Tài liệu tham khảo - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán

Tài liệu tham khảo - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Tài chính - Kế toán 57 tài liệu

Thông tin:
5 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tài liệu tham khảo - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán

Tài liệu tham khảo - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

39 20 lượt tải Tải xuống
2.1.1. Thành tựu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong 35 năm qua nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát trển
đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; trong đó có thành tựu quan trọng về
nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
Càng ngày chúng ta càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng
trong từng giai đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ “có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011). Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Không ngừng hoàn
thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh cùng thắng.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu ra
quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi
lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Đây là dấu mốc quan trọng trong
quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền
đề để từng bước phát triển nền kinh tế của đất nước. Quá trình vận dụng quy luật
và xuất phát từ thực tiễn đất nước, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989),
Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật
từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn
theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa
hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình
đẳng trước pháp luật”. (4)
Nhìn tổng thể trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát triển
đất nước. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước
ta. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng
phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất
để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang là
một yêu cầu cấp thiết.
2.1.2. Hạn chế
Trong nhận thức giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất quan hệ
sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng
phải thấy rằng, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu
thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất,
làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất cả quan hệ sản xuất. Mặc
đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước thu nhập
trung bình thấp, song thực chất vẫnnước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu đến
năm 2020 nước ta bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
chưa thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ
trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao động,
hiệu quả, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) thấp.
Lực lượng sản xuất yếu kém sẽ tác động tới quy định trình độ, chất lượng của
quan hệ sản xuất. Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn
thiện các mặt của quan hệ sản xuất. Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ
sở hữu hơn là cải tiến, đổi mới quan hệ quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm.
Chúng ta phải thấy rằng, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đang thực hiện kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, chưa lực
lượng sản xuất công nghiệp hiện đại làm sở cho quan hệ sản xuất mới. Cho
nên, không thể nóng vội trong xây dựng quan hệ sản xuất, song cũng không
được coi nhẹ việc xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất từng bước theo định
hướng hội chủ nghĩa, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Nhưng, trong thực tế hiện nay kinh tế nhà nước chưa thực sự giữ vai trò chủ
đạo, bởi nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, chưa làm gương để
dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình
trạng sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm thất thoát
tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội.
2.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
* Nguyên nhân của thành tựu
Đảng và Nhà nước ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật
của kinh tế thị trường. Đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đại và chủ động hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế Việt
nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật”(5); thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân
bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà
nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và
bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển
kinh tế- xã hội, xây dựng và phát triển bền vững đất nước.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức, kinh tế số nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng
hoá dịch vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực,
tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại
trong điều của cuộc cách mạng 4.0. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính
sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng
dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị nhà nước. Đổi mới thể chế
nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ,
tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã hội.
* Nguyên nhân của hạn chế
Quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu, nhất là trong quản
lý vốn, do đó thời gian trước năm 2016 có nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan,
ngoài ngành nhiều, bị “lợi ích nhóm” chi phối, vi phạm pháp luật, nợ xấu tăng
lên làm khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhiệm kỳ 2016-
2021 đang tích cực xử lý giải quyết hậu quả.
Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, nhiều hợp tác xã trong nông nghiệp mang
tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ không
chia trong hợp tác xã rất thấp, trình độ khoa học - công nghệ, quy mô và trình độ
quản lý kinh tế yếu kém.
Tư duy phát triển kinh tế - hội phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm
đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu thống nhất, thiếu tính hệ
thống; khâu tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, quyết liệt, vẫn còn tình trạng
dễ làm khó bỏ; quản lý, quản trị nhà nước còn nhiều yếu kém; chưa thể chế hóa
kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp
tính khả thi, hiệu quả. Đồng thời, một số chủ trương chưa đủ hoặc chưa
phù hợp, chưa sự thống nhất thông suốt các cấp, các ngành, còn trên
nóng, dưới lạnh”. Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí cán bộ cao cấp rơi vào
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích
nhóm”, năng lực, phẩm chất uy tín không đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc đổi mới phát triển bền vững đất nước.
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa việc vận dụng quy luật biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Đảng ta hiện nay
- Cần xác định rõ phương hướng phát triển lượng sản xuất song song hoàn
thiện quan hệ sản xuất.
- Thực hiện hiệu quả quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thông qua việc nâng cao trình độ học vấn, đào tạo tay
nghề cho người lao động , đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thuật, trang bị máy móc hiện
đại theo kịp sự phát triển của khoa học kĩ thuật.
- Phát triển nền kinh kế đa dạng thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền kinh tế tri thức hội nhập với nền kinh tế quốc tế đa phương. Phát
huy tích cực vai trò quản lí, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong mọi vấn đề
xã hội cũng như trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế thị trường, đổi
mới về chính trị xã hội, ổn định đời sống của nhân dân.
- Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo đặc
biệt là đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, nhằm
đẩy mạnh phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng.
- Hoàn thiện chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa để hoàn
thiện quan hệ sản xuất.
- Tăng cường những bước bản về sở vật chất cho khoa học công nghệ,
tập trung xây dựng một số phòng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực
trên các lĩnh vực công nghệ trọng điểm như công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, hóa dầu….
Tài liệu tham khảo
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-moi-quan-he-giua-phat-trien-
luc-luong-san-xuat-va-xay-dung-hoan-thien-tung-buoc-quan-he-san-xuat-
trong-dieu-kien-hien-nay-o-viet-nam.html
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-ngan-hang-thanh-
pho-ho-chi-minh/triet/chu-de-quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-voi-
trinh-do-phat-trien-cua-luc-luong-san-xuat-va-su-van-dung-quy-luat-nay-
trong-cong-cuoc-doi-moi-o-viet-nam/23043203
| 1/5

Preview text:

2.1.1. Thành tựu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong 35 năm qua nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát trển
đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; trong đó có thành tựu quan trọng về
nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
Càng ngày chúng ta càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng
trong từng giai đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ “có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011). Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Không ngừng hoàn
thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh cùng thắng.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu ra
quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi
lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Đây là dấu mốc quan trọng trong
quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền
đề để từng bước phát triển nền kinh tế của đất nước. Quá trình vận dụng quy luật
và xuất phát từ thực tiễn đất nước, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989),
Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật
từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn
theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa
hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình
đẳng trước pháp luật”. (4)
Nhìn tổng thể trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát triển
đất nước. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước
ta. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng
phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất
để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang là
một yêu cầu cấp thiết. 2.1.2. Hạn chế
Trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng
phải thấy rằng, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu
thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất. Mặc
dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu nhập
trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
chưa thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ
trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao động,
hiệu quả, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) thấp.
Lực lượng sản xuất yếu kém sẽ tác động tới quy định trình độ, chất lượng của
quan hệ sản xuất. Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn
thiện các mặt của quan hệ sản xuất. Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ
sở hữu hơn là cải tiến, đổi mới quan hệ quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm.
Chúng ta phải thấy rằng, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đang thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa có lực
lượng sản xuất công nghiệp hiện đại làm cơ sở cho quan hệ sản xuất mới. Cho
nên, không thể nóng vội trong xây dựng quan hệ sản xuất, song cũng không
được coi nhẹ việc xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất từng bước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Nhưng, trong thực tế hiện nay kinh tế nhà nước chưa thực sự giữ vai trò chủ
đạo, bởi vì nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, chưa làm gương để
dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình
trạng sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm thất thoát
tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội.
2.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
* Nguyên nhân của thành tựu
Đảng và Nhà nước ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật
của kinh tế thị trường. Đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đại và chủ động hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế Việt
nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật”(5); thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân
bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà
nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và
bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển
kinh tế- xã hội, xây dựng và phát triển bền vững đất nước.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức, kinh tế số nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng
hoá dịch vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực,
tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại
trong điều của cuộc cách mạng 4.0. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính
sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng
dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị nhà nước. Đổi mới thể chế
nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ,
tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã hội.
* Nguyên nhân của hạn chế
Quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu, nhất là trong quản
lý vốn, do đó thời gian trước năm 2016 có nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan,
ngoài ngành nhiều, bị “lợi ích nhóm” chi phối, vi phạm pháp luật, nợ xấu tăng
lên làm khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhiệm kỳ 2016-
2021 đang tích cực xử lý giải quyết hậu quả.
Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, nhiều hợp tác xã trong nông nghiệp mang
tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ không
chia trong hợp tác xã rất thấp, trình độ khoa học - công nghệ, quy mô và trình độ
quản lý kinh tế yếu kém.
Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm
đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu thống nhất, thiếu tính hệ
thống; khâu tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, quyết liệt, vẫn còn tình trạng
dễ làm khó bỏ; quản lý, quản trị nhà nước còn nhiều yếu kém; chưa thể chế hóa
kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp có
tính khả thi, hiệu quả. Đồng thời, có một số chủ trương chưa đủ rõ hoặc chưa
phù hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở các cấp, các ngành, còn “ trên
nóng, dưới lạnh”. Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí là cán bộ cao cấp rơi vào
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích
nhóm”, năng lực, phẩm chất và uy tín không đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc đổi mới phát triển bền vững đất nước.
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa việc vận dụng quy luật biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Đảng ta hiện nay
- Cần xác định rõ phương hướng phát triển lượng sản xuất song song hoàn
thiện quan hệ sản xuất.
- Thực hiện hiệu quả quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thông qua việc nâng cao trình độ học vấn, đào tạo tay
nghề cho người lao động , đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thuật, trang bị máy móc hiện
đại theo kịp sự phát triển của khoa học kĩ thuật.
- Phát triển nền kinh kế đa dạng thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền kinh tế tri thức hội nhập với nền kinh tế quốc tế đa phương. Phát
huy tích cực vai trò quản lí, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong mọi vấn đề
xã hội cũng như trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế thị trường, đổi
mới về chính trị xã hội, ổn định đời sống của nhân dân.
- Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo đặc
biệt là đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, nhằm
đẩy mạnh phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng.
- Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn
thiện quan hệ sản xuất.
- Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật chất cho khoa học – công nghệ,
tập trung xây dựng một số phòng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực
trên các lĩnh vực công nghệ trọng điểm như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, hóa dầu…. Tài liệu tham khảo
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-moi-quan-he-giua-phat-trien-
luc-luong-san-xuat-va-xay-dung-hoan-thien-tung-buoc-quan-he-san-xuat-
trong-dieu-kien-hien-nay-o-viet-nam.html
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-ngan-hang-thanh-
pho-ho-chi-minh/triet/chu-de-quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-voi-
trinh-do-phat-trien-cua-luc-luong-san-xuat-va-su-van-dung-quy-luat-nay-
trong-cong-cuoc-doi-moi-o-viet-nam/23043203