




Preview text:
lOMoAR cPSD| 45470709
HỌC PHẦN VẬT LÝ – LÝ SINH
Tài liệu tham khảo cho sinh viên
ỨNG DỤNG HIỆN TƯỢNG MAO DẪN
TRONG DẪN LƯU DỊCH VIÊM MÔ TẾ BÀO
Viêm mô tế bào là tình trạng viêm nhiễm xảy ra ở mô mềm vùng cổ mặt có thể
khu trú ở một vùng giải phẫu hoặc tiến triển sang các vùng lân cận gây bệnh cảnh
nhiễm khuẩn lan tỏa vùng cổ mặt.
Viêm mô tế bào vùng cổ mặt thường là do lan tràn nhiễm khuẩn trực tiếp từ ổ
nguyên phát hoặc nhiễm khuẩn thứ phát từ các khoan lân cận.
Hình 1: Hướng lan truyền từ nhiễm trùng chóp chân răng. 1- Hành lang; 2-
Vùng má; 3- Khẩu cái; 4- Vùng dưới lưỡi; 5- Vùng dưới hàm; 6- Xoang hàm
Hướng lan truyền nhiễm khuẩn phụ thuộc vào giải phẫu học của vùng viêm với các mô lân cận.
Quá trình tiến triển của một tổn thương do sâu răng khi không được điều trị hợp
lý có thể tóm lược như sau:
Sâu răng gây hoại tử tủy, vi trùng sau một thời gian khu trú tại ống tủy sẽ
vượt qua chóp răng gây nhiễm trùng các cấu trúc quanh chóp răng: viêm quanh
chóp cấp do nhiều nguyên nhân khác nhau như thể trạng kém, thủ thuật quá thô
bạo trong ống tủy…; nhiễm trùng từ mô nha chu cũng có thể lan đến vùng quanh
chóp theo đường dây chằng.
Nhiễm trùng từ vùng chóp sẽ lan theo nhiều hướng và phát triển mạnh theo
hướng có đề kháng ít nhất, nhiễm trùng lan rộng qua xương, đến vỏ xương làm
bong màng xương tạo tổn thương dưới màng xương, nếu tiếp tục đi xuyên qua
lớp màng xương đến mô tế bào quanh hàm gây ra viêm mô tế bào, biểu hiện bằng lOMoAR cPSD| 45470709
sưng phồng ngách lợi. Nếu được điều trị thích hợp bằng phương pháp nội nha
tiêu chuẩn, nhiễm trùng sẽ được ngăn chặn tại đây. Nếu chỉ sử dụng kháng sinh
đơn thuần, có thể làm ngưng phát triển của nhiễm trùng nhưng sẽ tái phát khi
ngưng thuốc và răng nguyên nhân chưa được điều trị. Nếu không được điều trị,
nhiễm trùng tiếp tục phát triển và sẽ hình thành túi mủ: áp-xe.
Từ đây, nhiễm trùng sẽ tiến triển theo nhiều hướng khác nhau tùy vào vị trí
giải phẫu của từng răng. Vị trí của nhiễm trùng sẽ được xác định tùy thuộc vào
hai yếu tố sau: độ dày của lớp xương bao phủ chung quanh vùng chóp và vị trí
xuyên thủng xương của nhiễm trùng so với chỗ bám của cơ ở hàm trên và dưới.
Hình 2: Hướng tiến triển ra ngoài đối với các tổn thương từ các răng cối
hàm dưới
1- Tổn thương dưới màng xương
a. Vị trí nhiễm trùng ở chóp răng
b. Vị trí nhiễm trùng ở dưới màng xương
2- Tổn thương tại mô tế bào
a. Vị trí nhiễm trùng phá hủy màng xương b. Mô tế bào
3- Áp-xe xuyên qua cơ mút và niêm mạc miệng a. Cơ mút
4- Áp-xe dưới cơ mút và cân cổ nông
a. Vị trí nhiễm trùng ở mô tế bào b. Cân cổ nông
5- Áp-xe tiến triển ra da
CÁC GIAI ĐOẠN TRÍCH RẠCH ÁP-XE
Gồm 4 giai đoạn chính: Vô cảm- Trích rạch- Tách bóc- Dẫn lưu. lOMoAR cPSD| 45470709 Tư thế bệnh nhân
Những áp-xe nhỏ, tình trạng bệnh nhân nhẹ, cho phép trích rạch theo đường
trong miệng, nên để bệnh nhân ngồi trên ghế nha khoa có tựa đầu giống như tư thế nhổ răng.
Những bệnh nhân nặng, có áp-xe lớn cần phải được tiến hành trích rạch trong
phòng mổ, ở tư thế nằm, có truyền dịch và theo dõi hồi sức. Khi trích rạch trong
miệng ở tư thế nằm cần phải có máy hút để tránh mủ chảy ngược vào phổi gây nguy hiểm.
Xác định vị trí áp-xe
Có hai cách xác định vị trí bọc mủ: -
Sờ: dùng cảm giác xúc giác của các đầu ngón tay, sờ và ấn nhẹ trên vùng
sưng viêm. Nơi nào mềm nhất và đau nhất, thường nơi đó có màu đỏ nhất là nơi tụ mủ. -
Chọc dò: dùng ống tiêm và kim chọc dò có nòng rộng, đường kính khoảng
1mm, dài từ 5-7mm, chọc hút ở vùng nghi tụ mủ.
Khi lấy được dịch viêm hay mủ, cần quan sát màu sắc và mùi. Mủ vàng mùi
thối thường là do liên cầu trùng (Streptococcus), mủ đen bẩn mùi khắm là do vi
trùng kỵ khí, mủ xanh không mùi thường do vi khuẩn lao.
Có thể ước đoán lượng mủ trong ổ viêm nhờ áp suất lúc chọc dò. Cuối cùng
nên lấy mủ gởi xét nghiệm tìm vi khuẩn trực tiếp, nuôi cấy hay làm kháng sinh đồ.
Nếu chọc hút mà không tìm được mủ, có thể do các lý do sau: - Mủ chưa gom tụ -
Bọc mủ ở quá sâu, kim chọc chưa tới. - Kim đi sai hướng ổ mủ. -
Kim chọc hút quá nhỏ hay bị tắc.
Cần kiểm tra lại các nguyên nhân trên.
Phương pháp vô cảm
Có thể chọn phương pháp gây tê hay mê tùy vào tình trạng bệnh nhân, mức
độ áp-xe, điều kiện trang thiết bị cùng nhân viên gây mê hồi sức. Đa số trường
hợp rạch áp-xe đều thực hiện dưới gây tê tại chỗ.
Nếu gây tê, nên gây tê vùng, hoặc gây tê tại chỗ ở cách xa nơi tụ mủ vỡ, vì
nếu chích trực tiếp vào vùng tụ mủ thuốc tê sẽ ít tác dụng và áp lực khi bơm
thuốc sẽ làm lan truyền nhiễm trùng đi xa.
Đối với một số áp-xe nông, khu trú, có thể gây tê bề mặt bằng thuốc tê thoa hay gây tê tạo lạnh.
Nếu gây mê và trích rạch theo đường trong miệng, bắt buộc phải gây mê nội
khí quản để đề phòng mủ chảy vào phổi. Thường chỉ định gây mê được áp dụng
đối với trẻ em hay người lớn có những áp-xe lớn ở vùng sàn miệng, dưới hàm.
Phương pháp trích rạch
1. Đường rạch Yêu cầu: -
Đủ dài, để thoát mủ, dẫn lưu, nhưng vẫn phải đảm bảo thẩm mỹ. lOMoAR cPSD| 45470709 -
Đủ sâu, tới được bọc mủ nhưng cần tránh các cấu trúc giải phẫu quan
trọng như: thần kinh cằm, bó mạch thần kinh dưới ổ mắt, các nhánh dây
thần kinh mặt, ống Wharton. Khi vào đến lớp cơ, phải dùng kẹp không
mấu tách song song với các sợi cơ để tránh làm đứt chúng. -
Đường rạch phải ở chỗ thấp nhất của túi mủ để đảm bảo dẫn lưu tốt.
Ngày nay, để đảm bảo thẩm mỹ, người ta tiến hành rạch các áp-xe ngoài da
từ xa chỗ túi mủ, bên cạnh áp-xe vì các đường rạch trực tiếp trên bề mặt áp-xe
hay bị loét, hoại tử gây sẹo xấu.
Rạch bằng dao mổ, thông thường lưỡi số 11. Đầu nhọn của lưỡi dao sẽ giúp
ít đau hơn khi rạch bằng lưỡi dao số 15 do làm giảm áp lực lên áp-xe (hình 3).
Hình 3: Sử dụng dao số 11 để rạch áp-xe 2. Tách bóc
Dùng kẹp cong không mấu đi sâu, tách rộng tổ chức dưới da và cơ để đến ổ
áp-xe. Nếu bọc mủ ở sâu, nên lưu kim chọc dò tại chỗ, sau đó dùng kẹp bóc tách
nhẹ nhàng bám theo kim để đến chỗ bọc mủ.
Khi tách bóc cần nhẹ nhàng, đi vào dần từng lớp để phá vỡ các túi mủ bên
trong ổ áp-xe. Khi mủ chảy ra dùng khay hạt đậu hứng để quan sát màu sắc và
khối lượng. Đối với các túi mủ trong miệng, nên hút trực tiếp mủ thoát ra khi
rạch và tránh không cho chảy trực tiếp vào xoang miệng. 3. Dẫn lưu
Đối với áp-xe nhỏ và nông, có thể dùng: -
Dùng chỉ cước nilon hay catgut chrome luồn vào ổ mủ. - Dùng lá cao su. -
Dùng mèche thường hay có tẩm iodoforme
Đối với các áp-xe lớn và sâu: dùng ống dẫn lưu đường kính 5mm, cắt nhiều
lỗ thủng trên thành ống, có thể đưa phần giữa ống vào ổ mủ, hai đầu ống đưa ra ngoài.
Hình 4: Các giai đoạn tiến hành rạch áp-xe
a- Vị trí áp-xe tại đáy hành lang vùng răng cối nhỏ dưới
b- Rạch áp-xe bằng lưỡi dao số 11 c- Dùng kẹp bóc tách lOMoAR cPSD| 45470709
các ổ mủ bên trong áp-xe d- Đặt dẫn lưu và khâu cố định
ống dẫn lưu e- Khâu cố định ống dẫn lưu CÁC HÌNH THỨC DẪN LƯU
Đối với áp-xe nhỏ và nông, có thể dùng: -
Dùng chỉ cước nylon, catgut chrome - Dùng penrose (dải/lá cao
su mỏng). - Dùng mèche (bấc).
Đối với các áp-xe lớn, sâu: dùng ống dẫn lưu.