TÌM HIU KHÁI NIM TI PHM N
NGUYỄN TRẦN NHƯ KHUÊ*
Tội phạm ẩn đã đang “âm thầm” gây ra thiệt hại cho nhân nói riêng hội nói
chung không bị phát hiện, xử lý. Sự tồn tại của tội phạm ẩn dẫn đến hệ qutả không
chính xác bức tranh tội phạm và nhầm lẫn trong việc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm
cũng như đánh ghiệu quả của hoạt động này. thế “tội phm n” thu hút sự quan tâm,
nghiên cứu của các nhà tội phạm học và các nhà hoạt động thực tiễn về phòng chống tội phạm.
Bài viết nêu lên sự cần thiết nghiên cứu tội phạm ẩn, các quan điểm của các nhà khoa học về
khái niệm tội phạm ẩn; từ đó tác giả đưa ra khái niệm hoàn thiện về tội phạm ẩn ý nghĩa
của nó trong Tội phạm học Việt Nam.
Từ khóa: Tội phạm ẩn, tội phạm chưa bị phát hiện, tội phạm chưa bị xử lý.
Ngày nhận bài: 20/06/2022; Biên tập xong: 27/06/2022; Duyệt đăng: 22/07/2022
Dark gure of crime have been “silently” causing damage to both individuals and society
without being detected and handled. Its existence leads to the inaccurate description of crime
situation, the confusion in crime prevention activities and in evaluation of this activity’s
eectiveness. Therefore, criminologists and practical activists on crime prevention have paid
much aention and research to it. This article raises the need to study dark gure of crime,
scientic views on its concept, then the author gives out a complete concept of dark gure of
crime and its meaning in Vietnamese Criminology.
Keywords: Dark gure of crime, undetected crime, unsolved crime.
ình hình tội phạm hiện tượng hội
tồn tại khách quan, vậy, việc nghiên
cứu về tình hình tội phạm để tìm ra
quy luật tồn tại, phát triển của
cần thiết để từ đó thtiến hành các biện
pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu
quả.
1. Sự cần thiết nghiên cứu tội phạm ẩn
Nhận thức về tình hình tội phạm, ngoài
những thuộc tính, dấu hiệu đặc trưng, các
nhà nghiên cứu còn quan tâm đến sự tồn tại
của tình hình hình tội phạm trên thực tế qua
việc đánh giá thực trạng, cấu, động thái
thiệt hại do tình hình tội phạm gây ra.
Trong đó, thực trạng tình hình tội phạm
nội dung thường được tiếp cận trước tiên,
phản ánh khía cạnh định lượng của tình
hình tội phạm. Về mặt luận, thực trạng
tình hình tội phạm được hiểu là tổng số các
tội phạm đã xảy ra số ợng người thực hiện
các tội phạm đó trong một khoảng thời gian nhất
1
Văn Quyền (2007), Tình hình tội phạm”, Giáo
trình tội phạm học, Trường Đại học Luật Nội,
Nxb. Công an nhân dân, tr. 98.
định một địa bàn nhất định
1
. Cấu trúc của
nó gồm hai bộ phận (phần) hợp thành:
+ Một là, những tội phạm đã bị phát hiện,
xử - trong tiếng Anh gọi “cleared
crimes” hay “solved crimes”, tiếng Việt
thường được các nhà tội phạm học gọi
“tội phạm rõ” hay “tội phạm hiện”.
+ Hai là, những tội phạm đã xảy ra
nhưng chưa bị phát hiện, xử lý. Theo các tài
liệu khoa học, người đầu tiên đưa ra thuật
ng để ch những tội phạm chưa bị phát
hiện xử Adolphe Quetelet, nhà thiên
văn học, toán học, hội học người Bỉ vào
năm 1830
2
, tiếng Anh “dark gure of
crime”, theo tiếng Việt thường gọi “tội
phm ẩn”. Ông cho rằng, nghiên cứu về
thực trạng của tình hình tội phạm không chỉ
dựa vào con số về tội phạm còn phải
dựa vào việc đánh giá về tội phạm ẩn, bởi số
liệu tội phạm chỉ phản ánh được phn
nào tình hình tội phạm.
T
Để đánh giá thực trạng tình hình tội
phạm, trước hết phải dựa vào số liệu tội
phạm rõ mà đã được các cơ quan chức năng
thống kê. Một số ớc, điển hình Mỹ
thường xuất
* Thạc sĩ, Nghiên cứu sinh, Giảng viên khoa Nhà
ớc pháp luật, Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí
Minh
2
Dương Tuyết Miên (2010), “Tình hình tội
phm”, Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Giáo dục
Việt Nam, tr. 83.
bản hàng năm số liệu thống về tội phạm
do Cục thống kê tư pháp (BJS) Cục Điều
tra liên bang (FBI) thu thập. Nguồn số liu
về tội phạm được lấy từ số liệu của cảnh
sát hoặc của các quan khác, thường
được do tội phạm xảy ra người chứng
kiến hoặc phát hiện ra tội phạm tội phm
đã được tường thuật, tố cáo với cảnh sát;
trên sở đó, quan thẩm quyền xử
hình sự đối với tội phạm và người phạm tội
đã bị phát hiện
2
. Báo cáo tội phạm chính
thức (UCR) của Mỹ giải thích tội phạm đó
trường hợp các quan áp dụng pháp
luật đã chính thức buộc tội một người vì tội
phạm họ đã thực hiện
3
.
Tuy nhiên, không phải mọi tội phạm
xảy ra đều bị phát hiện xử hình sự.
Thực tế, khá nhiều tội phạm đã xảy ra
nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau
nên không bphát hiện do vậy không bị
xử về hình sự. Theo nghiên cứu của các
nhà tội phạm học tư sản, số ợng tội phạm
chưa bphát hiện còn cao hơn nhiều so với
số tội phạm đã bị phát hiện, con số tội phm
phát hiện trong thống chỉ bằng 1/4 cho
đến 1/10 con số thực tế tội phạm đã xảy ra
(theo GS. TS. Tymothy Mason, số ợng tội
phm ẩn lớn hơn 06 đến 10 lần tội phạm
4
).
Như vậy, con số tội phạm đã bị phát hiện
bị xử lý chỉ phản ánh một phần của tổng thể
những tội phạm đã xảy ra. Còn số ợng tội
2
Dương Tuyết Miên (2010), tlđd chú thích 2, tr. 82.
3
Frank Schmalleger (2002), Criminology Today, The
University of North Carolina at Pembroke, Prentice
Hall Publisher, tr. 38
4
Timothy Mason (2006), Bài giảng “Ocial statistics
& the dark gure”, Paris University. Link:
phạm chưa bị phát hiện, x cũng cần
được quan tâm. Nếu ntội phạm đã bị
phát hiện, xử lý, thiệt hại đã được ngăn
chặn, khắc phục người phạm tội đã bị
trừng phạt, giáo dục thì tội phạm ẩn tỏ ra
nguy hiểm hơn bởi các lý do:
- Tội phạm xảy ra nhưng lại không
được phát hiện và xlý, vì thế tội phạm vẫn
tiếp tục gây ra thiệt hại chưa biện
pháp kiểm soát, ngăn chặn khắc phục
hậu quả.
- Tội phạm ẩn sẽ tạo điều kiện cho tội
phạm các tổ chức tội phạm khác hình
thành phát triển, làm cho tình hình tội
phạm trở nên nghiêm trọng hơn.
- Tình trạng ẩn của tội phạm làm cho
người phạm tội coi thường pháp luật và gây
ra tâm lo sợ, mất lòng tin của nhân dân
vào quan bảo vệ pháp luật; đồng thời
cũng gây kkhăn cho Nhà nước trong việc
đưa pháp luật vào cuộc sống.
- Tội phạm ẩn làm cho quan nhà
ớc thẩm quyền nhận thức sai về tình
hình tội phạm nói chung tình hình tội
phm ẩn nói riêng. Từ đó, dự báo tội phạm
không chính xác, xây dựng kế hoạch, biện
pháp phòng ngừa tội phạm không phù hp.
Vì vậy, tình hình tội phạm ẩn từ lâu đã
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
tội phạm học trên thế giới và ở Việt Nam.
2. Một số quan điểm về khái niệm “tội
phm n”
Tuy nhiên, quan niệm về tội phạm n
ờng như vẫn chưa sthống nhất.
thể nêu một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nht, “Tội phạm n
những tội phạm thực nhưng không được
ờng thuật với cảnh sát”
5
. Theo nghĩa Tiếng
Việt, “tường thuật” nghĩa kể lại, thuật
lại thật ràng, tường tận
6
. “Những tội
phạm thực nhưng không được tường
hp:/www. deviance 2-ocial statistics & the dark
gure.htm
5
Timothy Mason (2006), tlđd chú thích 5.
6
Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt,
Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 1769.
thuật với cảnh sát” được hiểu là tội phạm đã
xảy ra nhưng không được báo cho cảnh sát
biết. Nếu quan niệm tội phạm ẩn những
tội phạm thực nhưng không được tường
thuật (báo cáo - report) với cảnh sát thì chưa
đầy đủ. Bởi lẽ, việc thông tin tội phạm đưc
báo cho cơ quan thẩm quyền chưa đủ để
xác định tội phạm cần phải gắn với
hoạt động phát hiện (chứng minh) tội phạm.
Do đó, tội phạm ẩn không chỉ thông tin tội
phạm không được báo hoặc “đưa đến đúng
địa chỉ” của cơ quan có thẩm quyền khởi tố
vụ án hình sự
7
chính xác hơn tội phm
không bị phát hiện. Mặt khác, quan điểm
này không đề cập đến trường hợp tội phạm
đã được báo cho cảnh sát nhưng không bị
xử theo quy định của pháp luật hình sự,
tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ hai, “Tội phạm n số
ợng lớn tội phạm không được tường thuật với
cảnh sát không trong thống hình sự
chính thức”
8
. Quan điểm này đưa thêm dấu
hiệu “không trong thống hình sự chính
thức” để xác định tội phạm ẩn. Nếu tội
phạm chưa được báo (tường thuật) cho cảnh
sát thì đương nhiên sẽ không được thống kê.
Như vậy, trước hết chỉ cần dấu hiệu tội
phạm “không được báo cho cảnh sát” thì s
đồng thời thỏa mãn dấu hiệu “không được
thống kê”. Giả sử trường hợp tội phạm
được báo cho cảnh sát nhưng do nào đó
không được thống kê thì vẫn được coi là tội
phm ẩn, tội phạm tuy được báo cho cảnh
sát nhưng không được nhận diện qua con s
thống kê. Quan điểm thứ hai về quan niệm
tội phạm ẩn rộng hơn quan điểm thứ nhất,
bao gồm hai trường hợp: Tội phạm không
được báo cho cảnh sát tội phạm mặc
đã được báo cho cảnh sát nhưng không
được thống kê. Quan điểm này cũng có cách
diễn đạt tương tự: “Tội phạm ẩn thuật
7
Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội phạm học
của tình hình tội phạm ớc ta hiện nay, Luận án
tiến sĩ luật học, tr. 40.
8
Frank Schmalleger (2002), Criminology Today, The
University of North Carolina at Pembroke, Prentice
Hall Publisher, tr. 61.
9
“The dark gure of (or for) crime is a term employed
by criminologists and sociologists to describe the
ngđược đưa ra bởi các nhà tội phạm học
hội học tả số ợng tội phạm không
được ờng thuật hoặc không bphát hiện
trả lời cho câu hỏi về độ tin cậy của
thống tội phạm chính thức”
9
. Dấu hiệu tội
phạm “không b phát hiện” nghĩa
quan thẩm quyền không t mình phát
hiện ra tội phạm cũng giống như tội phạm
không được trình báo.
Quan điểm thứ ba, “Tội phạm n số
ợng tội phạm đã thực hiện trên thực tế nhưng
không được tường thuật với quan thm
quyền hoặc chưa bị phát hiện (một cách chính
thức) do vậy chưa bị đưa ra xét xử, chưa
trong thống hình s chính thc”
10
. Quan
điểm này mở rộng hơn phương diện
quan tiếp nhận thông tin tội phạm, không
chcơ quan cảnh sát mà là cơ quan thẩm
quyền nói chung. Tuy nhiên cũng cần giải
thích thêm quan nào được coi “có thẩm
quyền”. Mặt khác, tội phạm ẩn không chỉ có
dấu hiệu “không đượcờng thuật” hu
quả là chưa bị đưa ra xét xử và không được
thống kê. Quan điểm này cũng để lại những
băn khoăn khó giải thích. Ví dụ, tội phạm
bị đưa ra xét xử nhưng tuyên vô tội vẫn tồn
tại khả năng ẩn của tội phạm, hoặc tội
phạm tuy không bị đưa ra xét xử nhưng
được phát hiện xử bằng những quyết
định khác của quan tiến hành t tụng
không thể coi tội phạm ẩn? Nói chung, các
dấu hiệu của tội phạm ẩn được liệt định
nghĩa trên độc lập hay liên quan với
nhau không được xác định rõ ràng.
Quan điểm thứ tư, “Tội phạm n khái
niệm chỉ một phần trong tổng thể các tội phạm
đã xảy ra trong một thời gian trên một địa bàn
nhất định mà chưa được các cơ quan bảo vệ pháp
luật (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các
quan khác của công an chức năng tiếp nhận
amount of unreported or undiscovered crime, which
calls into
question the reliability of ocial crime statistics”
(hp://
en.wikipedia.org/wiki/Dark_gure_of_crime)
10
Dương Tuyết Miên (2010), tlđd chú thích 2,
tr.84.
tin tố giác và phát hiện tội phạm) phát hiện về sự
kiện nói chung hoặc chưa nhận biết được sự kiện,
hành vi đã phát hiện tội phạm”
11
. Ưu điểm
nổi bật của quan điểm này liệt được
những quan nào trách nhiệm tiếp nhận
thông tin tội phạm phát hiện tội phạm.
Tuy nhiên, quan điểm này không đề cập đến
dấu hiệu tội phạm “chưa bị xử lý”, do đó
vẫn tồn tại hạn chế như quan điểm thứ nhất.
Thật ra, tội phạm ẩn không chỉ tội phạm
không bị phát hiện còn tội phạm bị
phát hiện nhưng không bị xử lý.
Quan điểm thứ năm,“Tội phạm n
nghĩa toàn bộ các số tội phạm cụ ththực tế đã
xảy ra và số ng người thực hiện các tội phạm
đó chưa bị phát hiện xử về hình sự
vậy không trong thống hình sự”
12
. Quan
điểm này bổ sung hai dấu hiệu đáng lưu ý
so với các quan điểm trên: Một là, “ẩn người
phạm tội” trong khái niệm tội phạm ẩn; Hai
là, chưa bị xử lý về hình sự. Tuy nhiên, cách
diễn đạt chưa làm rõ được rằng chỉ cần một
trong số dấu hiệu đó thỏa mãn tội phạm
ẩn hay tội phạm ẩn phải có đủ ba dấu hiệu:
Tội phạm người phạm tội chưa bị phát
hiện; tội phạm chưa bị xử lý; tội phạm
không có trong thống kê hình sự.
Quan điểm thứ sáu, “Tình hình tội phạm
n là tổng thể các hành vi phạm tội cùng các chủ
thcủa những hành vi đó thực tế đã thực hiện
trong những điều kiện thời gian địa điểm cụ
thể nhưng chưa bị phát hiện và chưa bị xử lý về
hình sự”
13
. Quan điểm này bàn vtình hình
tội phạm ẩn, trong đó đưa ra các dấu hiệu
tội phạm n. Điểm khác biệt so với các quan
điểm khác không đề cập đến dấu hiệu
“chưa được thống kê” trong khái niệm tội
phm ẩn.
Quan điểm thứ bảy, “Tội phạm n tổng
hợp các hành vi phạm tội cùng các chủ thgây ra
các hành vi phạm tội ấy, thực tế đã xảy ra nhưng
chưa bcác quan bảo vệ pháp luật phát hiện
11
Thế Tiệm, Phạm Tự Ph (1994), Tội phạm
Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân giải pháp, Nxb.
Công an nhân dân, tr. 13 - 14.
12
Lý Văn Quyền (2007), tlđd chú thích 1, tr. 99.
13
Trn Hữu Tráng (2000), “Một số vấn đề về tình hình
tội phạm n ở Vit Nam”, Tạp chí Luật học (3), tr. 15.
hoặc không bị xử hình sự”
15
. Quan điểm này
cũng không đưa dấu hiệu “không được
thống kê” trong khái niệm tội phạm ẩn. Hay
nói cách khác, không coi tội phạm ẩn phải
dấu hiệu tội phạm không được thống kê.
Tuy nhiên, điểm khác cơ bản với quan điểm
thứ sáu là xem dấu hiệu tội phạm chưa bphát
hiện độc lập với dấu hiệu không bị xử về
hình sự bằng tnối “hoặc” trong khái nim
tội phạm ẩn. nghĩa là, nếu tội phạm đã bị
phát hiện nhưng chưa bị xử cũng được
xem tội phạm ẩn. Ngoài ra, quan điểm
này cũng chỉ ra trách nhiệm phát hiện, xử lý
tội phạm thuộc các quan bảo vệ pháp
luật. Thông thường, quan bảo vệ pháp
luật được hiểu Cơ quan ng an, Viện
kiểm sát và Tòa án.
Quan điểm thứ tám, tội phạm ẩn
“toàn bộ các tội phạm thực tế đã xảy ra cùng các
chthgây ra các tội phạm đó, song còn bị che
đậy đối với cácquan chức năng của nhà nước
hoặc không được xử theo pháp luật hình s
hoặc không có trong thống kê tội phạm của từng
thời kỳ”
14
. Điểm khác biệt nổi bật của quan
điểm này xem ba dấu hiệu không bphát
hiện (còn bị che đậy), không bị xử , không
được thống những dấu hiệu độc lập. Ch
cần có một trong ba dấu hiệu đó là tội phạm
ẩn. Tuy nhiên, quan điểm này cũng không
giải thích chưa bị phát hiện mức độ nào,
tội phạm không bị phát hiện hay người
phạm tội không bị phát hiện, hình thức xử
theo pháp luật hình sự chưa được áp
dụng đối với tội phạm ẩn...
3. Hoàn thiện khái niệm tội phạm n
và ý nghĩa của nó trong Tội phạm học Việt
Nam
Từ những quan điểm đã nêu trên cho
thấy, nhiều dấu hiệu của tội phạm n
được các nhà nghiên cứu đưa ra trong khái
niệm tội phạm ẩn, bao gồm: Tội phạm
không được báo cáo với cảnh sát hoặc
15
Khiếu Mạnh Hùng (2002), Tình trạng tội phạm”,
Giáo trình Tội phạm học, Học viện Cảnh sát nhân
dân, tr. 84
14
Phạm Văn Tỉnh (2000), “Nghiên cứu tình hình tội
phạm”, Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề
luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, tr. 78.
quan thẩm quyền, tội phạm không bị
phát hiện; người phạm tội không b phát
hiện; tội phạm không bị xét xử hay xử lý; tội
phạm không được thống kê. Tuy nhiên, các
quan điểm khoa học không có sự thống nhất
về số ợng các dấu hiệu tội phm ẩn, chưa
thhiện tính độc lập hay liên quan giữa
các dấu hiệu và nhiều dấu hiệu còn chưa rõ
về nội dung. vậy, khái niệm tội phạm n
còn sự tranh luận cần được hoàn thiện.
Để có thể đưa ra khái niệm hợp lý hơn về tội
phm ẩn, cần bổ sung hoặc làm thêm một
số dấu hiệu của tội phạm ẩn như sau:
- Tội phạm ẩn không chỉ ẩn tội phạm
(ẩn hành vi) còn ẩn người thực hiện tội
phạm (ẩn chủ thể). Tội phạm và chủ thể của
tội phạm là hai khái niệm khác nhau nhưng
tồn tại thống nhất. Tội phạm phải dấu
hiệu chủ thchủ thcủa tội phạm phải
dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội. Nếu
tội phạm không bị phát hiện thì đương
nhiên người phạm tội cũng không bị phát
hiện. Tuy nhiên, cũng trường hợp phát
hiện được tội phạm nhưng không phát hiện
được ai là người phạm tội. Trường hợp này
không thể gọi tội phạm đã rõ. Vì vậy, trong
khái niệm tội phạm ẩn phải nêu rõ tội phạm
và người phạm tội (chủ thể) bị ẩn.
- Để xác định tội phạm ẩn hay
không cũng cần làm thế nào chưa bị phát
hiện? Tính chất, mức độ chưa bị phát hiện.
Nghĩa của từ “phát hiện” nói chung tìm
ra, tìm thấy cái chưa ai biết
15
. Từ đó suy luận
chưa bị phát hiện chưa tìm ra, chưa thấy cái
(skiện) đã có. Như vậy, theo nghĩa thông
thường, phát hiện hay chưa bị phát hiện
không cần căn cứ vào việc ai đã phát hiện sự
kiện cách thức nào phát hiện ra sự kin
đó. Thế nhưng trong ttụng hình sự, phát
hiện tội phạm người phạm tội hậu
quả của dẫn đến áp dụng hoặc không bị
áp dụng một chế tài hình sự quá trình
nhận thức đòi hỏi tính hợp pháp không
thể bị bác bỏ. Nhiều tác giả đưa ra dấu hiệu
“chưa bị phát hiện” để nói về tội phạm n
nhưng không thống nhất “phát hiện”
15
Nguyễn Như Ý (1998), tlđd chú thích 7, tr. 1321.
“chưa phát hiện” mức độ nào. tác gi
lại mở ngoặc đơn ghi chú chưa phát hiện mt
cách chính thức
16
, vẻ hợp nhưng tiếc
không giải thích như thế nào chưa phát
hiện một cách chính thức khác với phát
hin không chính thức, hay chưa bị phát hiện.
Trường hợp tội phạm đã thực hiện nhưng
chưa được bất kỳ nhân, cơ quan, tchc
nào phát hiện, điều đó khẳng định tội phạm
chưa bị phát hiện - tội phạm ẩn. Tuy nhiên,
thực tế những trường hợp tội phạm đã
thực hiện, người phát hiện, nhưng không
phải phát hiện nào cũng phát hiện chính
thức để khẳng định tội phạm đã rõ hay còn
ẩn, cụ thể:
+ Tội phạm bị cá nhân, cơ quan, tchc
phát hiện nhưng không chuyển tin báo hay
tố giác tội phạm cho Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát - những quan thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự. Hậu quả tội phạm
không bị khởi tố, điều tra, xét xử. Vì thế, tội
phạm vẫn chưa chính thức bị phát hiện, hay
nói cách khác tội phạm còn bị ẩn. Tội
phạm được coi chưa bị phát hiện (tội
phm ẩn) trong trường hợp này được nhiều
tác giả đồng tình.
+ Tội phạm đã bị phát hiện do tin
báo, tgiác, do người phạm tội tự thú, do cơ
quan thẩm quyền tố tụng trực tiếp phát
hiện, đã được thụ đúng trình tự, thủ tục
được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình
sự (BLTTHS). nghĩa thông tin tội phạm
đã đến đúng
“địa chỉ” tiếp nhận, xử lý theo quy định của
BLTTHS. phần khái niệm viện dẫn
quan điểm của các tác giả cho rằng chỉ cần
thông tin tội phạm được báo (tường thuật)
cho cảnh sát được coi là tội phạm rõ, hay tội
phạm đã bị phát hiện. Nếu hiểu như vậy thì
trường hợp này tội phạm không còn trạng
thái chưa bị phát hiện nữa. Thế nhưng,
trường hợp, sau đó vụ án không được khởi
tố do bỏ sót, không xử tốt tin báo hoặc
không điều kiện xác minh thông tin tội
phạm đã được thụ lý. thế, thông tin ban
đầu về tội phạm mặc đã đến đúng
16
Dương Tuyết Miên (2010), tlđd chú thích 2, tr.
84.
quan thẩm quyền khởi tố vụ án nhưng
chưa đủ để xác định tội phạm người
phạm tội và không có sở để giải quyết vụ
án. Tội phạm vẫn chưa chính thức bị phát
hiện, tội phạm vẫn còn ẩn.
+ Từ những thông tin ban đầu, vụ án
được khởi tố, điều tra. Nhiều thông tin
(chứng cứ) mới được thu thập bằng những
hoạt động điều tra nhưng chưa đủ để chứng
minh tội phạm, người phạm tội. Hết hạn
điều tra phải tạm đình chỉ hoặc đình chỉ, sau
đó không phục hồi điều tra. Kể cả trường
hợp vụ án được đưa ra xét xử nhưng không
đủ chứng cứ để ra bản án kết tội mặc
thực tế tội nhưng không điều tra được,
buộc phải tuyên vô tội. Trường hợp này cũng
không thể nói tội phạm, người phạm tội đã
bị phát hiện. Tội phạm vẫn còn ẩn chưa
chính thức bị phát hiện.
thể khẳng định, tất cả những trường
hợp trên đều được xem tội phạm chưa bị
phát hiện chính thức, một trong những dấu
hiệu của tội phạm ẩn. Chúng tôi cho rằng tội
phạm chỉ được coi bị phát hiện chính thức
khi:
1) Chthphát hiện quan thẩm
quyền tiến hành tố tụng, có quyền và nghĩa
vụ giải quyết vụ án hình sự.
2) Kết quả phát hiện phải được chứng
minh với đầy đủ chng cứ tội phạm
người đã thực hiện tội phạm. Trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử đều khả
năng xác định tội phạm đã bị phát hiện (rõ)
thông qua các chứng cứ được quan
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập,
chứng minh bằng c hoạt động điều tra
như khám nghiệm hiện trường, xem xét vật
chứng, lấy lời khai những người tham gia tố
tụng... Nếu tội phạm chưa bị phát hiện bởi
quan thẩm quyền tiến hành tố tụng với
những chứng cứ ràng thì đó tội phạm
chưa bị phát hiện chính thức, là tội phạm n.
- Cần xem “chưa bị xử về hình sự”
dấu hiệu độc lập của tội phạm ẩn. Bởi
17
Trn Hữu Tráng (2000), “Một số vấn đề về tình hình
tội phạm n ở Vit Nam”, Tạp chí Luật học, (3), tr.15;
Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại
phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an nhân n, tr. 94;
tội phạm được phát hiện tất yếu phải biện
pháp xử lý. vậy, tội phạm bị phát hiện
không bị xử lý thậu quả cũng không khác
tội phạm chưa bị phát hiện không có tác
dụng phòng ngừa tội phạm. Hay nói cách
khác, vẫn tồn tại trạng thái ẩn. Do đó,
nên coi “chưa bị phát hiện” “chưa bị xử
lý” hai dấu hiệu độc lập trong khái niệm
tội phạm ẩn. Trong khái niệm về tội phạm
ẩn cần c định rõ hơn tội phạm, người
phạm tội “chưa bị xử lý về hình sự”. Tức là
chưa bị xử bằng bất kỳ quyết định, bản án
nào của quan tiến hành tố tụng, để cho
tội phạm rơi vào trạng thái ẩn.
- nên xem tội phạm ẩn khi tội
phạm bị phát hiện xử nhưng sau đó
không được thống kê? Trong luận Tội
phạm học, nhiều ý kiến thừa nhận tội
phm ẩn thống kê. nghĩa do sai
sót thống kê hay do quy định thống kê ràng
buộc có nhiều tội bị bỏ lọt ra khỏi số liu
thống chính thức sau khi đã xử về hình
sự. Chúng tôi đồng tình với quan đim
không coi trường hợp tội phạm bị xử
nhưng không được thống tội phạm
ẩn
17
, bởi mục tiêu của phòng, chống tội
phạm phải hướng đến mọi tội phạm phải
được phát hiện, xử kịp thời, nhanh chóng,
không làm oan, không bỏ lọt và hậu quả tội
phạm được ngăn chặn, khắc phục kịp thời.
Việc thống kê tội phạm cần phải đầy đủ hay
không, không phải mục tiêu chính ca
phòng, chống tội phạm, đó vấn đề
nhận thức về tình hình tội phạm. Sai sót
thống kê tội phạm không cần một sự nỗ lực
nào về mặt tố tụng đó chỉ vấn đề kỹ
thuật nghiệp vụ thống kê. Hơn nữa, tội
phạm người phạm tội đã được chứng
minh được giải quyết bằng một bản án,
quyết định chính thức của quan tiến hành
tố tụng, được tuyên hay công bố công khai
thì không thể xem tội phạm còn ẩn mà là tội
phạm đã rõ. Mặt khác, việc nhận thức về
tình nh tội phạm xây dựng chương
trình, kế hoạch phòng chống tội phạm
Dương Tuyết Miên (2010), “Tình hình tội phạm”,
Giáo trình tội phạm học, Nxb. Giáo dục Việt Nam,
tr. 85.
không chỉ dựa vào mỗi số liệu tội phạm,
người phạm tội được thống kê. Do đó, tội
phạm đã bxử lý, mặc không trong
thống hình sự thì cũng không còn ẩn nữa.
- Các quan điểm nêu trên cũng ít chú
ý phân biệt tội phm ẩn với tình hình tội
phm ẩn (phần ẩn của tội phạm) nên có khi
còn dùng lẫn lộn trong khái niệm tội phạm
ẩn. tác giả xem “phần ẩn của tình hình
tội phạm” “tội phạm ẩn” đều những
cụm từ cùng nghĩa khác âm
18
, theo chúng tôi
không hợp lý. vậy, bàn vkhái niệm
tội phạm ẩn cần chú ý sử dụng các thuật ngữ
tiếp cận tội phạm chưa bị phát hiện, xử lý ở
mức độ tội phạm ẩn (hành vi) cùng với chủ
thcủa hành vi đó, chkhông phải mức
độ tổng thể là phần ẩn (gồm nhiều tội phạm
ẩn) trong cấu trúc thực trạng tình hình tội
phạm. Mối quan hệ giữa “tình hình tội
phm ẩn” hay “phần ẩn của tình hình tội
phạm” với “tội phạm ẩn” mối quan hệ
“cái chung” - “cái riêng”.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi đưa ra
khái niệm tội phm ẩn được hiểu như sau:
“Tội phạm ẩn tội phạm đã được thực hin
trên thực tế cùng với chủ thcủa nhưng
chưa bị các quan thẩm quyền tiến hành
tố tụng phát hiện chính thức hoặc tuy đã bị
phát hiện nhưng không bị xử lý về hình sự”.
Khái niệm tội phạm ẩn cho thấy ba
dấu hiệu độc lập của tội phạm n:
(1) Dấu hiệu tội phạm chưa bị phát hiện
chính thức. Dấu hiệu này có hai trường hợp:
- Một là, tội phạm đã được thực hiện
nhưng quan thẩm quyền tiến hành tố
tụng hoàn toàn không thông tin v
chúng. Ví dụ, tài sản của quan bị tham ô
quan thẩm quyền tiến hành tố tụng
không biết.
- Hai là, quan tiến hành tố tụng
thông tin ban đầu về tội phạm do được cung
cấp tin báo hoặc tự phát hiện hiện trường
vụ án... nhưng không thể chng minh được
sự thật phải tội phạm hay không
những trở ngại khách quan hoặc trình độ
chuyên môn, kỹ thuật của quan tiến hành
18
Phạm n Tỉnh (2007), Một số vấn đề luận về tình
hình tội phạm Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr. 67.
tố tụng còn hạn chế... thế, mặc đã
thông tin vtội phạm nhưng không đ
sở để khẳng định tội phạm đã bị phát hiện.
dụ, quan thẩm quyền tiến hành tố
tụng phát hiện xác chết đã bị phân hủy
được nghi là nạn nhân bị giết nhưng không
khả ng chứng minh nạn nhân bị giết
hay chết vì bệnh tật, té ngã.
(2) Dấu hiệu người phạm tội chưa bị phát
hiện chính thức. hai trường hợp:
- Một là, do không phát hiện được tội
phạm nên cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng cũng không phát hiện được người
phạm tội. Như vậy, dấu hiệu tội phạm chưa
bị phát hiện đã bao hàm dấu hiệu người
phạm tội chưa bị phát hiện.
- Hai là, những hành vi phạm tội
thực tế đã được thực hiện, các quan
thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng đã phát
hiện (chứng minh) tội phạm nhưng lại
không hoặc chưa phát hiện người phạm tội.
(3) Tội phạm và người phạm tội chưa bị
xử lý về hình sự mặc dù đã bị phát hiện chính
thc:
Nếu tội phạm người phạm tội không
bị phát hiện, chắc chắn không bị xử về
hình sự, vì vậy tồn tại tội phạm n.
Nếu tội phạm, người phạm tội đã bị
phát hiện (có căn cứ) nhưng không bxử
thì vẫn coi tội phạm ẩn. Việc tội phạm
người phạm tội không bị xử về hình sự
không chỉ “chưa bị đưa ra xét xử” như
quan niệm của một số tác gi
19
.
Như vậy, với ba dấu hiệu trên, tính chất
tội phạm, người phạm tội chưa bị phát hiện
chưa bị xử tội phạm của tội phạm n
được nhận thức hơn trong khái niệm tội
phm n.
Nhìn chung, đối với Tội phạm học
Việt Nam, nhiều ng trình nghiên cứu
về tội phạm ẩn nhưng vẫn còn một số hạn
chế như sau:
Thnhất, chưa sthống nhất trong
khái niệm và các dấu hiệu của tội phạm n.
19
Dương Tuyết Miên (2010), tlđd chú thích 2, tr.
841.
Thhai, nội dung nghiên cứu chưa
tính toàn diện, bao quát về những vấn đề lý
luận của khái niệm “tội phạm ẩn”.
Th ba, các tài liệu nghiên cứu về tội
phm ẩn chưa nêu hết ý nghĩa đối với nhận
thức khái niệm tội phạm ẩn những đặc
điểm của tội phạm n.
Do đó, trong Tội phạm học Việt Nam,
về mặt luận còn sự thiếu thống nhất
trong quan niệm tội phạm ẩn chưa được
nghiên cứu toàn diện hệ thống về tội
phm ẩn, vì thế chưa thể đóng vai trò là nn
tảng lý luận cho quá trình nhận thức và đấu
tranh với tội phạm ẩn. Thực tiễn phòng
chống tội phạm khi còn ngnhận về tội
phm ẩn xem nhẹ việc phòng chống tội
phm ẩn làm cho tình hình tội phạm trnên
nghiêm trọng hơn.
Chính tnhững hạn chế như trên, tác
gihy vọng kết quả nghiên cứu khái nim
tội phạm ẩn trong bài viết góp một phần vào
hệ thống lý luận về tội phạm n Việt Nam.
Đồng thời, với cách hiểu một cách toàn diện
về khái niệm tội phạm ẩn giúp xác định
những vấn đề liên quan đến tội phạm n, từ
đó thđịnh hướng cho thực tiễn phòng,
chống tội phạm nhằm hạn chế, khắc phc
thực trạng ẩn của tội phạm nâng cao hiệu
quả phòng chống tội phạm nói chung./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Tuyết Miên (2010), Tình hình ti
phạm”, Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Giáo dục
Vit Nam.
2. Khiếu Mạnh Hùng (2002), “Tình trạng tội
phm”, Giáo trình Tội phạm học, Học viện Cảnh
sát nhân dân.
3. n Quyền (2007), “Tình hình tội
phm”, Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân.
4. Thế Tiệm, Phạm Tự Ph(1994), Tội
phm Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp, Nxb. Công an nhân dân.
5. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học
hiện đại phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an
nhân dân.
6. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng
Vit, Nxb. Văn hóa thông tin.
7. Phạm Văn Tỉnh (2000), “Nghiên cứu tình
hình tội phạm”, Tội phạm học Việt Nam, một số
vấn đề luận thực tiễn, Nxb. Công an nhân
dân.
8. Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội
phạm học của tình hình tội phạm ớc ta hiện
nay, Luận án tiến sĩ luật học.
9. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề
luận về tình hình tội phạm Việt Nam, Nxb.
pháp.
10. Trần Hữu Tráng (2000), “Một số vấn đề về
tình hình tội phạm n Việt Nam”, Tạp chí Luật
học (3).
11. Frank Schmalleger (2002), Criminology
Today, The University of North Carolina at
Pembroke, Prentice Hall Publisher.
12. Timothy Mason (2006), Bài giảng
“Ocial statistics & the dark gure”, Paris
University.
13. Jock Young (2009), Bài giảng “Entend of
Crime”,
Web:www.malcolmread.co.ukJockYoung
the_extent_of_crime.pdf
14. hp:/www.deviance 2-ocial statistics
& the dark gure.htm
15. hp://en.wikipedia.org/wiki/Dark_gu
re_ of_crime)

Preview text:

TÌM HIỂU KHÁI NIỆM TỘI PHẠM ẨN
NGUYỄN TRẦN NHƯ KHUÊ*
Tội phạm ẩn đã và đang “âm thầm” gây ra thiệt hại cho cá nhân nói riêng và xã hội nói
chung mà không bị phát hiện, xử lý. Sự tồn tại của tội phạm ẩn dẫn đến hệ quả mô tả không
chính xác bức tranh tội phạm và nhầm lẫn trong việc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm
cũng như đánh giá hiệu quả của hoạt động này. Vì thế “tội phạm ẩn” thu hút sự quan tâm,
nghiên cứu của các nhà tội phạm học và các nhà hoạt động thực tiễn về phòng chống tội phạm.
Bài viết nêu lên sự cần thiết nghiên cứu tội phạm ẩn, các quan điểm của các nhà khoa học về
khái niệm tội phạm ẩn; từ đó tác giả đưa ra khái niệm hoàn thiện về tội phạm ẩn và ý nghĩa
của nó trong Tội phạm học Việt Nam.

Từ khóa: Tội phạm ẩn, tội phạm chưa bị phát hiện, tội phạm chưa bị xử lý.
Ngày nhận bài: 20/06/2022; Biên tập xong: 27/06/2022; Duyệt đăng: 22/07/2022
Dark figure of crime have been “silently” causing damage to both individuals and society
without being detected and handled. Its existence leads to the inaccurate description of crime
situation, the confusion in crime prevention activities and in evaluation of this activity’s
effectiveness. Therefore, criminologists and practical activists on crime prevention have paid
much attention and research to it. This article raises the need to study dark figure of crime,
scientific views on its concept, then the author gives out a complete concept of dark figure of
crime and its meaning in Vietnamese Criminology.

Keywords: Dark figure of crime, undetected crime, unsolved crime.
ình hình tội phạm là hiện tượng xã hội định và ở một địa bàn nhất định”1. Cấu trúc của
tồn tại khách quan, vì vậy, việc nghiên nó gồm hai bộ phận (phần) hợp thành:
Tc ứu về tình hình tội phạm để tìm ra + Một là, những tội phạm đã bị phát hiện,
quy luật tồn tại, phát triển của nó là xử lý - trong tiếng Anh gọi là “cleared
cần thiết để từ đó có thể tiến hành các biện crimes” hay “solved crimes”, tiếng Việt
pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu thường được các nhà tội phạm học gọi là quả.
“tội phạm rõ” hay “tội phạm hiện”.
1. Sự cần thiết nghiên cứu tội phạm ẩn
+ Hai là, những tội phạm đã xảy ra
Nhận thức về tình hình tội phạm, ngoài nhưng chưa bị phát hiện, xử lý. Theo các tài
những thuộc tính, dấu hiệu đặc trưng, các liệu khoa học, người đầu tiên đưa ra thuật
nhà nghiên cứu còn quan tâm đến sự tồn tại ngữ để chỉ những tội phạm chưa bị phát
của tình hình hình tội phạm trên thực tế qua hiện xử lý là Adolphe Quetelet, nhà thiên
việc đánh giá thực trạng, cơ cấu, động thái văn học, toán học, xã hội học người Bỉ vào
và thiệt hại do tình hình tội phạm gây ra. năm 18302, tiếng Anh là “dark figure of
Trong đó, thực trạng tình hình tội phạm là crime”, theo tiếng Việt thường gọi là “tội
nội dung thường được tiếp cận trước tiên, phạm ẩn”. Ông cho rằng, nghiên cứu về
phản ánh khía cạnh định lượng của tình thực trạng của tình hình tội phạm không chỉ
hình tội phạm. Về mặt lý luận, thực trạng dựa vào con số về tội phạm rõ mà còn phải
tình hình tội phạm được hiểu là “tổng số các dựa vào việc đánh giá về tội phạm ẩn, bởi số
tội phạm đã xảy ra và số lượng người thực hiện liệu tội phạm rõ chỉ phản ánh được phần
các tội phạm đó trong một khoảng thời gian nhất nào tình hình tội phạm.
1 Lý Văn Quyền (2007), “Tình hình tội phạm”, Giáo
trình tội phạm học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb. Công an nhân dân, tr. 98.
Để đánh giá thực trạng tình hình tội phạm chưa bị phát hiện, xử lý cũng cần
phạm, trước hết phải dựa vào số liệu tội được quan tâm. Nếu như tội phạm rõ đã bị
phạm rõ mà đã được các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý, thiệt hại đã được ngăn
thống kê. Một số nước, điển hình là Mỹ chặn, khắc phục và người phạm tội đã bị thường xuất
trừng phạt, giáo dục thì tội phạm ẩn tỏ ra
nguy hiểm hơn bởi các lý do:
* Thạc sĩ, Nghiên cứu sinh, Giảng viên khoa Nhà
- Tội phạm xảy ra nhưng lại không
nước pháp luật, Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí được phát hiện và xử lý, vì thế tội phạm vẫn
Minh 2 Dương Tuyết Miên (2010), “Tình hình tội tiếp tục gây ra thiệt hại mà chưa có biện
phạm”, Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Giáo dục pháp kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục Việt Nam, tr. 83. hậu quả.
bản hàng năm số liệu thống kê về tội phạm
- Tội phạm ẩn sẽ tạo điều kiện cho tội
do Cục thống kê tư pháp (BJS) và Cục Điều phạm và các tổ chức tội phạm khác hình
tra liên bang (FBI) thu thập. Nguồn số liệu thành và phát triển, làm cho tình hình tội
về tội phạm rõ được lấy từ số liệu của cảnh phạm trở nên nghiêm trọng hơn.
sát hoặc của các cơ quan khác, thường có
- Tình trạng ẩn của tội phạm làm cho
được là do tội phạm xảy ra có người chứng người phạm tội coi thường pháp luật và gây
kiến hoặc phát hiện ra tội phạm và tội phạm ra tâm lý lo sợ, mất lòng tin của nhân dân
đã được tường thuật, tố cáo với cảnh sát; vào cơ quan bảo vệ pháp luật; đồng thời
trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền xử lý cũng gây khó khăn cho Nhà nước trong việc
hình sự đối với tội phạm và người phạm tội đưa pháp luật vào cuộc sống.
đã bị phát hiện2 . Báo cáo tội phạm chính
- Tội phạm ẩn làm cho cơ quan nhà
thức (UCR) của Mỹ giải thích tội phạm rõ đó nước có thẩm quyền nhận thức sai về tình
là trường hợp các cơ quan áp dụng pháp hình tội phạm nói chung và tình hình tội
luật đã chính thức buộc tội một người vì tội phạm ẩn nói riêng. Từ đó, dự báo tội phạm
phạm họ đã thực hiện3.
không chính xác, xây dựng kế hoạch, biện
Tuy nhiên, không phải mọi tội phạm pháp phòng ngừa tội phạm không phù hợp.
xảy ra đều bị phát hiện và xử lý hình sự.
Vì vậy, tình hình tội phạm ẩn từ lâu đã
Thực tế, có khá nhiều tội phạm đã xảy ra thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau tội phạm học trên thế giới và ở Việt Nam.
nên không bị phát hiện và do vậy không bị
2. Một số quan điểm về khái niệm “tội
xử lý về hình sự. Theo nghiên cứu của các phạm ẩn”
nhà tội phạm học tư sản, số lượng tội phạm
chưa bị phát hiện còn cao hơn nhiều so với
Tuy nhiên, quan niệm về tội phạm ẩn
số tội phạm đã bị phát hiện, con số tội phạm dường như vẫn chưa có sự thống nhất. Có
phát hiện trong thống kê chỉ bằng 1/4 cho thể nêu một số quan điểm như sau:
đến 1/10 con số thực tế tội phạm đã xảy ra
Quan điểm thứ nhất, “Tội phạm ẩn là
(theo GS. TS. Tymothy Mason, số lượng tội những tội phạm có thực nhưng không được
phạm ẩn lớn hơn 06 đến 10 lần tội phạm rõ4). tường thuật với cảnh sát”5. Theo nghĩa Tiếng
Như vậy, con số tội phạm đã bị phát hiện và Việt, “tường thuật” có nghĩa là kể lại, thuật
bị xử lý chỉ phản ánh một phần của tổng thể lại thật rõ ràng, tường tận 6 . “Những tội
những tội phạm đã xảy ra. Còn số lượng tội phạm có thực nhưng không được tường
2 Dương Tuyết Miên (2010), tlđd chú thích 2, tr. 82. http:/www. deviance 2-official statistics & the dark
3 Frank Schmalleger (2002), Criminology Today, The figure.htm
University of North Carolina at Pembroke, Prentice 5 Timothy Mason (2006), tlđd chú thích 5. Hall Publisher, tr. 38
6 Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt,
4 Timothy Mason (2006), Bài giảng “Official statistics
Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 1769.
& the dark figure”, Paris University. Link:
thuật với cảnh sát” được hiểu là tội phạm đã ngữ được đưa ra bởi các nhà tội phạm học
xảy ra nhưng không được báo cho cảnh sát và xã hội học mô tả số lượng tội phạm không
biết. Nếu quan niệm tội phạm ẩn là những được tường thuật hoặc không bị phát hiện
tội phạm có thực nhưng không được tường và nó trả lời cho câu hỏi về độ tin cậy của
thuật (báo cáo - report) với cảnh sát thì chưa thống kê tội phạm chính thức”9. Dấu hiệu tội
đầy đủ. Bởi lẽ, việc thông tin tội phạm được phạm “không bị phát hiện” có nghĩa cơ
báo cho cơ quan có thẩm quyền chưa đủ để quan có thẩm quyền không tự mình phát
xác định có tội phạm mà cần phải gắn với hiện ra tội phạm cũng giống như tội phạm
hoạt động phát hiện (chứng minh) tội phạm. không được trình báo.
Do đó, tội phạm ẩn không chỉ là thông tin tội
Quan điểm thứ ba, “Tội phạm ẩn là số
phạm không được báo hoặc “đưa đến đúng lượng tội phạm đã thực hiện trên thực tế nhưng
địa chỉ” của cơ quan có thẩm quyền khởi tố không được tường thuật với cơ quan có thẩm
vụ án hình sự7 mà chính xác hơn là tội phạm quyền hoặc chưa bị phát hiện (một cách chính
không bị phát hiện. Mặt khác, quan điểm thức) và do vậy chưa bị đưa ra xét xử, chưa có
này không đề cập đến trường hợp tội phạm trong thống kê hình sự chính thức”10 . Quan
đã được báo cho cảnh sát nhưng không bị điểm này mở rộng hơn ở phương diện cơ
xử lý theo quy định của pháp luật hình sự, quan tiếp nhận thông tin tội phạm, không tố tụng hình sự.
chỉ cơ quan cảnh sát mà là cơ quan có thẩm
Quan điểm thứ hai, “Tội phạm ẩn là số quyền nói chung. Tuy nhiên cũng cần giải
lượng lớn tội phạm không được tường thuật với thích thêm cơ quan nào được coi là “có thẩm
cảnh sát và không có trong thống kê hình sự quyền”. Mặt khác, tội phạm ẩn không chỉ có
chính thức”8. Quan điểm này đưa thêm dấu dấu hiệu “không được tường thuật” mà hậu
hiệu “không có trong thống kê hình sự chính quả là chưa bị đưa ra xét xử và không được
thức” để xác định tội phạm ẩn. Nếu tội thống kê. Quan điểm này cũng để lại những
phạm chưa được báo (tường thuật) cho cảnh băn khoăn và khó giải thích. Ví dụ, tội phạm
sát thì đương nhiên sẽ không được thống kê. bị đưa ra xét xử nhưng tuyên vô tội vẫn tồn
Như vậy, trước hết chỉ cần dấu hiệu tội tại khả năng ẩn của tội phạm, hoặc là tội
phạm “không được báo cho cảnh sát” thì sẽ phạm tuy không bị đưa ra xét xử nhưng
đồng thời thỏa mãn dấu hiệu “không được được phát hiện và xử lý bằng những quyết
thống kê”. Giả sử có trường hợp tội phạm định khác của cơ quan tiến hành tố tụng
được báo cho cảnh sát nhưng vì lý do nào đó không thể coi là tội phạm ẩn? Nói chung, các
không được thống kê thì vẫn được coi là tội dấu hiệu của tội phạm ẩn được liệt kê ở định
phạm ẩn, vì tội phạm tuy được báo cho cảnh nghĩa trên là độc lập hay có liên quan với
sát nhưng không được nhận diện qua con số nhau không được xác định rõ ràng.
thống kê. Quan điểm thứ hai về quan niệm
Quan điểm thứ tư, “Tội phạm ẩn là khái
tội phạm ẩn rộng hơn quan điểm thứ nhất, niệm chỉ một phần trong tổng thể các tội phạm
bao gồm hai trường hợp: Tội phạm không đã xảy ra trong một thời gian và trên một địa bàn
được báo cho cảnh sát và tội phạm mặc dù nhất định mà chưa được các cơ quan bảo vệ pháp
đã được báo cho cảnh sát nhưng không luật (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các
được thống kê. Quan điểm này cũng có cách cơ quan khác của công an có chức năng tiếp nhận
diễn đạt tương tự: “Tội phạm ẩn là thuật
7 Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội phạm học amount of unreported or undiscovered crime, which
của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, Luận án calls into
tiến sĩ luật học, tr. 40.
question the reliability of official crime statistics”
8 Frank Schmalleger (2002), Criminology Today, The (http://
University of North Carolina at Pembroke, Prentice en.wikipedia.org/wiki/Dark_figure_of_crime) Hall Publisher, tr. 61.
10 Dương Tuyết Miên (2010), tlđd chú thích 2,
9 “The dark figure of (or for) crime is a term employed tr.84.
by criminologists and sociologists to describe the
tin tố giác và phát hiện tội phạm) phát hiện về sự hoặc không bị xử lý hình sự”15. Quan điểm này
kiện nói chung hoặc chưa nhận biết được sự kiện, cũng không đưa dấu hiệu “không được
hành vi đã phát hiện là tội phạm”11. Ưu điểm thống kê” trong khái niệm tội phạm ẩn. Hay
nổi bật của quan điểm này là liệt kê được nói cách khác, không coi tội phạm ẩn phải có
những cơ quan nào có trách nhiệm tiếp nhận dấu hiệu tội phạm không được thống kê.
thông tin tội phạm và phát hiện tội phạm. Tuy nhiên, điểm khác cơ bản với quan điểm
Tuy nhiên, quan điểm này không đề cập đến thứ sáu là xem dấu hiệu tội phạm chưa bị phát
dấu hiệu tội phạm “chưa bị xử lý”, do đó hiện độc lập với dấu hiệu không bị xử lý về
vẫn tồn tại hạn chế như quan điểm thứ nhất. hình sự bằng từ nối “hoặc” trong khái niệm
Thật ra, tội phạm ẩn không chỉ là tội phạm tội phạm ẩn. Có nghĩa là, nếu tội phạm đã bị
không bị phát hiện mà còn là tội phạm bị phát hiện nhưng chưa bị xử lý cũng được
phát hiện nhưng không bị xử lý.
xem là tội phạm ẩn. Ngoài ra, quan điểm
Quan điểm thứ năm,“Tội phạm ẩn có này cũng chỉ ra trách nhiệm phát hiện, xử lý
nghĩa là toàn bộ các số tội phạm cụ thể thực tế đã tội phạm thuộc các cơ quan bảo vệ pháp
xảy ra và số lượng người thực hiện các tội phạm luật. Thông thường, cơ quan bảo vệ pháp
đó mà chưa bị phát hiện và xử lý về hình sự vì luật được hiểu là Cơ quan công an, Viện
vậy nó không có trong thống kê hình sự”12. Quan kiểm sát và Tòa án.
điểm này bổ sung hai dấu hiệu đáng lưu ý
Quan điểm thứ tám, tội phạm ẩn là
so với các quan điểm trên: Một là, “ẩn người “toàn bộ các tội phạm thực tế đã xảy ra cùng các
phạm tội” trong khái niệm tội phạm ẩn; Hai chủ thể gây ra các tội phạm đó, song còn bị che
là, chưa bị xử lý về hình sự. Tuy nhiên, cách đậy đối với các cơ quan chức năng của nhà nước
diễn đạt chưa làm rõ được rằng chỉ cần một hoặc không được xử lý theo pháp luật hình sự
trong số dấu hiệu đó thỏa mãn là tội phạm hoặc không có trong thống kê tội phạm của từng
ẩn hay tội phạm ẩn phải có đủ ba dấu hiệu: thời kỳ”14. Điểm khác biệt nổi bật của quan
Tội phạm và người phạm tội chưa bị phát điểm này là xem ba dấu hiệu không bị phát
hiện; tội phạm chưa bị xử lý; và tội phạm hiện (còn bị che đậy), không bị xử lý, không
không có trong thống kê hình sự.
được thống kê là những dấu hiệu độc lập. Chỉ
Quan điểm thứ sáu, “Tình hình tội phạm cần có một trong ba dấu hiệu đó là tội phạm
ẩn là tổng thể các hành vi phạm tội cùng các chủ ẩn. Tuy nhiên, quan điểm này cũng không
thể của những hành vi đó thực tế đã thực hiện giải thích rõ chưa bị phát hiện ở mức độ nào,
trong những điều kiện thời gian và địa điểm cụ tội phạm không bị phát hiện hay người
thể nhưng chưa bị phát hiện và chưa bị xử lý về phạm tội không bị phát hiện, hình thức xử
hình sự”13. Quan điểm này bàn về tình hình lý theo pháp luật hình sự chưa được áp
tội phạm ẩn, trong đó có đưa ra các dấu hiệu dụng đối với tội phạm ẩn...
tội phạm ẩn. Điểm khác biệt so với các quan
3. Hoàn thiện khái niệm tội phạm ẩn
điểm khác là không đề cập đến dấu hiệu và ý nghĩa của nó trong Tội phạm học Việt
“chưa được thống kê” trong khái niệm tội Nam phạm ẩn.
Từ những quan điểm đã nêu trên cho
Quan điểm thứ bảy, “Tội phạm ẩn là tổng thấy, có nhiều dấu hiệu của tội phạm ẩn
hợp các hành vi phạm tội cùng các chủ thể gây ra được các nhà nghiên cứu đưa ra trong khái
các hành vi phạm tội ấy, thực tế đã xảy ra nhưng niệm tội phạm ẩn, bao gồm: Tội phạm
chưa bị các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện không được báo cáo với cảnh sát hoặc cơ
11 Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả (1994), Tội phạm ở
15 Khiếu Mạnh Hùng (2002), “Tình trạng tội phạm”,
Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Nxb. Giáo trình Tội phạm học, Học viện Cảnh sát nhân
Công an nhân dân, tr. 13 - 14. dân, tr. 84
12 Lý Văn Quyền (2007), tlđd chú thích 1, tr. 99.
14 Phạm Văn Tỉnh (2000), “Nghiên cứu tình hình tội
13 Trần Hữu Tráng (2000), “Một số vấn đề về tình hình
phạm”, Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý
tội phạm ẩn ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học (3), tr. 15. luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, tr. 78.
quan có thẩm quyền, tội phạm không bị “chưa phát hiện” ở mức độ nào. Có tác giả
phát hiện; người phạm tội không bị phát lại mở ngoặc đơn ghi chú chưa phát hiện một
hiện; tội phạm không bị xét xử hay xử lý; tội cách chính thức16, có vẻ hợp lý nhưng tiếc là
phạm không được thống kê. Tuy nhiên, các không giải thích như thế nào là chưa phát
quan điểm khoa học không có sự thống nhất hiện một cách chính thức và khác với phát
về số lượng các dấu hiệu tội phạm ẩn, chưa hiện không chính thức, hay chưa bị phát hiện.
thể hiện rõ tính độc lập hay liên quan giữa Trường hợp tội phạm đã thực hiện nhưng
các dấu hiệu và nhiều dấu hiệu còn chưa rõ chưa được bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức
về nội dung. Vì vậy, khái niệm tội phạm ẩn nào phát hiện, điều đó khẳng định tội phạm
còn có sự tranh luận và cần được hoàn thiện. chưa bị phát hiện - tội phạm ẩn. Tuy nhiên,
Để có thể đưa ra khái niệm hợp lý hơn về tội thực tế có những trường hợp tội phạm đã
phạm ẩn, cần bổ sung hoặc làm rõ thêm một thực hiện, có người phát hiện, nhưng không
số dấu hiệu của tội phạm ẩn như sau:
phải phát hiện nào cũng là phát hiện chính
- Tội phạm ẩn không chỉ ẩn tội phạm thức để khẳng định tội phạm đã rõ hay còn
(ẩn hành vi) mà còn ẩn người thực hiện tội ẩn, cụ thể:
phạm (ẩn chủ thể). Tội phạm và chủ thể của
+ Tội phạm bị cá nhân, cơ quan, tổ chức
tội phạm là hai khái niệm khác nhau nhưng phát hiện nhưng không chuyển tin báo hay
tồn tại thống nhất. Tội phạm phải có dấu tố giác tội phạm cho Cơ quan điều tra, Viện
hiệu chủ thể và chủ thể của tội phạm phải có kiểm sát - những cơ quan có thẩm quyền
dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội. Nếu khởi tố vụ án hình sự. Hậu quả là tội phạm
tội phạm không bị phát hiện thì đương không bị khởi tố, điều tra, xét xử. Vì thế, tội
nhiên người phạm tội cũng không bị phát phạm vẫn chưa chính thức bị phát hiện, hay
hiện. Tuy nhiên, cũng có trường hợp phát nói cách khác là tội phạm còn bị ẩn. Tội
hiện được tội phạm nhưng không phát hiện phạm được coi là chưa bị phát hiện (tội
được ai là người phạm tội. Trường hợp này phạm ẩn) trong trường hợp này được nhiều
không thể gọi tội phạm đã rõ. Vì vậy, trong tác giả đồng tình.
khái niệm tội phạm ẩn phải nêu rõ tội phạm
+ Tội phạm đã bị phát hiện do có tin
và người phạm tội (chủ thể) bị ẩn.
báo, tố giác, do người phạm tội tự thú, do cơ
- Để xác định tội phạm có ẩn hay quan có thẩm quyền tố tụng trực tiếp phát
không cũng cần làm rõ thế nào là chưa bị phát hiện, đã được thụ lý đúng trình tự, thủ tục
hiện? Tính chất, mức độ chưa bị phát hiện. được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình
Nghĩa của từ “phát hiện” nói chung là tìm sự (BLTTHS). Có nghĩa là thông tin tội phạm
ra, tìm thấy cái chưa ai biết15. Từ đó suy luận đã đến đúng
chưa bị phát hiện là chưa tìm ra, chưa thấy cái “địa chỉ” tiếp nhận, xử lý theo quy định của
(sự kiện) đã có. Như vậy, theo nghĩa thông BLTTHS. Ở phần khái niệm có viện dẫn
thường, phát hiện hay chưa bị phát hiện quan điểm của các tác giả cho rằng chỉ cần
không cần căn cứ vào việc ai đã phát hiện sự thông tin tội phạm được báo (tường thuật)
kiện và cách thức nào phát hiện ra sự kiện cho cảnh sát được coi là tội phạm rõ, hay tội
đó. Thế nhưng trong tố tụng hình sự, phát phạm đã bị phát hiện. Nếu hiểu như vậy thì
hiện tội phạm và người phạm tội mà hậu trường hợp này tội phạm không còn ở trạng
quả của nó dẫn đến áp dụng hoặc không bị thái chưa bị phát hiện nữa. Thế nhưng, có
áp dụng một chế tài hình sự là quá trình trường hợp, sau đó vụ án không được khởi
nhận thức đòi hỏi tính hợp pháp và không tố do bỏ sót, không xử lý tốt tin báo hoặc
thể bị bác bỏ. Nhiều tác giả đưa ra dấu hiệu không có điều kiện xác minh thông tin tội
“chưa bị phát hiện” để nói về tội phạm ẩn phạm đã được thụ lý. Vì thế, thông tin ban
nhưng không thống nhất “phát hiện” và đầu về tội phạm mặc dù đã đến đúng cơ
15 Nguyễn Như Ý (1998), tlđd chú thích 7, tr. 1321.
16 Dương Tuyết Miên (2010), tlđd chú thích 2, tr. 84.
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án nhưng tội phạm được phát hiện tất yếu phải có biện
chưa đủ để xác định có tội phạm và người pháp xử lý. Vì vậy, tội phạm bị phát hiện mà
phạm tội và không có cơ sở để giải quyết vụ không bị xử lý thì hậu quả cũng không khác
án. Tội phạm vẫn chưa chính thức bị phát tội phạm chưa bị phát hiện và không có tác
hiện, tội phạm vẫn còn ẩn.
dụng phòng ngừa tội phạm. Hay nói cách
+ Từ những thông tin ban đầu, vụ án khác, nó vẫn tồn tại ở trạng thái ẩn. Do đó,
được khởi tố, điều tra. Nhiều thông tin nên coi “chưa bị phát hiện” và “chưa bị xử
(chứng cứ) mới được thu thập bằng những lý” là hai dấu hiệu độc lập trong khái niệm
hoạt động điều tra nhưng chưa đủ để chứng tội phạm ẩn. Trong khái niệm về tội phạm
minh tội phạm, người phạm tội. Hết hạn ẩn cần xác định rõ hơn là tội phạm, người
điều tra phải tạm đình chỉ hoặc đình chỉ, sau phạm tội “chưa bị xử lý về hình sự”. Tức là
đó không phục hồi điều tra. Kể cả trường chưa bị xử lý bằng bất kỳ quyết định, bản án
hợp vụ án được đưa ra xét xử nhưng không nào của cơ quan tiến hành tố tụng, để cho
đủ chứng cứ để ra bản án kết tội mặc dù tội phạm rơi vào trạng thái ẩn.
thực tế có tội nhưng không điều tra được,
- Có nên xem là tội phạm ẩn khi tội
buộc phải tuyên vô tội. Trường hợp này cũng phạm bị phát hiện và xử lý nhưng sau đó
không thể nói tội phạm, người phạm tội đã không được thống kê? Trong lý luận Tội
bị phát hiện. Tội phạm vẫn còn ẩn vì chưa phạm học, có nhiều ý kiến thừa nhận tội
chính thức bị phát hiện.
phạm ẩn thống kê. Có nghĩa là vì lý do sai
Có thể khẳng định, tất cả những trường sót thống kê hay do quy định thống kê ràng
hợp trên đều được xem là tội phạm chưa bị buộc mà có nhiều tội bị bỏ lọt ra khỏi số liệu
phát hiện chính thức, một trong những dấu thống kê chính thức sau khi đã xử lý về hình
hiệu của tội phạm ẩn. Chúng tôi cho rằng tội sự. Chúng tôi đồng tình với quan điểm
phạm chỉ được coi là bị phát hiện chính thức không coi trường hợp tội phạm bị xử lý khi:
nhưng không được thống kê là tội phạm
1) Chủ thể phát hiện là cơ quan có thẩm ẩn17 , bởi vì mục tiêu của phòng, chống tội
quyền tiến hành tố tụng, có quyền và nghĩa phạm phải hướng đến mọi tội phạm phải
vụ giải quyết vụ án hình sự.
được phát hiện, xử lý kịp thời, nhanh chóng,
không làm oan, không bỏ lọt và hậu quả tội
2) Kết quả phát hiện phải được chứng phạm được ngăn chặn, khắc phục kịp thời.
minh với đầy đủ chứng cứ tội phạm và Việc thống kê tội phạm cần phải đầy đủ hay
người đã thực hiện tội phạm. Trong giai không, không phải là mục tiêu chính của
đoạn điều tra, truy tố, xét xử đều có khả phòng, chống tội phạm, mà đó là vấn đề
năng xác định tội phạm đã bị phát hiện (rõ) nhận thức về tình hình tội phạm. Sai sót
thông qua các chứng cứ được cơ quan có thống kê tội phạm không cần một sự nỗ lực
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập, nào về mặt tố tụng mà đó chỉ là vấn đề kỹ
chứng minh bằng các hoạt động điều tra thuật và nghiệp vụ thống kê. Hơn nữa, tội
như khám nghiệm hiện trường, xem xét vật phạm và người phạm tội đã được chứng
chứng, lấy lời khai những người tham gia tố minh và được giải quyết bằng một bản án,
tụng... Nếu tội phạm chưa bị phát hiện bởi quyết định chính thức của cơ quan tiến hành
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với tố tụng, được tuyên hay công bố công khai
những chứng cứ rõ ràng thì đó là tội phạm thì không thể xem tội phạm còn ẩn mà là tội
chưa bị phát hiện chính thức, là tội phạm ẩn.
phạm đã rõ. Mặt khác, việc nhận thức về
- Cần xem “chưa bị xử lý về hình sự” tình hình tội phạm và xây dựng chương
là dấu hiệu độc lập của tội phạm ẩn. Bởi vì trình, kế hoạch phòng chống tội phạm
17 Trần Hữu Tráng (2000), “Một số vấn đề về tình hình
Dương Tuyết Miên (2010), “Tình hình tội phạm”,
tội phạm ẩn ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (3), tr.15; Giáo trình tội phạm học, Nxb. Giáo dục Việt Nam,
Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và tr. 85.
phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, tr. 94;
không chỉ dựa vào mỗi số liệu tội phạm, tố tụng còn hạn chế... Vì thế, mặc dù đã có
người phạm tội được thống kê. Do đó, tội thông tin về tội phạm nhưng không đủ cơ
phạm đã bị xử lý, mặc dù không có trong sở để khẳng định tội phạm đã bị phát hiện.
thống kê hình sự thì cũng không còn ẩn nữa. Ví dụ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
- Các quan điểm nêu trên cũng ít chú tụng phát hiện có xác chết đã bị phân hủy
ý phân biệt tội phạm ẩn với tình hình tội được nghi là nạn nhân bị giết nhưng không
phạm ẩn (phần ẩn của tội phạm) nên có khi có khả năng chứng minh nạn nhân bị giết
còn dùng lẫn lộn trong khái niệm tội phạm hay chết vì bệnh tật, té ngã.
ẩn. Có tác giả xem “phần ẩn của tình hình
(2) Dấu hiệu người phạm tội chưa bị phát
tội phạm” và “tội phạm ẩn” đều là những hiện chính thức. Có hai trường hợp:
cụm từ cùng nghĩa khác âm18, theo chúng tôi
- Một là, do không phát hiện được tội
là không hợp lý. Vì vậy, bàn về khái niệm phạm nên cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tội phạm ẩn cần chú ý sử dụng các thuật ngữ tố tụng cũng không phát hiện được người
tiếp cận tội phạm chưa bị phát hiện, xử lý ở phạm tội. Như vậy, dấu hiệu tội phạm chưa
mức độ tội phạm ẩn (hành vi) cùng với chủ bị phát hiện đã bao hàm dấu hiệu người
thể của hành vi đó, chứ không phải ở mức phạm tội chưa bị phát hiện.
độ tổng thể là phần ẩn (gồm nhiều tội phạm
- Hai là, có những hành vi phạm tội
ẩn) trong cấu trúc thực trạng tình hình tội thực tế đã được thực hiện, các cơ quan có
phạm. Mối quan hệ giữa “tình hình tội thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng đã phát
phạm ẩn” hay “phần ẩn của tình hình tội hiện (chứng minh) tội phạm nhưng lại
phạm” với “tội phạm ẩn” là mối quan hệ không hoặc chưa phát hiện người phạm tội.
“cái chung” - “cái riêng”.
(3) Tội phạm và người phạm tội chưa bị
Từ những vấn đề trên, chúng tôi đưa ra xử lý về hình sự mặc dù đã bị phát hiện chính
khái niệm tội phạm ẩn được hiểu như sau: thức:
“Tội phạm ẩn là tội phạm đã được thực hiện
trên thực tế cùng với chủ thể của nó nhưng

Nếu tội phạm và người phạm tội không
chưa bị các cơ quan có thẩm quyền tiến hành bị phát hiện, chắc chắn không bị xử lý về
tố tụng phát hiện chính thức hoặc tuy đã bị hình sự, vì vậy tồn tại tội phạm ẩn.
phát hiện nhưng không bị xử lý về hình sự”.
Nếu tội phạm, người phạm tội đã bị
phát hiện (có căn cứ) nhưng không bị xử lý
Khái niệm tội phạm ẩn cho thấy có ba thì vẫn coi là tội phạm ẩn. Việc tội phạm và
dấu hiệu độc lập của tội phạm ẩn:
người phạm tội không bị xử lý về hình sự
(1) Dấu hiệu tội phạm chưa bị phát hiện
không chỉ là “chưa bị đưa ra xét xử” như
chính thức. Dấu hiệu này có hai trường hợp: quan niệm của một số tác giả19.
- Một là, tội phạm đã được thực hiện
Như vậy, với ba dấu hiệu trên, tính chất
nhưng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tội phạm, người phạm tội chưa bị phát hiện
tụng hoàn toàn không có thông tin về và chưa bị xử lý tội phạm của tội phạm ẩn
chúng. Ví dụ, tài sản của cơ quan bị tham ô được nhận thức rõ hơn trong khái niệm tội
mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phạm ẩn. không biết.
Nhìn chung, đối với Tội phạm học ở
- Hai là, cơ quan tiến hành tố tụng có Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu
thông tin ban đầu về tội phạm do được cung về tội phạm ẩn nhưng vẫn còn một số hạn
cấp tin báo hoặc tự phát hiện ở hiện trường chế như sau:
vụ án... nhưng không thể chứng minh được
sự thật có phải là tội phạm hay không vì
Thứ nhất, chưa có sự thống nhất trong
những trở ngại khách quan hoặc trình độ khái niệm và các dấu hiệu của tội phạm ẩn.
chuyên môn, kỹ thuật của cơ quan tiến hành
18 Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình 19 Dương Tuyết Miên (2010), “tlđd chú thích 2, tr.
hình tội phạm ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr. 67. 841.
Thứ hai, nội dung nghiên cứu chưa có vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân
tính toàn diện, bao quát về những vấn đề lý dân.
luận của khái niệm “tội phạm ẩn”.
8. Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội
Thứ ba, các tài liệu nghiên cứu về tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện
nay, Luận án tiến sĩ luật học.
phạm ẩn chưa nêu hết ý nghĩa đối với nhận
thức khái niệm tội phạm ẩn và những đặc
9. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý
luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam, Nxb. Tư
điểm của tội phạm ẩn. pháp.
Do đó, trong Tội phạm học Việt Nam,
10. Trần Hữu Tráng (2000), “Một số vấn đề về
về mặt lý luận còn có sự thiếu thống nhất tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam”, Tạp chí Luật
trong quan niệm tội phạm ẩn và chưa được học (3).
nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về tội
11. Frank Schmalleger (2002), Criminology
phạm ẩn, vì thế chưa thể đóng vai trò là nền Today, The University of North Carolina at
tảng lý luận cho quá trình nhận thức và đấu Pembroke, Prentice Hall Publisher.
tranh với tội phạm ẩn. Thực tiễn phòng
12. Timothy Mason (2006), Bài giảng
chống tội phạm có khi còn ngộ nhận về tội “Official statistics & the dark figure”, Paris
phạm ẩn và xem nhẹ việc phòng chống tội University.
phạm ẩn làm cho tình hình tội phạm trở nên
13. Jock Young (2009), Bài giảng “Entend of nghiêm trọng hơn. Crime”,
Web:www.malcolmread.co.ukJockYoung
Chính từ những hạn chế như trên, tác the_extent_of_crime.pdf
giả hy vọng kết quả nghiên cứu khái niệm
14. http:/www.deviance 2-official statistics
tội phạm ẩn trong bài viết góp một phần vào & the dark figure.htm
hệ thống lý luận về tội phạm ẩn ở Việt Nam.
15. http://en.wikipedia.org/wiki/Dark_figu
Đồng thời, với cách hiểu một cách toàn diện re_ of_crime)
về khái niệm tội phạm ẩn giúp xác định
những vấn đề liên quan đến tội phạm ẩn, từ
đó có thể định hướng cho thực tiễn phòng,
chống tội phạm nhằm hạn chế, khắc phục
thực trạng ẩn của tội phạm và nâng cao hiệu
quả phòng chống tội phạm nói chung./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Tuyết Miên (2010), “Tình hình tội
phạm”, Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
2. Khiếu Mạnh Hùng (2002), “Tình trạng tội
phạm”, Giáo trình Tội phạm học, Học viện Cảnh sát nhân dân.
3. Lý Văn Quyền (2007), “Tình hình tội
phạm”, Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân.
4. Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả (1994), Tội
phạm ở Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp
, Nxb. Công an nhân dân.
5. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học
hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an nhân dân.
6. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng
Việt, Nxb. Văn hóa thông tin.
7. Phạm Văn Tỉnh (2000), “Nghiên cứu tình
hình tội phạm”, Tội phạm học Việt Nam, một số