạt anion: là những chất trong phân tử có các nhóm thân nước mang điện
tích âm như nhóm carboxyl (RCOO-), sulfonat (RSO - -
3 ) hay sulfat (ROSO3 ). Các chất
thường dùng là muối natri hay kali hay calci của acid béo (các xà phòng), natri lauryl sulfat, kali laurat…
+ Chất diện hoạt cation: là những chất trong phân tử có các nhóm thân nước mang điện
tích dương như muối halogenid của amoni bậc 4 (R4N+X-). Các chất thường dùng có
cetrimid, benzalkonium clorid, ngoài tác dụng nhũ hóa, các chất này còn có tác dụng sát khuẩn.
+ Chất diện hoạt lưỡng tính: thực tế ít dùng trong bào chế nhũ tương thuốc. + Chất
diện hoạt không ion hóa: là những hợp chất có phần thân nước của phân tử không mang
điện nhưng nó vẫn có tính thân nước do chứa các nhóm chức có độ phân cực cao như
nhóm hydroxyl hay polyoxyethylen. Dùng nhiều trong bào chế là cetomacrogol (Brij),
các sorbital ether (Span) và các polysorbat (Tween)…Tên gọi các chất diện hoạt này
thường kèm theo một chỉ số, ví dụ: Tween 80, Tween 20, Span 60, Span 80,…
 Các chất diện hoạt dễ tan trong nước như xà phòng natri, Tween dùng cho nhũ tương
kiểu D/N, các chất diện hoạt dễ tan trong dầu như xà phòng calci. Span dùng cho
nhũ tương kiểu N/D. Nhưng cũng có thể dùng 2 chất nhũ hóa ngược pha nhau trong
cùng một công thức nhũ tương để thu được nhũ tương bền vững.
3.2.2. Các chất nhũ hóa ổn định
Các polyethylen glycol (PEG): dễ hòa tan trong nước và không phải là chất nhũ hóa
thực sự nhưng là chất ổn định tốt đối với nhũ tương thuốc. do có tính thân nước mạnh
nên có khả năng gây thấm biến dược chất rắn sơ nước thành thân nước nên hay được
dùng làm chất gây thấm trong bào chế các dạng hỗn dịch thuốc.
 Các alcol polyvinylic: là những sản phẩm trùng hợp cao phân tử của alcol vinylic, tan
trong nước và glycerin. Dung dịch trong nước có sức căng bề mặt thấp, pH gần trung
tính và độ nhớt thay đổi phụ thuộc vào nồng độ. Các alcol polyvinylic hay được dùng
làm chất gây thấm và chất nhũ hóa trong bào chế các hỗn dịch và nhũ tương thuốc uống, tiêm và dùng ngoài.
Các alcol polyvinylic rất thích hợp trong bào chế các nhũ tương, hỗn dịch và dung
dịch thuốc nhỏ mắt vì các chất này hoàn toàn trơ về mặt hóa học, có thể tiệt khuẩn được
và thích hợp với các niêm mạc mắt, giúp cho sự phục hồi nhanh chóng các tổn thương
về mắt và giữ cho thuốc tiếp xúc lâu hơn với niêm mạc mắt.
3.2.3. Các dẫn chất của cellulose
 Các dẫn chất của cellulose có nhiều tính chất giống với các chất keo thiên nhiên
nhưng có ưu điểm: tinh khiết, bền vững, ít bị tác dụng của vi khuẩn, nấm mốc, ít chịu
ảnh hưởng của nhiệt độ nên có thể tiệt khuẩn mà không bị hỏng.
 Do có các ưu điểm nói trên, các chất này hay được dùng làm chất nhũ hóa gây thấm
trong bào chế nhũ tương và hỗn dịch thuốc uống, tiêm hay dùng ngoài làm tá dược
trong thuốc viên, thuốc mỡ (kể cả thuốc mỡ tra mắt).
 Thường dùng methyl cellulose, hydroxymethyl cellulose, carboxymethyl cellulose,
natri carboxymethyl cellulose, carboxy polymethylen (carbopol)…
 Các loại dẫn chất này đều tan trong nước tạo ra dịch keo, có pH gần trung tính, có
độ nhớt tùy theo loại dần chất và nồng độ của nó trong dung dịch.
 Để hòa tan nhanh các dẫn chất của cellulose trong nước cần thấm ướt chúng với nước
nóng và để cho chúng trương nở trong một thời gian, sau đó mới khuấy trộn đều đến
khi thu được một dịch thể đồng nhất.
3.3. Các chất nhũ hóa rắn ở dạng hạt nhỏ
 Là những chất rắn dưới dạng bột rất mịn không tan trong nước và dầu. muốn có tác
dụng nhũ hóa, kích thước của các tiểu phân bột phải bé hơn rất nhiều lần kích thước
các tiểu phân pha phân tán của nhũ tương.
 Loại chất nào dễ thấm nước hơn dầu sẽ cho nhũ tương D/N, dễ thấm dầu hơn nước
sẽ cho nhũ tương N/D. Những chất khả năng thấm nước và dầu như nhau thì nếu trộn
chất nhũ hóa với pha nào trước thì pha đó sẽ là môi trường phân tán của nhũ tương.
 Một số chất thường dùng là bentonit, magnesi nhôm silicat (Veegum), hectorit. III.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHẾ NHŨ TƯƠNG
Để điều chế một nhũ tương đạt yêu cầu, cần lưu ý:
 Thiết bị và gây lực phân tán phải phù hợp với phương pháp điều chế nhũ tương. 
Điều chế ở nhiệt độ thích hợp. Trong trường hợp cần đun nóng chảy pha dầu để hòa
tan các chất trong dầu thì phải đun nóng pha nước ở nhiệt độ cao hơn pha dầu từ 3 – 50C.
Phối hợp các dược chất khi điều chế nhũ tương tuân theo những nguyên tắc sau:
 Các dược chất dễ tan trong pha nước được hòa tan trong pha nước.
 Các hoạt chất độc mạnh, để tránh nhầm lẫn và hư hao nên hòa tan trước vào một
lượng nhỏ nước hoặc dầu trước khi tiến hành phối hợp.
 Các hoạt chất tan trong dầu như camphor, bromoform, vitamin A, E…được hòa tan
vào pha dầu phải tăng lượng chất nhũ hóa thích hợp.
 Các thành phần tan trong pha nội phải hòa tan trong pha nội trước tiến hành nhũ hóa.
Các thành phần tan trong pha ngoại tùy ý từng trường hợp có thể phối hợp trước hay sau khi nhũ hóa.
 Các chất không tan trong nước, không tan trong dầu như muối bismuth được điều
chế dưới dạng hỗn – nhũ tương bằng cách nghiền mịn (khô) rồi nghiền ướt và pha
loãng với nhũ tương đã được điều chế.
Kỹ thuật điều chế các nhũ tương thuốc đã được mô tả bởi White: sự điều chế nhũ
tương được thực hiện bằng cách phân chia pha nội thành những giọt nhỏ và phân tán
chúng trong pha ngoại. Kỹ thuật này có thể được thực hiện bằng phương tiện đơn giản
như cối chày hoặc bằng máy trộn nhũ tương cao tốc. Chất nhũ hóa không những có vai
trò giúp làm giảm lực khuấy trộn mà còn giúp cho nhũ tương bền vững hơn.
Nhũ tương có thể được điều chế theo các phương pháp sau:
1. Thêm pha nội vào pha ngoại (phương pháp keo ướt)
 Là phương pháp thích hợp nhất thường áp dụng ở quy mô công nghiệp để điều chế nhũ tương.
Nguyên tắc: Chất nhũ hóa được hòa tan trong lượng lớn pha ngoại, sau đó thêm từ
từ pha nội vào, vừa phân tán đến khi hết pha nội và tiếp tục phân tán cho đến khi nhũ tương đạt yêu cầu.
Thiết bị gây phân tán: Là máy khuấy chân vịt, máy khuấy cánh quạt…Trong nhiều
trường hợp, máy khuấy hay máy trộn chỉ cho nhũ tương thô, kích thước của pha nội
không đồng đều. Vì vậy, phải cho nhũ tương thô qua máy làm mịn và làm đồng nhất
như máy xay keo, máy làm mịn ở áp suất cao hay có khe hẹp (máy đồng nhất hóa).
Ví dụ: Khi điều chế nhũ tương (D/N), các chất tan trong nước được hòa tan vào nước,
các chất trong dầu được phối hợp từng lượng nhỏ vào pha nước kèm theo lực phân tán
thích hợp. Đôi khi, để quá trình phân tán tốt, không được dùng tất cả nước để trộn với
chất nhũ hóa. Sau khi nhũ tương đã chứa dầu hình thành mới thêm lượng nước còn lại vào.
Dầu .................................................500 ml Gelatin A
.......................................................8 g Acid
tartric ....................................................0,6 g Chất tạo
mùi ........................................................vđ Ethanol
...................................................60 ml Nước
tinh khiết .........................................vđ 100 ml
Điều chế: cho gelatin và acid tartric vào khoảng 300 ml nước, để yên vài phút, đun
nóng đến khi gelatin hòa tan hoàn toàn, sau đó nâng nhiệt độ hỗn hợp đến 980C và duy
trì nhiệt độ này trong khoảng 20 phút. Để nguội đến 500C thêm chất tạo mùi, cồn và nước
để điều chỉnh đến 500 ml. Thêm dầu, phân tán thành nhũ tương đồng nhất. Điều chỉnh
thể tích, có thể chuyển qua máy đồng nhất hóa hoặc máy xay keo để xử lý cho đến khi đạt yêu cầu.
Nhũ tương này cũng có thể được điều chế bằng các thiết bị phân tán và khuấy trộn thông thường.
2. Thêm pha ngoại vào pha nội (phương pháp keo khô)
 Phương pháp này thích hợp để điều chế một lượng nhỏ tương bằng cối chày.
Nguyên tắc: Chất nhũ hóa ở dạng bột mịn được trộn với toàn bộ tướng nội, thêm
một lượng tướng ngoại vừa đủ và phân tán mạnh để tạo nhũ tương đậm đặc. Thêm
từ từ tướng ngoại còn lại vào và hoàn chỉnh nhũ tương.
 Phương pháp này áp dụng thuận lợi để điều chế nhũ tương D/N trong trường hợp
chất nhũ hóa thân nước là gôm arabic, adragant, hoặc methyl cellulose. Chất nhũ hóa
được trộn với dầu tạo một hệ phân tán nhưng không gây thấm ướt. Thêm nước vào
và phân tán thành nhũ tương đậm đặc D/N.
 Kỹ thuật keo khô là một phương pháp nhanh để điều chế một lượng nhỏ nhũ tương
D/N với chất nhũ hóa là gôm arabic. Tỷ lệ 4 dầu, 2 nước và 1 gôm là tỷ lệ để phân
tán pha dầu thành những giọt bằng cối chày. Tuy nhiên tỷ lệ này có thể được điều
chỉnh sao cho có một nhũ tương tốt, ví dụ tinh dầu, dầu parafin, dầu hạt lanh có thể
áp dụng tỷ lệ 3:2:1 hoặc 2:2:1 sau đó, nhũ tương được pha loãng và phân tán trong
nước đến nồng độ xác định.
 Nếu có sự phối hợp của nhiều loại dầu, lượng gôm tính được tính riêng cho từng loại và cộng lại. Ví dụ
Nhũ tương dầu khoáng
Dầu khoáng .................................................500 ml
Gôm arabic (bột rất mịn) ..................................125 g
Siro .................................................100 ml Vanilin
.....................................................40 g Ethanol
...................................................60 ml Nước tinh
khiết .......................................vđ 1000 ml
Điều chế: Trộn đều dầu khoáng và gôm arabic trong cối khô, thêm 250 ml nước và
đánh nhanh (một chiều) cho đến khi thu được nhũ tương đậm đặc. Thêm từ từ từng lượng
nhỏ, vừ thêm vừa khuấy, một hỗn hợp gồm siro, 50ml nước và cồn vanilin vào. Thêm
nước để điều chỉnh thể tích. Trộn đều hoặc chuyển qua máy đồng hóa.
3. Các phương pháp đặc biệt
3.1. Trộn lẫn 2 pha sau khi đun nóng
 Phương pháp này áp dụng trong hai trường hợp: trong công thức có sáp hoặc các
chất cần thiết đun chảy.
Nguyên tắc: Thành phần thân dầu, dầu và sáp được đun chảy thành hỗn hợp đồng
nhất thành phần tan trong nước được hòa tan và đun nóng ở nhiệt độ cao hơn một ít
so với pha dầu (3 – 5oC). Trộn đều 2 pha và phân tán cho đến khi nguội.
 Để thuận tiện, nhưng không bắt buộc, pha nước được đổ vào pha dầu.
 Phương pháp này thường dùng điều chế nhũ tương có thể đặc như các thuốc mỡ hay kem bôi da. Ví dụ
Kali hydroxid ..................................................0,75 g Acid stearic
.....................................................15 g
Glycerin .......................................................5 g Chất thơm
........................................................vđ
Chất bảo quản .......................................................vđ
Nước cất ..............................................vđ 100 g
Đun nóng để giảm độ nhớt 2 pha khi phân tán. Áp
dụng khi điều chế các nhũ tương có thể chất đặc như
trường hợp điều chế nhũ tương dầu hạt bông có kết
hợp với dược chất rắn là sulfadiazin tạo sản phẩm có
thể chất đặc có cấu trúc hỗn nhũ tương.
Dầu hạt bông ..................................................460 g
Sulfadiazin ...................................................200 g
Sorbitan monostearat .........................................84 g
Polyoxyethylen ..................................................20 g
Sorbitan monostearat .........................................36 g
Natrt benzoat .......................................................2 g Chất
làm ngọt ........................................................vđ
Hương liệu ........................................................vđ
Nước tinh khiết ..............................................1000 g
Quy trình điều chế công thức trên theo Rieger:
Đun nóng 3 thành phần đầu tiên đến 500C và nghiền qua máy xay keo(1).
Thêm hỗn hợp 4 thành phần liên tiếp theo (đã được đun nóng đến 500C) vào hỗn hợp
3 thành phần ở phần (1) đã được đun nóng đến 650C, vừa khuấy đều vừa để nguội đến 450C.
Thêm hương liệu và tiếp tục khuấy cho đến khi đạt đến nhiệt độ phòng.
3.2. Phương pháp xà phòng hóa trực tiếp
 Áp dụng khi chất nhũ hóa là xà phòng được tạo ra trực tiếp trong quá trình phân tán.
 Xà phòng hóa tạo ra chủ yếu do các phản ứng hóa học xảy ra trên bề mặt phân cách
pha do các acid béo tan trong tướng dầu và kiềm tan trong tướng nước.
 Tùy theo bản chất của xà phòng tạo ra mà có thể thu được nhũ tương kiểu D/N hay N/D. Ví dụ Dầu lạc thô
.....................................................20 g
Nước vôi nhì .....................................................20 g
Phương pháp tạo xà phòng thường cho nhũ tương rất bền vững và kích thước của
tiểu phân phân tán thường rất bé do nhũ hóa được tạo ra tập trung rất nhanh trên bề mặt
phân cách trong khi ở các phương pháp khác để đạt điều này cần qua quá trình phân tán.
3.3. Phương pháp dùng dung môi chung
 Áp dụng khi có một dung môi vừa hòa tan tướng nội, chất nhũ hóa, vừa đồng tan với
tướng ngoại và không có tác dụng dược lý riêng
 Phương pháp này hạn chế vì khó tìm được 1 loại dung môi phổ biến đạt các yêu cầu như trên
Nguyên tắc: dung môi hòa tan tướng nội và chất nhũ hóa thành dung dịch. Cho từng
ít một dung dịch vào pha ngoại và phân tán mạnh tạo ra những tiểu phân của pha nội
được bao lại bởi chất nhũ hóa. Vi dụ Créosot
.....................................................33 g Lecithin
.......................................................2 g Nước cất
..............................................vđ 100 g
Créosot, lecithin dễ tan trong ethanol 90% và ethanol lại hỗn hòa tan trong nước.
Dùng 10g ethanol hòa tan Créosot và lecithin trong lọ. Sau đó cho từng lượng nhỏ
dung dịch trên vào nước. Lắc mạnh tạo nhũ tương.
3.4. Nhũ hóa các tinh dầu vàc các chất dễ bay hơi
 Tinh dầu hoặc các chất dễ bay hơi thường có độ nhớt thấp, có thể được nhũ hóa bằng
cách lắc các thành phần trong lọ có nắp (Briggs’method hay bottle method, phương pháp
của Briggs hay phương pháp lắc chai).
 Briggs cho rằng lắc gián đoạn (để yên 30 giây) tốt hơn là lắc liên tục vì khi đó có đủ
thời gian cho sự hấp phụ và định hướng các chất nhũ hóa trên bề mặt tiếp xúc trước khi
các tiểu phân bị phân chia bởi lần lắc tiếp theo. IV.
VÍ DỤ MỘT SỐ NHŨ TƯƠNG
1. Nhũ tương thiên nhiên
Hạt bí ngô .....................................................10 g Nước
............................................vđ 100 ml
(Có thể thay phân nửa khối lượng hạt bằng đường kính) Hạt lạc
.......................................................5 g
Đường kính .......................................................5 g Nước
............................................vđ 100 ml
 Chất nhũ hóa là các albumin có sẵn trong hạt, chỉ cần giã nhỏ, hòa với nước là thu được nhũ dịch. 2. Potio nhũ tương
Bromoform .......................................................2 g
Natri benzoat .......................................................4 g
Codein phosphat................................................0,2 g Siro đơn
.....................................................20 g Nước cất
............................................vđ 100 ml
 Bromoform có tỷ trọng 2,8 rất cao so với nước, mùi vị khó uống, kích ứng niêm mạc,
không tan trong nước, vì vậy phải chế dưới dạng nhũ dịch D/N.
 Thêm một lượng dầu vào công thức để làm giảm tỷ trọng của pha dầu.
 Tính lượng gôm Arabic thêm vào công thức để nhũ hóa dầu.
 Áp dụng phương pháp keo khô để điều chế.
3. Nhũ tương dầu thuốc
Dầu parafin .................................................500 ml
Gôm Arabic .....................................................50 g
Gôm adragant ....................................................2,5 g Thạch
....................................................7,5 g
Tinh dầu chanh...................................................1 ml Vanilin
....................................................0,2 g
Natri benzoat ....................................................1,5 g Glycerin
...................................................50 ml Nước
.........................................vđ 1000 ml
 Pha dầu trong công thức chiếm tỷ lệ 50% và có tác dụng dược lý nên được gọi là nhũ tương dầu thuốc.
 Công thức này dùng phối hợp nhiều chất nhũ hóa với tỷ lệ thích hợp.
 Tùy số lượng nhũ tương cần điều chế và thiết bị thích hợp để chọn phương pháp điều
chế là phương pháp keo ướt hay phối hợp phương pháp keo ướt và keo khô.
4. Nhũ tương thuốc tiêm
 Điều chế từ chất béo như các dầu thực vật: dầu đỗ tương (đậu nành), vừng, oliu để
tiêm truyền nhằm cung cấp acid béo và năng lượng cơ thể.
 Kích thước của pha dầu phải có đường kính khoảng 0,5 µm (< 1 µm và không có tiểu phân nào > 1 µm)
 Chất nhũ hóa mạnh, không độc, chuyển hóa dễ trong cơ thể như lecithin đã được loại
cephalin được hydrogen hóa để bão hòa acid béo hoặc polysorbat (tween) hay
polyglyceryl monooleat (demol), các dẫn chất của polypropylen với PEG (pluronic).