/40
lOMoARcPSD| 61570513
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
Mục tiêu ng đầu của Hồ Chí Minh vcách mạng giải phóng dân tộc chính việc
tập hợp được tất cả các lực lượng quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân và
nông dân để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, đi theo con
đường cách mạng vô sản.
Với việc tiếp thu những tưởng, luận sắc bén của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã những bước chuyển biến về chất trong tưởng của mình.
Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến
giác ngộ giai cấp và từ một người con yêu nước thành một người cộng sản.
Người đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch scủa dân tộc
để đưa ra những đường lối đúng đắn đối với cách mạng ớc ta. Đồng thời, Hồ
Chí Minh cũng nhấn mạnh vai trò của việc đoàn kết với phong trào cách mạng
quốc tế, không để chnghĩa bản có điều kiện lập phong trào giành độc lập
và các cuộc cách mạng tư ở từng quốc gia, từng thuộc địa.
Với hàng loạt các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường
Kách mệnh (1927), văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình Điều lệ vắn tắt của Đảng… đã đánh dấu sự hình thành bản của
ởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dântộc:
Do không ít các quan điểm, những luồng ý kiến khác nhau về nội dung tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, em xin phép được nêu vắn tắt
thành một hthống luận điểm sau đây:
2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sn:
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quc
một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa.
Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức
phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa; phải xem cách mạng thuộc địa như “một trong những cái cánh
của cách mạng vô sản”; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường cách mạngsản.
2.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đoàn kết
toàndân trên cơ sở liên minh công – nông:
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc việc chung của dân chúng,
vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền, nhưng trong sự tập hợp đó, luôn phải nhớ: “Công nông là người chủ cách
mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
lOMoARcPSD| 61570513
Như vậy, tổ chức chính trị thể thực hiện việc quy tụ, tập hợp rộng rãi mọi tầng
lớp nhân dân “Mặt trận dân tộc thống nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
tạo ra sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; đấu
tranh chống lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai.
2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạovà có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính
quc:
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi tớc cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm
mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ
đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực
tiếp vào thắng lợi của cách mạng sản chính quốc. Do nhận thức được thuộc
địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người
đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến
rất quan trọng vào kho tàng luận Mác Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng
Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương phápcách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang:
Theo HChí Minh, cách mạng bạo lực sử dụng bạo lực cách mạng của quần
chúng nhân dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của bọn xâm lược cấu kết
với những kphản động. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ t
của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền bảo vệ chính quyền. Tháng 5/1941, tại Hội
nghị Trung Ương VIII, Người cũng đã đưa ra nhận định: “Cuộc cách mạng Đông
Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
3. Phân tích quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng
giảiphóng dân tộc:
3.1. Quan điểm trước đó của Quốc tế Cộng sn:
Từ năm 1919 đến năm 1928, Quốc tế Cộng sản vẫn luôn cho rằng: “Chỉ thể
thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi các nước bản tiên tiến”. Ý kiến này đã giảm tính chủ động,
sáng tạo của cách mạng thuộc địa, làm cho phong trào cách mạng các nước rơi
vào tình trạng thoái trào.
3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vtrí, vai trò của cách mạng thuộc địa
trong mối quan hệ với cách mạng sản chính quốc, Nguyễn Ái Quốc lại đưa
ra những quan điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản. Người khẳng
lOMoARcPSD| 61570513
định: “…Vận mệnh của giai cấp sản thế giới đặc biệt vận mệnh của giai
cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp
bị áp bức các thuộc địa… nọc độc sức sống của con rắn độc bản chủ nghĩa
đang tập trung các thuộc địa…”, nếu khinh thường cách mạng thuộc địa
tức là “…muốn đánh chết rắn đẳng đuôi”.
Người đã chỉ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ tìm ra được liều thuốc
vực dậy cuộc cách mạng thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn phê bình những
người cộng sn các nước bản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa không thực
hiện đúng di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; ngay cả những người
lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ cũng đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc, đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc phụ thuộc
vào sự nghiệp giải phóng giai cấp sản, coi phong trào giải phóng dân tộc “hu
bị quân” của cách mạng vô sn ở chính quốc.
Vận dụng công thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng dân tộc cần
được tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… Công cuộc giải phóng
anh em chỉ thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Theo
Người, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản, đế quc đều lấy ở các xứ thuộc địa.
Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vòi để minh họa cho chủ nghĩa bản lúc bấy
givới hai đầu hút máu chính quốc thuộc địa. Khi đánh vào đầu chính quốc,
nó sẽ tích cực hút máu thuộc địa làm cho sức sống của thuộc địa cạn kiệt, sức
đấu tranh không còn, con đỉa bị đánh nhanh chóng hồi phục quay lại chống
cách mạng chính quốc, điều đó không những gây tổn thất cho phong trào chống
cách mạng chính quốc mà còn khiến nó quen mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa tất yếu. Hồ Chí Minh đã chra rằng
nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng giải phóng
dân tộc sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng mà không
thdựa vào sự cầu vin bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc địa
sẽ là một lực lượng khổng lồ có thể làm nên sự nghiệp cách mạng.
Xem thêm: Phm chất đạo đức là gì? Những phẩm chất đạo đức cơ bản của
người Việt Nam?
Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa cùng với
các dân tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách mạng triệt để. Một mặt tấn
công ở chính quốc, đồng thời cũng tấn công thuộc địa, khi bị đau ở cả hai đầu,
“con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay về gisân nhà của mình, tạo đà cho cuộc cách
mạng thuộc địa giành thắng lợi.
Sau khi mất nguồn sinh lực của mình, sức mạng của chủ nghĩa tư bản dần dần bị
suy giảm, lúc ấy cách mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng. Ngưi
khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa thể nổ ra và giành thắng
lợi trước cách mạng sản chính quốc, rồi sau đó giúp đcho những người
anh em của mình ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
lOMoARcPSD| 61570513
Suy luận sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được Đại hội VII Quốc tế Cộng sản nhận
ra và lập tức chuyển hướng chiến lược, kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước và các
dân tộc áp bức đoàn kết lại”, chủ động thực hiện cách mạng đấu tranh giành độc
lập tự do của chính mình.
3.3. Lý giải cho sự hình thành tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địa sức
bật thuận lợi vì:
Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man của chủ nghĩa
đế quc nhiều nơi đã đẩy nhan dân thuộc địa vào khó khưn, túng quẫn; Điều đó
đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc bản trong nhân dân thuc
địa vô cùng sâu sắc.
Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc một sức mạnh to lớn, một vũ
khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được giác ngộ
và soi đường sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn thật sự, có thể đánh đổ được chủ
nghĩa tư bản.
Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa một khâu yếu nhất trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước thời hiện đại đã thực sự trở thành động
lực giải phóng dân tộc.
3.4. Lý giải cho sự sáng tạo của Hồ Chí Minh:
thể thấy rằng trong công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa nửa thuộc
địa thì quan điểm : Chthể giải phóng các thuộc địa khi giai cấp sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở thành một tôn chỉ duy nhât, bất
di bất dịch, bởi đó là quan điểm xuất phát từ tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng đến Hồ
Chí Minh, Người lại khẳng định có thể xảy ra điều ngược lại. Điều đó trước hết bt
nguồn từ duy tầm nhìn của mỗi người. Không thể đi so sánh giữa Hồ Chí
Minh và Mác-Lênin, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố thời đại có nh
ởng không nhỏ đến tư tưởng của mỗi người.
Xem thêm: Phân tích giá trị và ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời C.Mác Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa bản đã được
mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển mạnh, bởi
vậy, theo các ông, vận mệnh loài người, tương lai của cách mạng giải phóng dân
tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng sản các nước
bản chủ nghĩa phát triển.
Đến thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách
mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc
cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa.
Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác “Vô sản tất cả các nước liên hợp lại”,
ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lOMoARcPSD| 61570513
lại”. Nhưng ông vẫn không nhận ra được cách mạng ở các nước thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh trên góc đcủa người thuộc địa, góc độ của các dân tộc
bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ nghĩa đế quc
đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một phần quan trọng nằm
thuộc địa. Mặt khác, so với những bậc tiền bối đi trước, Người có điều kiện để đi
nhiều nơi, tChâu Á sang Châu Âu, tới Châu Phi nên người điều kiện tìm hiểu,
tiếp cận cuộc sng những mảnh đất đó chứ không phải chỉ gói gọn trong mỗi
Châu Âu và một phần Châu Á (nước Nga) như Lênin,
Người nói: “Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang
tập trung ở các nước thuộc địa hơn chính quốc”. Đây điều quan trọng mà
Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, Người viết: “CNTB
là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi
khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vt y,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi.
Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai
cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”. Bởi vậy,
vừa phải tiến hành đồng thời cach mạng ở chính quốc và ở thuộc địa. Trên góc độ
phê phán ấy, người đã nhìn ra được khả năng cách mạng của các nước thuộc địa
đi đến khẳng định rằng: cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địa
khả năng giành thắng lợi tớc cách mạng vô sản chính quốc.
3.5. Ý nghĩa của quan điểm sáng tạo vgiải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh:
Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác
– Lênin
Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách mạng gii
phóng dân tc Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà
luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự ờng. Nhờ đó cách mạng Việt
Nam giành được thắng lợi đại. Đồng thời cũng góp phần định hướng cho
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ.
Thực tiễn cách mạng ở một sớc thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng
minh rằng đây là một tư ởng hoàn toàn đúng đắn.
Trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần củng cố khôi liên minh và xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc:
thể thấy việc sinh viên trách nhiệm trong việc củng cố góp phần khối đại đoàn kết
dân tộc là việc ý nghĩa hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đây cũng được coi
tưởng bản trong việc chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, hình thành sức mạnh vững
chắc, là một vấn đề sống của cách mạng :
-Thứ nhất: ý thức luôn được rèn dũa, nâng cao đạo đức mỗi ngày: Tôi sẽ luôn đặt trách nhiệm
và phẩm cách lên hàng đầu. Vì đối với một Đảng viên, việc đặt trách nhiệm phẩm cách sẽ
lOMoARcPSD| 61570513
quyết định tất cả trong công trình phát triển đất nước ta. Luôn luôn trau dồi phẩm chất tư cách,
hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và chính quyền giao phó. Sống hết lòng hết sức vì dân Đảng,
đối xử hoà đồng, tự nguyện phục vụ cho xã hội.
-Thứ hai: ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với công việc nghề nghiệp của mình. Tôi
sẽ luôn tham gia các hoạt động chuyên môn của nhà trường cũng như và Ngành tôi đang theo
đuổi. Tôi sẽ cố gắng hết sức trong việc học của mình, luôn luôn hoàn thành bài tập nhiệm
vụ đã được giao trước đó. Sẽ cống hiến hết mình cho nghề nghiệp của mình.
+ Thứ ba: sống chính trực, trung thực, dám đứng lên làm chứng, bảo vệ cho những điều đúng
đắn, bảo vệ đường lối chính sách, quan niệm của Đảng Cộng Sản. Luôn yêu thương người khó
khăn hơn mình, sống ngay thẳng, khiêm tốn trong mọi việc. Không đua theo thành tích trước
mắt, không giấu diếm, bảo vệ công lý, không ngại đưa ra khuyết điểm của mình. + Thứ :
Trong tiềm thức mỗi người phải luôn in sâu về việc giữ gìn đoàn kết quan nhà nước cũng
như quan đơn vị. Luôn khen thưởng những Đảng viên thành tích xuất sắc trước công
chúng. Đề cao ý thức trách nhiệm công việc cũng như trong cuộc sống.
-Thứ năm: ý thức tổ chức, kỷ luật, tự phê bình phê bình theo tấm ơng đạo đức Hồ Chí
Minh:
+ ý thức coi trọng tự phê bình phê bình bản thân. người sinh viên, tôi phải luôn cố
gắng hết sức mình trong mọi việc, nhất là trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Luôn tự kiểm điểm bản thân trong mọi việc. Thực hiện tốt nhiệm vụ của trường Đảng đưa
ra. Còn điều sai sót, trong tương lai tôi sẽ cố gắng hơn để góp phần xây dựng Đảng ta.+ Đối
với bản thân của mỗi người sinh viên phải tự đặt mình và người khác trong một tổ chức. Làm
việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả và pháp luật. Đề cao ý thức của mỗi người trong công cuộc
xây dựng đất nước. Không chia bè chia phái, lôi kéo người khác làm những việc trái pháp luật.
Noi gương phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của mỗi sinh viên theo gương
chủ tịch Hồ Chí Minh:
một sinh viên tôi phải phấn đấu và trở nên gương mẫu trong các hoạt động xã hội, vận dụng
sáng tạo để góp phần cho đất nước ngày càng một phát triển mạnh mẽ hơn. Luôn giữ vững lập
trường của mình, dám nói lên tiếng nói của mình. Giữ chuẩn mực đạo đức của ông cha ta từ
xưa đến nay. Noi ơng theo chủ tịch Hồ Chí Minh đại.Và cũng như trong mọi hành động
và ý nghĩ, tôi sẽ luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo
tấm gương đại của Người. Thêm vào đó với việc xây dựng Đảng, tôi luôn cảnh giác với
những thế lực thù địch chống phá Việt Nam, bạo loạn lật đổ của các chủ nghĩa đế quốc. Luôn
trau dồi, học hỏi, học tập rèn luyện theo tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng Đảng
cũng như về sự nghiệp của thanh niên Việt Nam. Luôn trung thành tuyệt đối với Đảng và Nhà
nước.
Trong xu thế toàn cầu hiện này, bản thân ta là một sinh viên thì phải có trách nhiệm sáng suốt
trong việc chọn lọc thông tin. Không để bản thân sa lầy vào những hội phản động, lôi kéo lối
sống thực dụng. Sinh viên ngày nay phải tham gia vào các hoạt động tình nguyện giúp đỡ,
tuyên truyền ý thức tự giác, kỷ luật nhằm đẩy mạnh trong công tác xây dựng Đảng ta. Không
tự học suốt đời, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn của mình.Tuyên truyền đường lối chính
sách pháp luật của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Tìm biện pháp để phòng
chống suy thoái về phẩm chất đạo đức.
Khái quát về vị trí và vai trò của nh thần đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc chính một vấn đề chiến lược bảo đảm được thành công của
cáchmạng
Tư ởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một tưởng bản nhất quán luôn
xuyên suốt trong ến trình cách mạng của nước ta.
lOMoARcPSD| 61570513
Đoàn kết dân tộc chínhchiến lược để tập hợp mọi lực lượng nhằm tạo thành sức mạnh to
lớn trong công cuộc đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi, giành độc lập dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc chính là mục êu, là nhiệm vụ hàng của cách mạng
Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc luôn được quán triệu trong mọi chtrương, trong đường
lối và chính sách của Đảng, là lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng nước ta.
Trong các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thì nh thn
đại đoàn kết dân tộc luôn được coi mục êu hàng đầu. Đây là snghiệp của quần chúng,
do quần chúng và vì quần chúng.
Đảng sẽ có vai trò tập hợp hướng dẫn quần chúng, chuyển những đòi hỏi khách quan tự phát
của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành sức mạnh trong cuộc đấu tranh cách
mạng.
Như vậy có ththấy được rằng nh thần đại đoàn kết dân tộc có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với cách mạng ớc, nội dung ếp theo của bài viết này sẽ nêu ởng của Hồ Chí
Minh về nh thần đại đoàn kết dân tộc và liên hệ bản thân về đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nh thần đại đoàn kết dân tộc
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn đề đại đoàn kết dân tộc là một cống hiến có
giá trị to lớn, được thể hiện thông qua những nội dung cơ bản dưới đây:
Đại đoàn kết n tộc một trong những hthống quan điểm, các nguyên tắc tổ chc
tập hợp lực lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp trong hội, phát huy
đến mức cao nhất sức mạnh của cả dân tộc.
Tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc sự kết thừa và phát huy truyền thống
đoànkết, nhân ái của dân tộc Việt Nam.
Đây là một chiến lược nhất quán xuyên suốt trong việc tập hợp lực lượng cách mạng,
lànhân tố quyết định đến sự thành công của cách mạng ớc ta. Truyền thống yêu ớc,
nhân ái nh thần gắn kết cộng đồng của dân tộc chính những sở quan trọng trong
việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
Khối đại đoàn kết dân tộc phải được y dựng trên s lập trường của giai cấp
côngnhân phải lấy liên minh công nông trí làm nền tảng và do Đảng lãnh đạo. Nguyên tắc này
xuất phát từ việc đại đoàn kết không phải tập hợp các lực ợng hội một cách ngẫu nhiên
cần phải tập hợp một cách bền vững của các lực ợng tổ chức, định hướng
lãnh đạo.
Muốn đại đoàn kết thì cần phải thực hiện tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúngmột cách khéo léo để mọi người tự giác đoàn kết thực hiện, tự nguyện tham gia.
Tuy nhiên nếu muốn giáo dục, thuyết phục được quần chúng thì cần phải đường lối, chủ
trương đáp ứng được những nguyện vọng của quần chúng nhân dân-đây chính vấn đề quan
trọng hàng đầu.
Từ đó thấy dược rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc không chỉ có ý nghĩa
xuyên suốt trong ến trình cách mạng của nước ta còn ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong công cuộc hội nhập kinh tế hiện nay.
Tự liên hệ bản thân về vấn đề đại đoàn kết dân tộc
lOMoARcPSD| 61570513
Thực hiện đại đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và của mỗi cá nhân, ở
nội dung này sẽ liên hệ bản thân về đại đoàn kết dân tộc.
Mỗi nhân cần phải luôn phấn đấu, tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo
gươngcủa chủ tịch Hồ Chí Minh
Luôn cố gắng học tập rèn luyện, hoàn thành tốt những công việc nhiệm vụ được giao;
gương mẫu trong các hoạt động, ch cực vận dụng sáng tạo trong việc giải quyết công việc,
gương mẫu về mặt đạo đức và giữ vững lập trường.
Tùy theo sức vị trí của mình bản thân nhân luôn nâng cao nh thn cảnh giác,
chốngnhững luận điệu xuyên tạc về Đảng, về chtịch Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng cao
trình độ của bản thân để có thể thích ứng được với điều kiện xã hội mới.
Đẩy mạnh công tác t học, tự bồi ỡng đng cao kiến thức trình đchuyên
môncủa bản thân. Thực hiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
ớc đến quần chúng nhân dân.
Cần phải ởng chính trị vững vàng, xác định phấn đấu một mục êu chung
làhiệu quả công việc, không gây mất đoàn kết trong nội bộ.
Tương trợ, giúp đlẫn nhau để cùng ến bộ, đoàn kết nhưng không nghĩa bao
checho khuyết điểm của đồng chí đồng nghiệp mà mỗi cá nhân cần nêu cao nh thần tự phê
bình và phê bình.
Mỗi nhân cần dám nhận những thiếu sót, những khuyết điểm của bản thân, của
đồngnghiệp và thẳng thắn góp ý để cùng y dựng cùng chia sẻ nhng cái hay cái tốt và loi
bỏ dần những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm
túc, chân thành, đúng nơi đúng lúc.
CƠ SỞ ĐỂ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Tinh thần đại đoàn kết dân tộc một yếu tố xuyên suốt trong quá trình dựng nước giữa
nước của dân tộc ta.
Thực hiện việc xây dựng đại đoàn kết dân tộc trong một mặt trận thống nhất chính để tập
hợp để lãnh đạo quần chúng nhân dân trở thành một khối thống nhất về ý chí về nh
động.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nhằm tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu tranh độc lập
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng chính một thành viên của mặt trận đồng thời Đảng cũng chính lực lượng lãnh đạo.
Đảng không chỉ thực hiện việc xây dựng, thực hiện củng cố đại đoàn kết dân tộc mà Đảng còn
cần phải biến nguồn sức mạnh đó trở thành một khối vững chắc.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ chỉ thực sự phát huy được sức mạnh khi gắn liền với
đoàn kết quốc tế.
Ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc
tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh ý nghĩa chiến ợc cùng quan trọng,
đây cũng chính một tưởng bản, nhất quán xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Đây
chính là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được để hình thành sức mạnh to lớn
của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, với giai cấp.
lOMoARcPSD| 61570513
Trong từng thời kỳ, trong từng giai đoạn cách mạng thể và cần thiết thì sẽ phải điều chỉnh
chính sách, phương pháp tập hợp để phù hợp với những đối tượng khác nhau nhưng tinh thần
đại đoàn kết dân tộc phải luôn được nhận thức là một vấn đề sống còn của cách mạng.
Đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng
của nước ta. tưởng này được tập trung những nội dung như: đoàn kết chính bài học
hàng đầu, tính chiến lược quyết định mọi thành công. Thực hiện việc đoàn kết phải
nguyên tắc và vì mục tiêu và lợi ích chung.
Từ đó có thể thấy rằng tinh thần đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với dân tộc
ta. Thực hiện việc xây dựng đại đoàn kết của dân tộc không chỉ trách nhiệm của Đảng, là
trách nhiệm của nhà nước mà thực hiện đoàn kết dân tộc còn là trách nhiệm của mỗi nhân,
nội dung tiếp theo sẽ liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Đoàn kết dân tộc đã trở thành một động lực to lớn để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng
trầm để tồn tại và phát triển bền vững.
Đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của Đảng, của toàn dân và của mỗi nhân. Nội dung này sẽ
liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một bài học kinh nghiệm lớn của dân tộc
ta, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công việc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay thì bài học kinh nghiệm này vẫn còn
nguyên giá trị cần được tiếp tục phát huy để khơi dậy sức mạnh to lớn của dân tộc trong
công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay việc phát huy tinh thần đại đoàn kết
dân tộc càng cần được phát huy. Do đó mỗi cá nhân cần quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc
đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Chúng ta phải luôn ng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc về Đảng,
về Chủ tịc Hồ Chí Minh, không ngừng ng cao trình độ để thích ứng với điều kiện hội
mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như tập
trung dân chủ, kỷ luật nghiêm minh, tự giác trong công việc cũng như trong cuộc sống cộng
đồng.
Đẩy mạnh việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn của bản thân, tuyên truyền v
đường lối chính sách của Đảng pháp luật của nnước. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm
chất đạo đức, luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức.
Mỗi cá nhân cần có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức: Cần gương mẫu rèn luyện phẩm chất
tư cách, làm tròn những nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Có lối sống cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã với mọi người. Luôn tự rèn luyện trau dồi phẩm chất
đạo đức, lối sống.
Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người
tốt, chân thành, khiêm tốn, không bao che khuyết điểm,…Luôn ý thức giữ gìn đoàn kết
trong tập thể, trong cơ quan đơn vị.
Bản thân cần tự đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải n trọng nguyên tắc, pháp luật,
không chia bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.
lOMoARcPSD| 61570513
Cần ý thức coi trọng việc tự phê bình pbình; pphán những biểu hiện xuất phát từ
những động nhân; động viên người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức lối sống, thực
hiện xây dựng gia đình văn hóa.
Để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc hiện nay mỗi nhân không chcần rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức mà còn cần phải không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn.
1. Những quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm mới, tiến bộ về đạo đức của con người mới. Đó là: -
Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng của con người. Người coi, đạo đức của con người như
trời có bốn mùa, đất có bốn phương,con người có bốn đức “cần, kiệm, liêm, chính”1; - Thứ
hai, đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân: “Vô luận chung
trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”; - Thứ ba,
gần gũi với quần chúng nhân dân: “đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng, hiểu
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên
và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…”2;
- Thứ tư, không ngừng học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin: “Học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân; là học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”3.
Như vậy, đạo đức cách mạng chính là nội hàm bao trùm, xuyên suốt để mỗi cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, thanh niên tu dưỡng và rèn luyện.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu
dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người vai trò cùng quan trọng. Riêng với thế
hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là "người chủ tương lai của nước nhà"; là
cái cầu nối giữa các thế hệ - "người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời
người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". Chính vậy, việc giáo dục đạo đức và
chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm t
rất sớm. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định: "Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài
không đức như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két t
chẳng những không làm được ích lợi cho hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức
mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Người chỉ rõ việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân
không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp
họ ợt qua khó khăn, thử thách. Người viết: "có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn,
gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi thành công cũng
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"; lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thuần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa".
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống của mỗi nhân trong hội. Hồ Chí Minh
không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công
dân. Người chỉ rõ, trong hội mỗi người công việc, tài năng vị trí khác nhau, người
làm việc to, người m việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều người cao
thượng.
- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
lOMoARcPSD| 61570513
Cũng như với cán bộ, đảng viên các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh viên,
thanh niên trí thức, HChí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức cần thiết để h
phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ
hai (7-5-1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong "Sáu cái yêu:
Yêu Tổ quốc, Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ
quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Yêu
nhân dân: Mình phải hiểu sinh hoạt của nhân dân biết nhân dân còn cực khổ như thế o,
biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân. u chủ
nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên
chủ nghĩa hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm. Tổ quốc mỗi ngày một giàu
mạnh thêm.
Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao
động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
Yêu khoa học kỷ luật: bởi tiến lên chủ nghĩa hội thì phải khoa học kỷ luật". Theo
người, để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức
tính như: trung thành, tận tụy, thật thà chính trực. Phải xác định nhiệm vụ của mình,
"không phải hỏi nước nhà đã cho mình những gì. phải tự hoi mình đã làm cho nước
nhà. Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nnhiều hơn. Mình đã lợi ích nước nhà
hy sinh phấn đấu chừng nào". Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp luận với thực hành,
học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa nhân, chống tưởng m
danh, hám lợi. "Chống tâm lý ham sung sướng tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao
động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống
kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang". Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ
ai? Phải xác định thế nào tốt, thế nào xấu? Ai bạn, ai thù?... Người chỉ rõ: "Đối
với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì
hại cho nhân dân và Tquốc ta tức kẻ thù. Đối với mình, những tưởng hành động
lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào bạn. Những tưởng hành động hại cho Tổ quốc
và đồng bào là kẻ thù... Điều gì phải, thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái,
thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ".
2.2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Hồ
Chí Minh - một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay:
Đạo đức Hồ Chi Minh là đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa
nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, ngã vị tha, chí công . Dưới ngọn cờ của
tưởng đó trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã lập được nhiều kỳ tích to lớn,
đóng góp vào tiến trình chung của lịch sử dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường định ớng hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế một nền đạo
đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng, là nguồn động lực quan
trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền
thống của dân tộc như: yêu ớc, thương người, sống nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công với những yêu cầu mới. những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc
thời đại. Nhờ đó phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong
sạch, lành mạnh: khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập: sống có bản lĩnh, có chí lập
thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đổi mặt với những khó khăn thách thức, dám chịu
trách nhiệm, không lại, chây lười; luôn gắn với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc phấn
đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Bên cạnh đó, do ảnh ởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế do sự bùng phát của
lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu cực trong xã hội
ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa hội chưa được khắc
lOMoARcPSD| 61570513
phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu "diễn biến a
bình" đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân. ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình
cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên tri thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên
phai nhạt niềm tin, tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không trí lập thân, lập nghiệp:
chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thơ với gia đình
hội, sa vào nghiện ngập, hút xách: thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm,
chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đâv là những biểu hiện không thể coi thường.
- Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không chỉ một nhàđạo
đức học lỗi lạc mà còn là một tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư
tưởng và tấm gương đạo đức của người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không
chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ
và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà thế
hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dưới đây một số nội dung bản: Một là, học
trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp giải phóng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh con người Việt Nam đẹp nhất một trong những con người đẹp
nhất của thời đại chúng ta.
Ngay từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục tiêu hiến
dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, luôn kiên định,
dũng cảm sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, "thắng không kiêu, bại không
nản", "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất
phục" nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó. Người nói: Bài học chính trong đời tôi là tuyệt
đối hoàn toàn cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng thống nhất Tổ quốc, giải
phóng giai cấp công nhân dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa hội cho sự
hợp tác anh em a bình giữa các dân tộc; "Một ngày đồng bào còn chịu khổ một ngày
tôi ăn không ngon, ngủ không yên" Đến lúc phải rời thế giới này điều luyến tiếc duy nhất của
người là "không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Tấm gương vì nước, vì dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế thừa
nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca ngợi Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "nhà cách mạng triệt để", "nhà hoạt động quốc tế thần thoại", "một nhân vật nổi bật
nhất trong thời đại chúng ta", "một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và nhân
đạo cao cả nhất. Hiếm một nhà lãnh đạo o trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng
suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy"; một
con người "mà cái chết là mầm sống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt"...
Hai là học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đòi riêng trong sáng, nếp sống giản dị và
đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chinh, chí công vô tư, ít lòng
ham muốn vật chất, đó cách người cán bộ cách mạng tự mình, Người đã gương mẫu
thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư,
luôn nước, dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng
viết:"Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người. Quyền lợi tối
cao của nước, lợi ích ng ngày của dân sự lo lắng đêm ngày của Người. Gia đình của Người
là đại gia đình Việt Nam".
lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng những
nghi thức trang trọng cầu kỳ, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch, tao nhã, giản dị, khiêm
tốn, khắc khổ, cần lao tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Toàn thể nhân dân Việt
Nam thế giới đều biết bộ ka ki bạc màu, đôi dép lốp mòn, i nhà sàn gỗ đơn của Chủ
lOMoARcPSD| 61570513
tịch Hồ Chí Minh... i về những đức tính đại của Hồ Chí Minh. X.Asienđê - vị Tổng thống
anh hùng của nước Cộng hòa Chile đã khái quát: "Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất
cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị sự khiêm tốn phi
thường".
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng,
hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền với niềm
tin tuyệt đối vào sức mạnh trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ đảng viên, việc
lợi cho dân phải hết sức làm, việc hại cho dân phải hết sức tránh: phải gần dân, hiểu
dân, học dân, kính trọng nhân dân: hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người phê phán quyết
liệt đầu óc "quan cách mạng" tự mình. Người thường xuyên đi xuống sở để tìm hiểu.
"lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng". Là người
uy tín rất cao sức hấp dẫn rất lớn song không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn
nhân dân chỉ tâm niệm suốt đời công bộc của nhân dân, "như một người lính vâng mệnh
lệnh quốc dân ra trước mặt trận".
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh dành cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những nỗi
đau riêng. Người nói trong "mỗi người, mỗi gia đình đều một nỗi đau khổ riêng và gộp cả
những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khcủa tôi". Cách
mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc Việt Nam vừa trải qua nạn đói khủng khiếp. Hồ Chí
Minh chủ trương tăng gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói
người cũng đóng p lon gạo của mình như mọi người dân. Đi thăm trại binh trong chiến
dịch biên giới về. Người không còn áo khoác ngoài Người đã cho tên quan ba thầy thuốc
người Pháp bị rét cóng...
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của dân tộc, nên
sức mạnh sự cảm hóa to lớn trong việc xây dựng tái tạo lương tri. Hồ Chí Minh,
thương người một tình cảm lớn cho nên khi làm cách mạng Hồ CMinh đặt vấn đề tự do
và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản, vừa thánh thiện, vừa
gần gũi, đã làm xúc động trái tim nhân loại Người được suy tôn n"một ông thánh cộng
sản"; "một con người của huyền thoại", cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có lẫn bình luận:
Lòng nhân đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất tốt đẹp nhất trong con người H
Chủ tịch.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thứ
thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh một chuỗi những năm tháng cùng gian khổ. Hai
lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động sôi nổi được đánh giá rất cao,
giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ, không được giao nhiệm vụ. Song, nhờ ý cnghị lực
tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chđộng vượt qua mọi thử thách, gian
nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm cách mạng của mình.
Người đã làm thơ để tự răn:
"Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao".
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách HChí Minh. Một
tờ báo nước ngoài đã viết: "Đằng sau cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý chí sắt thép,
Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng không có gì uy hiếp nổi"
Trong tình hình hiện nay để phong trào "Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
của sinh viên hiệu quả đòi hỏi phải sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và
việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu gương của mọi người trong hội, của bố
mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và
lOMoARcPSD| 61570513
sự hướng dẫn của luận hội pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên,
việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn.
3. Sinh viên Việt Nam học và làm theo lời Bác
3.1. Một số thành tự đạt được
- Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, gia đình, nhà trường, toàn
xã hội, sự nỗ lực của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên đã
đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đào tạo ra một thế hệ thanh niên đủ sức đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
- Thế hệ trẻ ngày nay ngày càng năng động, hội nhập quốc tế, thông minh, tự tin, tự chủ,
nhiều bạn trẻ có những thành tựu từ khi còn rất sớm. Đa số sinh viên tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, sống có trách nhiệm, có ước mơ, hoài bão, dám nghĩ, dám làm, dám thành công.
3.2. Vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách H
Chí Minh của sinh viên hiện nay còn một số hạn chế:
- Nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa
với giáo dục khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu và xu thế
thị trường lao động trong nước và quốc tế.
- Đặc biệt có một thời gian dài, chúng ta xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh niên,
nếu có thì chỉ mang tính hình thức, kém hiệu quả.
- Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay vẫn chỉ mới tập
trung vào những vấn đề như giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục tri thức, giáo dục nghề
nghiệp, công ăn, việc làm... Trong khi đó có những nội dung cơ bản, quan trọng và cấp bách
vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong đó đặc biệt là những vấn đề giáo dục đạo đức. -
Phương pháp giáo dục thanh niên thời gian qua vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp truyền
thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời sống xã hội và lao
động nghề nghiệp, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo và năng lực thực hành của thanh
niên…
- Vẫn còn một bộ phận sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ
truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước, quốc
tế. Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức vươn lên
trong học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu niềm tin, bản lĩnh non
kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động tham gia vào các hoạt động vi phạm
pháp luật.
- Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của
mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào việc đi học, sau đó, đi
làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham gia các phong trào, các hoạt
động xã hội.
- Một bộ phận sinh viên còn chịu tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên truyền
xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn mơ hồ, thiếu kiên
định, thiếu hoài bão, không tích cực tham gia các phong trào và hoạt động xã hội.
3.3. Nhiệm vụ, giải pháp
Những lời dạy của Bác Hồ dành cho học sinh, sinh viên Việt Nam
Là một sinh viên, em sẽ làm gì, làm như thế nào để học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh? Em học tập và rèn luyện theo phong cách của Bác như thế nào?
Đặt mục tiêu, học, làm theo Bác để trở thành một người như Bác - điều đó là khó có thể. Bởi
để trở thành một người dành trọn niềm tin, sự tôn kính của cả dân tộc cũng như của nhân loại
tiến bộ như Bác là cả một quá trình học tập, rèn luyện vất vả và quá trình ấy cũng phải diễn
ra trong hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt.
lOMoARcPSD| 61570513
Nhưng học và làm theo Bác chắc chắn không phải là cái gì đó quá cao siêu. Tư tưởng, đạo
đức, phong cách của Người là chuẩn mực của tất thảy những việc diễn ra trong cuộc sống
thường ngày, khi thật tâm, thì soi chiếu vào đó, ai cũng đều có thể thấy được những việc
mình có thể học theo, làm theo Người.
Hội viên, sinh viên cần chủ động, tích cực, thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền ởng và
tấm ơng Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, góp phần
nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên.
Kết quả học tập và làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ thuộc nhiều vào
sự nỗ lực của thanh niên, sinh viên, có tác động to lớn đến tương lai của cá nhân và đất nước.
Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với m,
đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho hội, đặc biệt đối với thiếu niên, nhi đồng, càng
có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
- Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên cần:
Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm gương Hồ
Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm.
Tự soi mình, sửa mình rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời
Bác dạy.
Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung
thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo.
Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các tiêu
chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt. - Hội viên,
sinh viên không chỉ nhiệm vụ tích cực học tập làm theo Bác về trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm mà còn phải:
Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần trách nhiệm, trung
thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô trách nhiệm, sự giả dối,
nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay làm thì dở" đối với bản thân, gia
đình và xã hội.
Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh viên
hoặc các sở Đoàn, Hội những ý tưởng, sáng kiến, cách m hiệu quả trong
thực hành theo tưởng, tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm, trung thực
nói đi đôi với làm.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên cần xác định trách nhiệm của mình đối
với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp chung của đất nước:
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút nào được
quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ
nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới".
"Nhiệm vụ của thanh niên không phải hỏi nước nhà đã cho mình những gì.
phải tự hỏi mình đã làm cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước
nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?".
Phải dám nghĩ, dám làm dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ
trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ,
không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người khác. Sẵn sàng
nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi mình không hoàn thành nhiệm
vụ, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thầntrách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm: Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
lOMoARcPSD| 61570513
Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, Với Tổ quốc, với Đảng,
với giai cấp.
Dũng cảm.
Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện:
"Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm",
"gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người".
Khiêm tốn: Không nên tự cho mình tài giỏi, không khoe công, không tự phụ. Cần
nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc và trong
cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm,trước
hết phải nói đi đôi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm và nhân cách:
Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải.
Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm.
Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa chữa
khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt tích
cực.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:
Mỗi hội viên, sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình.
Phải thật sự trung thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân, bạn
bè, đồng chí, với Tổ quốc và nhân dân.
Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối Đảng,
dối dân.
Phải chống lại thói Ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói cảm,
"đục nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn.
Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua bán
tri thức...
Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình.
Trung thực trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thoái về ởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội.
Để làm được như vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực,
trách nhiệm trong công việc và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cân thiết và quý
báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên gắn tinh thần trách nhiệm, được tính
trung thực, nói đi đôi với làm thực hiện các nhiệm vchính trị, công việc chuyên
môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức đoàn, hội, đội:
Hội viên, sinh viên cần Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn
luyện sức khỏe, lối sống nh mạnh, không vướng vào tệ nạn hội, không nói
dối thầy cô, cha mẹ.
Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của người con ngoan, trò giỏi.
Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào cuộc sống hằng
ngày, vào công việc.
Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải có sự
tu dưỡng, rèn luyện hết mình , luôn luôn cố gắng phấn đấu vì gia đình quê hương đất nước,
luôn yêu quê hương đất nước, giàu lòng nhân ái và tích cực làm theo tấm gương đạo đức của
Hồ Chí Minh trong cuộc sống.
LIÊN HỆ CỦA BẢN THÂN NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC, CÁ NHÂN BẢN THÂN SINH VIÊN
lOMoARcPSD| 61570513
Mỗi cá nhân cần phải luôn phấn đấu, tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo gương của
chủ tịch HồChí Minh
Luôn cố gắng học tập rèn luyện, hoàn thành tốt những công việc nhiệm vụ được giao; gương
mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong việc giải quyết công việc, gương
mẫu về mặt đạođức và giữ vững lập trường.
Tùy theo sức vị trí của mình bản thân nhân luôn nâng cao tinh thần cảnh giác,
chốngnhững luậnđiệu xuyên tạc về Đảng, về chủ tịch Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng cao
trình độ của bản thân để có thểthích ứng được với điều kiện xã hội mới.
Đẩy mạnh ng tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao kiến thức trình độ chuyên môn
củabản thân.Thực hiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
đến quần chúng nhân dân.
Cần phải tưởng chính trị vững vàng, xác định phấn đấu một mục tiêu chung
hiệuquả côngviệc, không gây mất đoàn kết trong nội bộ.
Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, đoàn kết nhưng không nghĩa bao
checho khuyếtđiểm của đồng chí đồng nghiệp mỗi nhân cần nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình.
Mỗi nhân cần m nhận những thiếu t, những khuyết điểm của bản thân, của
đồngnghiệp thẳngthắn góp ý để cùng xây dựng cùng chia sẻ những cái hay cái tốt loại
bỏ dần những khuyết điểm, hạnchế còn tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm
túc, chân thành, đúng nơi đúng lúc.
NHÀ NƯỚC
+ Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng bảo
vệ Tổ quốc;
+ Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu,nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng;
+ Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia- dân tộc; đề cao
tinh thần dântộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi
người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng,
Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt dân chủ cơ
sở. Thực hiệntốt, hiệu quả phương châm Dân biết, dân bàn, n làm, dân kiểm tra, n
giám sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung m của nhân dân trong chiến
lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
+ Tiếp tục hoàn thiện các chế, chính sách, bảo đảm các n tộc nh đẳng, tôn trọng, đoàn
kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân
bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số
VIỆT NAM THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Những thành công của đối ngoại Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm Đổi mới, thực tiễn chứng minh
rõ ràng và đầy đủ nhất về tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ của con người vĩ đại Hồ Chí Minh. Thứ nhất, hợp
tác quốc tế luôn là nguyên tắc, chiến lược, có vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng trong quan điểm, chính
sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã và đang triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế.
lOMoARcPSD| 61570513
Sau chiến thắng năm 1975, sau gần 10 năm rơi vào tình thế khó khăn trên trường quốc tế, tới năm
1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, một thời
kỳ “Đổi mới” toàn diện, tạo nên thế và lực mới cho dân tộc.
Từ quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước khác trong Hội đồng
tương trợ kinh tế… đến nay, Việt Nam đã xác lập mối quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia
vùng lãnh thổ trên thế giới, là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với gần 30 quốc gia, trong đó
tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, là đối tác toàn diện
với tất cả các nước trong cộng đồng ASEAN; lần đầu tiên được bầu vào Ủy ban Luật thương mại quốc
tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL); lần thứ hai được bầu, trở thành Ủy viên không thường trực Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và tới 2020, là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Là
thành viên của WTO, ca nhiều thể chế đa phương, đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán
ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do FTA với 59 đối tác trên toàn thế giới.
Việt Nam ngày càng chủ động, sáng tạo hơn trong triển khai hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế, p
phần phục vụ tốt lợi ích quốc gia, dân tộc. Tính đến nay, Việt Nam được 71 nước công nhận quốc
gia có nền kinh tế thị trường và hiện trong top đầu của ASEAN về mức độ hội nhập và độ mở của nền
kinh tế. Mối quan hệ với các đối tác kinh tế khiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tương
đương 200% GDP.
Cùng với kinh tế, hợp tác, hội nhập quốc tế đã góp phần không nhỏ trong ổn định chính trị, an ninh
trong nước, góp phần đan xen lợi ích với các đối tác, qua đó, tạo cục diện thuận lợi để Việt Nam giữ
nước từ xa. Tính đến nay, sau 5 năm bắt đầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,
Việt Nam đã cử 90 quan tham gia sứ mệnh quốc tế cao cả này. Có thể xem đây sự thể hiện mức
độ tham gia ngày càng sâu hơn, đóng góp ngày càng tích cực hơn của Việt Nam với tư cách là thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, thực hiện tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, hoạt động đối ngoại của Việt Nam tập
trung vào các đối tác ưu tiên, chủ chốt, các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan
trọng khác.
Quan hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia các nước ASEAN tiếp tục những bước tiến mới,
quan trọng. Những nỗ lực lớn của Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ hợp tác quốc tế, nhất trong
lĩnh vực kinh tế ngày càng nhiều. Kết quả năm 2018, Việt Nam xuất khẩu đạt 243,5 tỷ USD xuất
siêu 6,8 tỷ USD một phần quan trọng nhờ quan hệ tốt với các đối tác lớn.
Thứ ba, đoàn kết, hợp tác quốc tế, với Hồ Chí Minh, gắn với nguyên tắc bất di bất dịch và mục tiêu
quan trọng là góp phần đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ; hợp tác tìm giải pháp ổn định,
lâu dài, cùng lợi trên sở tôn trọng luật pháp quốc tế tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau.
Đây là một đóng góp lớn của đối ngoại Việt Nam thời gian qua.
Nguy cơ lớn nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam hiện nay, là vấn đề Biển
Đông. Tình hình Biển Đông trong vòng hơn 10 năm qua diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ
vấn đề tranh chấp chủ quyền, mà còn là tâm điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Vận dụng
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã, đang và luôn sẵn sàng giải quyết những tranh
chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên sở luật pháp quốc tế, đồng thời coi
trọng việc giữ gìn mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Nhờ lập trường chính
nghĩa, nhờ những bằng chứng pháp lý căn cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo Tư
ởng Hồ Chí Minh
Trong 35 m đổi mới và hội nhập, việc tích cực triển khai các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức thanh niên đến các cấp, các ngành và gia
đình đã giúp tuổi trẻ Việt Nam ngày càng có môi trường, điều kiện tốt hơn để học tập,
rèn luyện, trưởng thành, nâng cao trình độ, hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống văn hóa, từng bước hoàn thành nhân cách, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
c.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
lOMoARcPSD| 61570513
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vtrí, vai trò quan trọng của thanh niên
lực lượng kế cận đối với sự nghiệp của Đảng, tương lai, vận mệnh của dân tộc, tiền đồ của
Tổ quốc. Ra đi tìm đường cứu nước lúc còn trẻ, những năm tháng bôn ba ở ớc ngoài đã
giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh được cách nhìn nhận toàn diện về vai trò của thanh niên.
Người nhấn mạnh: “Thanh niên người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”(1). Người cũng khẳng định,
thanh niên đóng vai trò quan trng trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước, lực
ợng nòng cốt để xây dựng xã hội mới.
Theo Người, thế hệ trmột lực lượng ng hậu bao gồm thanh niên, thiếu niên nhi
đồng, trong đó thanh niên, có vai trò quan trọng nhất. Đólứa tuổi ham hiểu biết, giàu niềm
tin, nhiệt tình, năng động, dám nghĩ, dám làm... Do vậy, nếu được giáo dục, định hướng,
động viên đúng thì thanh niên sphát huy được vai trò làm chủ tiềm ng to lớn của mình.
Người đã khẳng định: “Thanh niên ta rất hăng hái, ta biết hợp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt
đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực ợng rất mạnh mẽ”(2). vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đặt niềm tin lớn vào thế hệ thanh niên đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng và
xây dựng nước nhà. Người đã cổ vũ, lôi cuốn thanh niên, đưa hđến với cách mạng bằng
chính những năm tháng tuổi trẻ đầy nhiệt huyết cách mạng khát khao đấu tranh giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào của mình.
Người chỉ rõ, đã là người cách mạng cần phải có sức mạnh, đó chính là sức mạnh của đạo
đức cách mạng, “sức mạnh mới gánh được nặng đi được xa. Người cách mạng
phải đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang"(3). Hồ Chí Minh đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, theo Người “có đạo đc
cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, tht bi, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. lợi
ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không
ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình"(4); giúp mỗi người cộng sản khi gặp
thuận lợi thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trưc
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không lo kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá, v,v..
Trong công tác xây dựng Đảng, Người luôn coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ công việc gốc của Đảng"(5) nếu xét mối quan hgiữa đức tài
trong mỗi con người thì đạo đức chính là “gốc”. Do vậy, trong công tác giáo dục lý luận chính
trị, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói chung, sinh viên, thanh niên nói
riêng, thì giáo dục đạo đức cách mạng là nội dung quan trọng nhất, vì đó chính là yếu tố tạo
nên cái “chất”, cái “gốc”, cái “nền tảng” vững chắc của người cách mạng.
Quan điểm trên thể hiện chiến lược của Hồ Chí Minh đối với vận mệnh của cả dân tộc và tr
thành ởng chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước về
công tác giáo dục đạo đức thanh niên nhằm chăm lo bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của
thanh niên trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hội nghị
lần thbảy, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa X) đã ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về
"Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa". Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh
nhiệm vụ tăng cường giáo dục tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần
trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động,
giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí tu, thcht và giá trị
thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động, sáng
tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong
sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên,
nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của
đất nước.
lOMoARcPSD| 61570513
Một số kết quả và vấn đề đặt ra
Trong thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cùng với sự tham
gia của các ngành, các cấp, gia đình, nhà trường, toàn hội, sự nỗ lực của Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam,
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên đã đạt được những thành tựu nhất định,
góp phần đào tạo ra một thế hệ thanh niên đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Tuổi trẻ Vit Nam ngày càng có môi trường, điều kiện tốt hơn để học tập, rèn luyện, trưởng
thành, góp phần nâng cao trình độ, hình thành tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn
hóa, từng bước hoàn thành nhân cách. Đa số sinh viên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng con đường phát triển của đất nước; sống có trách nhiệm với Tổ quốc, gia đình và
bản thân; có ưc mơ, hoài bão; có kiến thức, kỹ năng, sức khỏe tốt, tư duy năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm.
Phần lớn sinh viên Việt Nam luôn tin tưởng và đồng thuận với đường lối chính trị của Đảng,
chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, ra sức học tập, rèn luyện lao động sản
xuất. Nhiều sinh viên có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị cao, có ý chí vươn lên, phát
huy mạnh mẽ truyền thống xung kích của những thế hệ thanh niên lớp trước, trở thành tấm
gương sáng cho đông đảo thanh niên noi theo. nhiều cuộc thi trí tuệ thế gii, học sinh,
sinh viên nước ta luôn đạt giải cao. Cùng với đó những tấm gương điển hình tiên tiến,
xung kích đi đầu trong học tập công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc
tế đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ; kết quả và minh chứng
sinh động cho quá trình bồi dưỡng, đào tạo thế hệ cách mạng kế cận của Đảng Nhà ớc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục đạo đức cho sinh viênớc ta hiện
nay còn một số hạn chế: Nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo
đức, giáo dục văn hóa với giáo dục khoa học, công nghkỹ thuật, nội dung chưa phù hợp
với nhu cầu và xu thế thtrường lao động trong nước quốc tế. Đặc biệt một thời gian
dài, chúng ta xem nhviệc giáo dục đạo đức cho thanh niên, nếu thì chmang tính hình
thức, kém hiệu quả. Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay
vẫn chỉ mới tập trung o những vấn đề như giáo dục tưởng chính trị, giáo dục tri thức,
giáo dục nghề nghiệp, công ăn, việc làm... Trong khi đó những nội dung bản, quan
trọng cấp bách vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong đó đặc biệt những vấn đề
giáo dục đạo đức. Phương pháp giáo dục thanh niên thời gian qua vẫn chủ yếu sử dụng
phương pháp truyền thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời
sống hội và lao động nghề nghiệp, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo năng lực
thực hành của thanh niên…
Vẫn còn một bộ phận sinh viên không chí hướng ràng, chưa hiểu biết đầy đủ truyền
thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước, quốc tế.
Một bphận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức vươn lên trong
học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu niềm tin, bản lĩnh non kém,
thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp
luật. Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của
mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào việc đi học, sau đó,
đi làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham gia các phong trào, các hoạt
động hội. Một bộ phận sinh viên còn chịu tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên
truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn hồ,
thiếu kiên định, thiếu hoài bão, không tích cực tham gia các phong trào và hoạt động xã hội.
Nhiệm vụ, giải pháp
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên, các cấp ủy, tổ chc đoàn thtrong các học viện, ntrường cần thực hiện một số
nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61570513
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
Mục tiêu hàng đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc chính là việc
tập hợp được tất cả các lực lượng quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân và
nông dân để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, đi theo con
đường cách mạng vô sản.
Với việc tiếp thu những tư tưởng, lý luận sắc bén của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã có những bước chuyển biến về chất trong tư tưởng của mình.
Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến
giác ngộ giai cấp và từ một người con yêu nước thành một người cộng sản.
Người đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc
để đưa ra những đường lối đúng đắn đối với cách mạng nước ta. Đồng thời, Hồ
Chí Minh cũng nhấn mạnh vai trò của việc đoàn kết với phong trào cách mạng
quốc tế, không để chủ nghĩa tư bản có điều kiện cô lập phong trào giành độc lập
và các cuộc cách mạng tư ở từng quốc gia, từng thuộc địa.
Với hàng loạt các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường
Kách mệnh (1927), văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng… đã đánh dấu sự hình thành cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dântộc:
Do có không ít các quan điểm, những luồng ý kiến khác nhau về nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, em xin phép được nêu vắn tắt
thành một hệ thống luận điểm sau đây:
2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản:
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc
là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa.
Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức
là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh
của cách mạng vô sản”; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
2.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đoàn kết
toàndân trên cơ sở liên minh công – nông:
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng,
vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền, nhưng trong sự tập hợp đó, luôn phải nhớ: “Công nông là người chủ cách
mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”. lOMoAR cPSD| 61570513
Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập hợp rộng rãi mọi tầng
lớp nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
tạo ra sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; đấu
tranh chống lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai.
2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạovà có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm
mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ
đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực
tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Do nhận thức được thuộc
địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người
đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến
rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng
Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương phápcách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang:
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực là sử dụng bạo lực cách mạng của quần
chúng nhân dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của bọn xâm lược cấu kết
với những kẻ phản động. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền. Tháng 5/1941, tại Hội
nghị Trung Ương VIII, Người cũng đã đưa ra nhận định: “Cuộc cách mạng Đông
Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
3. Phân tích quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng
giảiphóng dân tộc:
3.1. Quan điểm trước đó của Quốc tế Cộng sản:
Từ năm 1919 đến năm 1928, Quốc tế Cộng sản vẫn luôn cho rằng: “Chỉ có thể
thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Ý kiến này đã giảm tính chủ động,
sáng tạo của cách mạng thuộc địa, làm cho phong trào cách mạng ở các nước rơi
vào tình trạng thoái trào.
3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trò của cách mạng thuộc địa
trong mối quan hệ với cách mạng vô sản ở chính quốc, Nguyễn Ái Quốc lại đưa
ra những quan điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản. Người khẳng lOMoAR cPSD| 61570513
định: “…Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai
cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp
bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa…”, và nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa
tức là “…muốn đánh chết rắn đẳng đuôi”.
Người đã chỉ rõ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ và tìm ra được liều thuốc
vực dậy cuộc cách mạng thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn phê bình những
người cộng sản ở các nước tư bản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa và không thực
hiện đúng di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; ngay cả những người
lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ cũng đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc, đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc phụ thuộc
vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, coi phong trào giải phóng dân tộc là “hậu
bị quân” của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Vận dụng công thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng dân tộc cần
được tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… Công cuộc giải phóng
anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Theo
Người, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản, đế quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa.
Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vòi để minh họa cho chủ nghĩa tư bản lúc bấy
giờ với hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc địa. Khi đánh vào đầu ở chính quốc,
nó sẽ tích cực hút máu ở thuộc địa làm cho sức sống của thuộc địa cạn kiệt, sức
đấu tranh không còn, con đỉa bị đánh nhanh chóng hồi phục và quay lại chống
cách mạng chính quốc, điều đó không những gây tổn thất cho phong trào chống
cách mạng chính quốc mà còn khiến nó quen mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là tất yếu. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng
nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng giải phóng
dân tộc là sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng mà không
thể dựa vào sự cầu viện ở bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc địa
sẽ là một lực lượng khổng lồ có thể làm nên sự nghiệp cách mạng.
Xem thêm: Phẩm chất đạo đức là gì? Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam?
Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa cùng với
các dân tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách mạng triệt để. Một mặt tấn
công ở chính quốc, đồng thời cũng tấn công ở thuộc địa, khi bị đau ở cả hai đầu,
“con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay về giữ sân nhà của mình, tạo đà cho cuộc cách
mạng thuộc địa giành thắng lợi.
Sau khi mất nguồn sinh lực của mình, sức mạng của chủ nghĩa tư bản dần dần bị
suy giảm, lúc ấy cách mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng. Người
khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những người
anh em của mình ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. lOMoAR cPSD| 61570513
Suy luận sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được Đại hội VII Quốc tế Cộng sản nhận
ra và lập tức chuyển hướng chiến lược, kêu gọi: “Vô sản ở tất cả các nước và các
dân tộc áp bức đoàn kết lại”, chủ động thực hiện cách mạng đấu tranh giành độc
lập tự do của chính mình.
3.3. Lý giải cho sự hình thành tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có sức bật thuận lợi vì:
Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man của chủ nghĩa
đế quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhan dân thuộc địa vào khó khưn, túng quẫn; Điều đó
đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc tư bản trong nhân dân thuộc địa vô cùng sâu sắc.
Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức mạnh to lớn, một vũ
khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được giác ngộ
và soi đường sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn thật sự, có thể đánh đổ được chủ nghĩa tư bản.
Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước ở thời hiện đại đã thực sự trở thành động
lực giải phóng dân tộc.
3.4. Lý giải cho sự sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Có thể thấy rằng trong công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc
địa thì quan điểm : Chỉ có thể giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở thành một tôn chỉ duy nhât, bất
di bất dịch, bởi đó là quan điểm xuất phát từ tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng đến Hồ
Chí Minh, Người lại khẳng định có thể xảy ra điều ngược lại. Điều đó trước hết bắt
nguồn từ tư duy và tầm nhìn của mỗi người. Không thể đi so sánh giữa Hồ Chí
Minh và Mác-Lênin, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố thời đại có ảnh
hưởng không nhỏ đến tư tưởng của mỗi người.
Xem thêm: Phân tích giá trị và ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời C.Mác và Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã được
mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển mạnh, bởi
vậy, theo các ông, vận mệnh loài người, tương lai của cách mạng giải phóng dân
tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển.
Đến thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách
mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc
cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa.
Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác “Vô sản tất cả các nước liên hợp lại”,
ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lOMoAR cPSD| 61570513
lại”. Nhưng ông vẫn không nhận ra được cách mạng ở các nước thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ của các dân tộc
bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ nghĩa đế quốc
và đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một phần quan trọng nằm ở
thuộc địa. Mặt khác, so với những bậc tiền bối đi trước, Người có điều kiện để đi
nhiều nơi, từ Châu Á sang Châu Âu, tới Châu Phi nên người có điều kiện tìm hiểu,
tiếp cận cuộc sống ở những mảnh đất đó chứ không phải chỉ gói gọn trong mỗi
Châu Âu và một phần Châu Á (nước Nga) như Lênin,
Người nói: “Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang
tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Đây là điều quan trọng mà
Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, Người viết: “CNTB
là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi
khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi.
Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai
cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”. Bởi vậy,
vừa phải tiến hành đồng thời cach mạng ở chính quốc và ở thuộc địa. Trên góc độ
phê phán ấy, người đã nhìn ra được khả năng cách mạng của các nước thuộc địa
và đi đến khẳng định rằng: cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
3.5. Ý nghĩa của quan điểm sáng tạo về giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh:
Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin
Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà
luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Nhờ đó mà cách mạng Việt
Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời nó cũng góp phần định hướng cho
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ.
Thực tiễn cách mạng ở một số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng
minh rằng đây là một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.
Trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần củng cố khôi liên minh và xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc:
Có thể thấy việc sinh viên có trách nhiệm trong việc củng cố và góp phần khối đại đoàn kết
dân tộc là việc ý nghĩa hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đây cũng được coi
là tư tưởng cơ bản trong việc chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, hình thành sức mạnh vững
chắc, là một vấn đề sống của cách mạng :
-Thứ nhất: ý thức luôn được rèn dũa, nâng cao đạo đức mỗi ngày: Tôi sẽ luôn đặt trách nhiệm
và phẩm cách lên hàng đầu. Vì đối với một Đảng viên, việc đặt trách nhiệm và phẩm cách sẽ lOMoAR cPSD| 61570513
quyết định tất cả trong công trình phát triển đất nước ta. Luôn luôn trau dồi phẩm chất tư cách,
hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và chính quyền giao phó. Sống hết lòng hết sức vì dân và Đảng,
đối xử hoà đồng, tự nguyện phục vụ cho xã hội.
-Thứ hai: ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với công việc nghề nghiệp của mình. Tôi
sẽ luôn tham gia các hoạt động chuyên môn của nhà trường cũng như và Ngành tôi đang theo
đuổi. Tôi sẽ cố gắng hết sức trong việc học của mình, luôn luôn hoàn thành bài tập và nhiệm
vụ đã được giao trước đó. Sẽ cống hiến hết mình cho nghề nghiệp của mình.
+ Thứ ba: sống chính trực, trung thực, dám đứng lên làm chứng, bảo vệ cho những điều đúng
đắn, bảo vệ đường lối chính sách, quan niệm của Đảng Cộng Sản. Luôn yêu thương người khó
khăn hơn mình, sống ngay thẳng, khiêm tốn trong mọi việc. Không đua theo thành tích trước
mắt, không giấu diếm, bảo vệ công lý, không ngại đưa ra khuyết điểm của mình. + Thứ tư :
Trong tiềm thức mỗi người phải luôn in sâu về việc giữ gìn đoàn kết cơ quan nhà nước cũng
như cơ quan đơn vị. Luôn khen thưởng những Đảng viên có thành tích xuất sắc trước công
chúng. Đề cao ý thức trách nhiệm công việc cũng như trong cuộc sống.
-Thứ năm: ý thức tổ chức, kỷ luật, tự phê bình và phê bình theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:
+ Có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình bản thân. Là người sinh viên, tôi phải luôn cố
gắng hết sức mình trong mọi việc, nhất là trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Luôn tự kiểm điểm bản thân trong mọi việc. Thực hiện tốt nhiệm vụ của trường và Đảng đưa
ra. Còn điều sai sót, trong tương lai tôi sẽ cố gắng hơn để góp phần xây dựng Đảng ta.+ Đối
với bản thân của mỗi người sinh viên phải tự đặt mình và người khác trong một tổ chức. Làm
việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả và pháp luật. Đề cao ý thức của mỗi người trong công cuộc
xây dựng đất nước. Không chia bè chia phái, lôi kéo người khác làm những việc trái pháp luật.
Noi gương phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của mỗi sinh viên theo gương
chủ tịch Hồ Chí Minh:
Là một sinh viên tôi phải phấn đấu và trở nên gương mẫu trong các hoạt động xã hội, vận dụng
sáng tạo để góp phần cho đất nước ngày càng một phát triển mạnh mẽ hơn. Luôn giữ vững lập
trường của mình, dám nói lên tiếng nói của mình. Giữ chuẩn mực đạo đức của ông cha ta từ
xưa đến nay. Noi gương theo chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.Và cũng như trong mọi hành động
và ý nghĩ, tôi sẽ luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo
tấm gương vĩ đại của Người. Thêm vào đó với việc xây dựng Đảng, tôi luôn cảnh giác với
những thế lực thù địch chống phá Việt Nam, bạo loạn lật đổ của các chủ nghĩa đế quốc. Luôn
trau dồi, học hỏi, học tập và rèn luyện theo tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng Đảng
cũng như về sự nghiệp của thanh niên Việt Nam. Luôn trung thành tuyệt đối với Đảng và Nhà nước.
Trong xu thế toàn cầu hiện này, bản thân ta là một sinh viên thì phải có trách nhiệm sáng suốt
trong việc chọn lọc thông tin. Không để bản thân sa lầy vào những hội phản động, lôi kéo lối
sống thực dụng. Sinh viên ngày nay phải tham gia vào các hoạt động tình nguyện giúp đỡ,
tuyên truyền ý thức tự giác, kỷ luật nhằm đẩy mạnh trong công tác xây dựng Đảng ta. Không
tự học suốt đời, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn của mình.Tuyên truyền đường lối chính
sách pháp luật của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Tìm biện pháp để phòng
chống suy thoái về phẩm chất đạo đức.
Khái quát về vị trí và vai trò của tinh thần đại đoàn kết dân tộc
– Đại đoàn kết dân tộc chính là một vấn đề chiến lược bảo đảm được thành công của cáchmạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản và nhất quán luôn
xuyên suốt trong tiến trình cách mạng của nước ta. lOMoAR cPSD| 61570513
Đoàn kết dân tộc chính là chiến lược để tập hợp mọi lực lượng nhằm tạo thành sức mạnh to
lớn trong công cuộc đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi, giành độc lập dân tộc.
– Đại đoàn kết dân tộc chính là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng của cách mạng
Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc luôn được quán triệu trong mọi chủ trương, trong đường
lối và chính sách của Đảng, là lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng nước ta.
Trong các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thì tinh thần
đại đoàn kết dân tộc luôn được coi là mục tiêu hàng đầu. Đây là sự nghiệp của quần chúng,
do quần chúng và vì quần chúng.
Đảng sẽ có vai trò tập hợp hướng dẫn quần chúng, chuyển những đòi hỏi khách quan tự phát
của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành sức mạnh trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Như vậy có thể thấy được rằng tinh thần đại đoàn kết dân tộc có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với cách mạng nước, ở nội dung tiếp theo của bài viết này sẽ nêu tư tưởng của Hồ Chí
Minh về tinh thần đại đoàn kết dân tộc và liên hệ bản thân về đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về tinh thần đại đoàn kết dân tộc
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn đề đại đoàn kết dân tộc là một cống hiến có
giá trị to lớn, được thể hiện thông qua những nội dung cơ bản dưới đây: –
Đại đoàn kết dân tộc là một trong những hệ thống quan điểm, các nguyên tắc tổ chức
vàtập hợp lực lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp trong xã hội, phát huy
đến mức cao nhất sức mạnh của cả dân tộc. –
Tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc là sự kết thừa và phát huy truyền thống
đoànkết, nhân ái của dân tộc Việt Nam. –
Đây là một chiến lược nhất quán và xuyên suốt trong việc tập hợp lực lượng cách mạng,
lànhân tố quyết định đến sự thành công của cách mạng nước ta. Truyền thống yêu nước,
nhân ái và tinh thần gắn kết cộng đồng của dân tộc chính là những cơ sở quan trọng trong
việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. –
Khối đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên cơ sở lập trường của giai cấp
côngnhân phải lấy liên minh công nông trí làm nền tảng và do Đảng lãnh đạo. Nguyên tắc này
xuất phát từ việc đại đoàn kết không phải là tập hợp các lực lượng xã hội một cách ngẫu nhiên
mà cần phải tập hợp một cách bền vững của các lực lượng có tổ chức, có định hướng và có lãnh đạo. –
Muốn có đại đoàn kết thì cần phải thực hiện tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúngmột cách khéo léo để mọi người tự giác đoàn kết thực hiện, tự nguyện tham gia.
Tuy nhiên nếu muốn giáo dục, thuyết phục được quần chúng thì cần phải có đường lối, chủ
trương đáp ứng được những nguyện vọng của quần chúng nhân dân-đây chính là vấn đề quan trọng hàng đầu.
Từ đó thấy dược rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc không chỉ có ý nghĩa
xuyên suốt trong tiến trình cách mạng của nước ta mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong công cuộc hội nhập kinh tế hiện nay.
Tự liên hệ bản thân về vấn đề đại đoàn kết dân tộc lOMoAR cPSD| 61570513
Thực hiện đại đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và của mỗi cá nhân, ở
nội dung này sẽ liên hệ bản thân về đại đoàn kết dân tộc. –
Mỗi cá nhân cần phải luôn phấn đấu, tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo
gươngcủa chủ tịch Hồ Chí Minh
Luôn cố gắng học tập rèn luyện, hoàn thành tốt những công việc và nhiệm vụ được giao;
gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong việc giải quyết công việc,
gương mẫu về mặt đạo đức và giữ vững lập trường. –
Tùy theo sức và vị trí của mình bản thân cá nhân luôn nâng cao tinh thần cảnh giác,
chốngnhững luận điệu xuyên tạc về Đảng, về chủ tịch Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng cao
trình độ của bản thân để có thể thích ứng được với điều kiện xã hội mới. –
Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao kiến thức và trình độ chuyên
môncủa bản thân. Thực hiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước đến quần chúng nhân dân. –
Cần phải có tư tưởng chính trị vững vàng, xác định phấn đấu vì một mục tiêu chung
làhiệu quả công việc, không gây mất đoàn kết trong nội bộ. –
Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, đoàn kết nhưng không có nghĩa là bao
checho khuyết điểm của đồng chí đồng nghiệp mà mỗi cá nhân cần nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình. –
Mỗi cá nhân cần dám nhận những thiếu sót, những khuyết điểm của bản thân, của
đồngnghiệp và thẳng thắn góp ý để cùng xây dựng cùng chia sẻ những cái hay cái tốt và loại
bỏ dần những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm
túc, chân thành, đúng nơi đúng lúc.
CƠ SỞ ĐỂ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Tinh thần đại đoàn kết dân tộc là một yếu tố xuyên suốt trong quá trình dựng nước và giữa nước của dân tộc ta.
Thực hiện việc xây dựng đại đoàn kết dân tộc trong một mặt trận thống nhất chính là để tập
hợp và để lãnh đạo quần chúng nhân dân trở thành một khối thống nhất về ý chí và về hành động.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nhằm tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng chính là một thành viên của mặt trận đồng thời Đảng cũng chính là lực lượng lãnh đạo.
Đảng không chỉ thực hiện việc xây dựng, thực hiện củng cố đại đoàn kết dân tộc mà Đảng còn
cần phải biến nguồn sức mạnh đó trở thành một khối vững chắc.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ chỉ thực sự phát huy được sức mạnh khi gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng,
đây cũng chính là một tư tưởng cơ bản, nhất quán xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Đây
chính là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được để hình thành sức mạnh to lớn
của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, với giai cấp. lOMoAR cPSD| 61570513
Trong từng thời kỳ, trong từng giai đoạn cách mạng có thể và cần thiết thì sẽ phải điều chỉnh
chính sách, phương pháp tập hợp để phù hợp với những đối tượng khác nhau nhưng tinh thần
đại đoàn kết dân tộc phải luôn được nhận thức là một vấn đề sống còn của cách mạng.
Đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng
của nước ta. Tư tưởng này được tập trung ở những nội dung như: đoàn kết chính là bài học
hàng đầu, có tính chiến lược và quyết định mọi thành công. Thực hiện việc đoàn kết phải có
nguyên tắc và vì mục tiêu và lợi ích chung.
Từ đó có thể thấy rằng tinh thần đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với dân tộc
ta. Thực hiện việc xây dựng đại đoàn kết của dân tộc không chỉ là trách nhiệm của Đảng, là
trách nhiệm của nhà nước mà thực hiện đoàn kết dân tộc còn là trách nhiệm của mỗi cá nhân,
nội dung tiếp theo sẽ liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Đoàn kết dân tộc đã trở thành một động lực to lớn để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng
trầm để tồn tại và phát triển bền vững.
Đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của Đảng, của toàn dân và của mỗi cá nhân. Nội dung này sẽ
liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một bài học kinh nghiệm lớn của dân tộc
ta, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công việc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay thì bài học kinh nghiệm này vẫn còn
nguyên giá trị và cần được tiếp tục phát huy để khơi dậy sức mạnh to lớn của dân tộc trong
công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay việc phát huy tinh thần đại đoàn kết
dân tộc càng cần được phát huy. Do đó mỗi cá nhân cần quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc
đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Chúng ta phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc về Đảng,
về Chủ tịc Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao trình độ để thích ứng với điều kiện xã hội
mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như tập
trung dân chủ, kỷ luật nghiêm minh, tự giác trong công việc cũng như trong cuộc sống cộng đồng.
Đẩy mạnh việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn của bản thân, tuyên truyền về
đường lối chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm
chất đạo đức, luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức.
Mỗi cá nhân cần có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức: Cần gương mẫu rèn luyện phẩm chất
tư cách, làm tròn những nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Có lối sống cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã với mọi người. Luôn tự rèn luyện và trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống.
Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người
tốt, chân thành, khiêm tốn, không bao che khuyết điểm,…Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết
trong tập thể, trong cơ quan đơn vị.
Bản thân cần tự đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật,
không chia bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ. lOMoAR cPSD| 61570513
Cần có ý thức coi trọng việc tự phê bình và phê bình; phê phán những biểu hiện xuất phát từ
những động cơ cá nhân; động viên người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức lối sống, thực
hiện xây dựng gia đình văn hóa.
Để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc hiện nay mỗi cá nhân không chỉ cần rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức mà còn cần phải không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn.
1. Những quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm mới, tiến bộ về đạo đức của con người mới. Đó là: -
Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng của con người. Người coi, đạo đức của con người như
trời có bốn mùa, đất có bốn phương,con người có bốn đức “cần, kiệm, liêm, chính”1; - Thứ
hai, đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân: “Vô luận chung
trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”; - Thứ ba,
gần gũi với quần chúng nhân dân: “đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng, hiểu
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên
và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…”2;
- Thứ tư, không ngừng học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin: “Học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân; là học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”3.
Như vậy, đạo đức cách mạng chính là nội hàm bao trùm, xuyên suốt để mỗi cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, thanh niên tu dưỡng và rèn luyện.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu
dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò vô cùng quan trọng. Riêng với thế
hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là "người chủ tương lai của nước nhà"; là
cái cầu nối giữa các thế hệ - "người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là
người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và
chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ
rất sớm. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định: "Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài
mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì
chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức
mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Người chỉ rõ việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân
không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp
họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người viết: "có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn,
gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"; lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thuần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa".
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Hồ Chí Minh
không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công
dân. Người chỉ rõ, trong xã hội mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người
làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh lOMoAR cPSD| 61570513
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh viên,
thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức cần thiết để họ
có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ
hai (7-5-1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong "Sáu cái yêu:
Yêu Tổ quốc, Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ
quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Yêu
nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân biết nhân dân còn cực khổ như thế nào,
biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân. Yêu chủ
nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm. Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao
động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
Yêu khoa học và kỷ luật: bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ luật". Theo
người, để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức
tính như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình,
"không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hoi mình đã làm gì cho nước
nhà. Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn. Mình đã vì lợi ích nước nhà mà
hy sinh phấn đấu chừng nào". Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành,
học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng hám
danh, hám lợi. "Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao
động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống
kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang". Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ
ai? Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?... Người chỉ rõ: "Đối
với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có
hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có
lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc
và đồng bào là kẻ thù... Điều gì phải, thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái,
thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ".
2.2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Hồ
Chí Minh - một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay:
Đạo đức Hồ Chi Minh là đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá
nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí công vô tư. Dưới ngọn cờ của tư
tưởng đó trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã lập được nhiều kỳ tích to lớn,
đóng góp vào tiến trình chung của lịch sử dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế một nền đạo
đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng, là nguồn động lực quan
trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền
thống của dân tộc như: yêu nước, thương người, sống nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới. những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và
thời đại. Nhờ đó phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong
sạch, lành mạnh: khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập: sống có bản lĩnh, có chí lập
thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đổi mặt với những khó khăn thách thức, dám chịu
trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc phấn
đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế do sự bùng phát của
lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu cực trong xã hội
ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc lOMoAR cPSD| 61570513
phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu "diễn biến hòa
bình" đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân. ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình
cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên tri thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên
phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có trí lập thân, lập nghiệp:
chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình
và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút xách: thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm,
chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đâv là những biểu hiện không thể coi thường.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhàđạo
đức học lỗi lạc mà còn là một tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư
tưởng và tấm gương đạo đức của người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không
chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ
và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà thế
hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dưới đây là một số nội dung cơ bản: Một là, học
trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp giải phóng con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất và là một trong những con người đẹp
nhất của thời đại chúng ta.
Ngay từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục tiêu hiến
dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, luôn kiên định,
dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, "thắng không kiêu, bại không
nản", "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất
phục" nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó. Người nói: Bài học chính trong đời tôi là tuyệt
đối và hoàn toàn cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Tổ quốc, giải
phóng giai cấp công nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cho sự
hợp tác anh em và hòa bình giữa các dân tộc; "Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một ngày
tôi ăn không ngon, ngủ không yên" Đến lúc phải rời thế giới này điều luyến tiếc duy nhất của
người là "không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Tấm gương vì nước, vì dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế thừa
nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca ngợi Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "nhà cách mạng triệt để", "nhà hoạt động quốc tế thần thoại", "một nhân vật nổi bật
nhất trong thời đại chúng ta", "một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và nhân
đạo cao cả nhất. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng
suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy"; một
con người "mà cái chết là mầm sống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt"...
Hai là học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đòi riêng trong sáng, nếp sống giản dị và
đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chinh, chí công vô tư, ít lòng
ham muốn vật chất, đó là tư cách người cán bộ cách mạng và tự mình, Người đã gương mẫu
thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
luôn vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng
viết:"Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người. Quyền lợi tối
cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người. Gia đình của Người
là đại gia đình Việt Nam".
Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng những
nghi thức trang trọng cầu kỳ, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch, tao nhã, giản dị, khiêm
tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Toàn thể nhân dân Việt
Nam và thế giới đều biết bộ ka ki bạc màu, đôi dép lốp mòn, cái nhà sàn gỗ đơn sơ của Chủ lOMoAR cPSD| 61570513
tịch Hồ Chí Minh... Nói về những đức tính vĩ đại của Hồ Chí Minh. X.Asienđê - vị Tổng thống
anh hùng của nước Cộng hòa Chile đã khái quát: "Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất
cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường".
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng,
hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền với niềm
tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ đảng viên, việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh: phải gần dân, hiểu
dân, học dân, kính trọng nhân dân: hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người phê phán quyết
liệt đầu óc "quan cách mạng" và tự mình. Người thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu.
"lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng". Là người
có uy tín rất cao và sức hấp dẫn rất lớn song không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn
nhân dân chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân dân, "như một người lính vâng mệnh
lệnh quốc dân ra trước mặt trận".
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh dành cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những nỗi
đau riêng. Người nói trong "mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả
những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi". Cách
mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc Việt Nam vừa trải qua nạn đói khủng khiếp. Hồ Chí
Minh chủ trương tăng gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói
và người cũng đóng góp lon gạo của mình như mọi người dân. Đi thăm trại tù binh trong chiến
dịch biên giới về. Người không còn áo khoác ngoài vì Người đã cho tên quan ba thầy thuốc
người Pháp bị rét cóng...
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của dân tộc, nên
có sức mạnh và sự cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương tri. Ở Hồ Chí Minh,
thương người là một tình cảm lớn cho nên khi làm cách mạng Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do
và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản, vừa thánh thiện, vừa
gần gũi, đã làm xúc động trái tim nhân loại và Người được suy tôn như "một ông thánh cộng
sản"; "một con người của huyền thoại", cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có lẫn bình luận:
Lòng nhân đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thứ
thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian khổ. Hai
lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động sôi nổi được đánh giá rất cao,
có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ, không được giao nhiệm vụ. Song, nhờ ý chí và nghị lực
tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua mọi thử thách, gian
nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm cách mạng của mình.
Người đã làm thơ để tự răn:
"Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao".
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách Hồ Chí Minh. Một
tờ báo nước ngoài đã viết: "Đằng sau cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý chí sắt thép,
Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng không có gì uy hiếp nổi"
Trong tình hình hiện nay để phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
của sinh viên có hiệu quả đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và
việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu gương của mọi người trong xã hội, của bố
mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và lOMoAR cPSD| 61570513
sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên,
việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn.
3. Sinh viên Việt Nam học và làm theo lời Bác
3.1. Một số thành tự đạt được -
Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, gia đình, nhà trường, toàn
xã hội, sự nỗ lực của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên đã
đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đào tạo ra một thế hệ thanh niên đủ sức đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. -
Thế hệ trẻ ngày nay ngày càng năng động, hội nhập quốc tế, thông minh, tự tin, tự chủ,
nhiều bạn trẻ có những thành tựu từ khi còn rất sớm. Đa số sinh viên tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, sống có trách nhiệm, có ước mơ, hoài bão, dám nghĩ, dám làm, dám thành công. 3.2. Vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh của sinh viên hiện nay còn một số hạn chế: -
Nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa
với giáo dục khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu và xu thế
thị trường lao động trong nước và quốc tế. -
Đặc biệt có một thời gian dài, chúng ta xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh niên,
nếu có thì chỉ mang tính hình thức, kém hiệu quả. -
Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay vẫn chỉ mới tập
trung vào những vấn đề như giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục tri thức, giáo dục nghề
nghiệp, công ăn, việc làm... Trong khi đó có những nội dung cơ bản, quan trọng và cấp bách
vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong đó đặc biệt là những vấn đề giáo dục đạo đức. -
Phương pháp giáo dục thanh niên thời gian qua vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp truyền
thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời sống xã hội và lao
động nghề nghiệp, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo và năng lực thực hành của thanh niên… -
Vẫn còn một bộ phận sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ
truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước, quốc
tế. Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức vươn lên
trong học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu niềm tin, bản lĩnh non
kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật. -
Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của
mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào việc đi học, sau đó, đi
làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham gia các phong trào, các hoạt động xã hội. -
Một bộ phận sinh viên còn chịu tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên truyền
xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn mơ hồ, thiếu kiên
định, thiếu hoài bão, không tích cực tham gia các phong trào và hoạt động xã hội.
3.3. Nhiệm vụ, giải pháp
Những lời dạy của Bác Hồ dành cho học sinh, sinh viên Việt Nam
Là một sinh viên, em sẽ làm gì, làm như thế nào để học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh? Em học tập và rèn luyện theo phong cách của Bác như thế nào?

Đặt mục tiêu, học, làm theo Bác để trở thành một người như Bác - điều đó là khó có thể. Bởi
để trở thành một người dành trọn niềm tin, sự tôn kính của cả dân tộc cũng như của nhân loại
tiến bộ như Bác là cả một quá trình học tập, rèn luyện vất vả và quá trình ấy cũng phải diễn
ra trong hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt. lOMoAR cPSD| 61570513
Nhưng học và làm theo Bác chắc chắn không phải là cái gì đó quá cao siêu. Tư tưởng, đạo
đức, phong cách của Người là chuẩn mực của tất thảy những việc diễn ra trong cuộc sống
thường ngày, khi thật tâm, thì soi chiếu vào đó, ai cũng đều có thể thấy được những việc
mình có thể học theo, làm theo Người.
Hội viên, sinh viên cần chủ động, tích cực, thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền tư tưởng và
tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, góp phần
nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên.
Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ thuộc nhiều vào
sự nỗ lực của thanh niên, sinh viên, có tác động to lớn đến tương lai của cá nhân và đất nước.
Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm,
đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng, càng
có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
- Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên cần:
Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm gương Hồ
Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm. •
Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác dạy. •
Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung
thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo. •
Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các tiêu
chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt. - Hội viên,
sinh viên không chỉ có nhiệm vụ tích cực học tập và làm theo Bác về trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm mà còn phải:

Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần trách nhiệm, trung
thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô trách nhiệm, sự giả dối,
nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội. •
Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh viên
hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả trong
thực hành theo tư tưởng, tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm, trung thực nói đi đôi với làm.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên cần xác định rõ trách nhiệm của mình đối
với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp chung của đất nước:

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút nào được
quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ
nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới". •
"Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước
nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?". •
Phải dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ và có
trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ,
không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người khác. Sẵn sàng
nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi mình không hoàn thành nhiệm
vụ, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thầntrách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm: Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm: lOMoAR cPSD| 61570513 •
Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, Với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp. • Dũng cảm. •
Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện:
"Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm",
"gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người". •
Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ. Cần
nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc và trong
cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm,trước
hết phải nói đi đôi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm và nhân cách:
Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải. •
Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. •
Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa chữa
khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt tích cực.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:
Mỗi hội viên, sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình. •
Phải thật sự trung thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân, bạn
bè, đồng chí, với Tổ quốc và nhân dân. •
Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối Đảng, dối dân. •
Phải chống lại thói Ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vô cảm,
"đục nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn. •
Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua bán tri thức... •
Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình. •
Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội. •
Để làm được như vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực,
trách nhiệm trong công việc và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cân thiết và quý
báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên gắn tinh thần trách nhiệm, được tính
trung thực, nói đi đôi với làm và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công việc chuyên
môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức đoàn, hội, đội:

Hội viên, sinh viên cần Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn
luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã hội, không nói dối thầy cô, cha mẹ. •
Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của người con ngoan, trò giỏi. •
Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, vào công việc.
Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải có sự
tu dưỡng, rèn luyện hết mình , luôn luôn cố gắng phấn đấu vì gia đình quê hương đất nước,
luôn yêu quê hương đất nước, giàu lòng nhân ái và tích cực làm theo tấm gương đạo đức của
Hồ Chí Minh trong cuộc sống.
LIÊN HỆ CỦA BẢN THÂN VÀ NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC, CÁ NHÂN BẢN THÂN SINH VIÊN lOMoAR cPSD| 61570513
Mỗi cá nhân cần phải luôn phấn đấu, tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo gương của chủ tịch HồChí Minh
Luôn cố gắng học tập rèn luyện, hoàn thành tốt những công việc và nhiệm vụ được giao; gương
mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong việc giải quyết công việc, gương
mẫu về mặt đạođức và giữ vững lập trường. –
Tùy theo sức và vị trí của mình bản thân cá nhân luôn nâng cao tinh thần cảnh giác,
chốngnhững luậnđiệu xuyên tạc về Đảng, về chủ tịch Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng cao
trình độ của bản thân để có thểthích ứng được với điều kiện xã hội mới. –
Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn
củabản thân.Thực hiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
đến quần chúng nhân dân. –
Cần phải có tư tưởng chính trị vững vàng, xác định phấn đấu vì một mục tiêu chung là
hiệuquả côngviệc, không gây mất đoàn kết trong nội bộ. –
Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, đoàn kết nhưng không có nghĩa là bao
checho khuyếtđiểm của đồng chí đồng nghiệp mà mỗi cá nhân cần nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình. –
Mỗi cá nhân cần dám nhận những thiếu sót, những khuyết điểm của bản thân, của
đồngnghiệp và thẳngthắn góp ý để cùng xây dựng cùng chia sẻ những cái hay cái tốt và loại
bỏ dần những khuyết điểm, hạnchế còn tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm
túc, chân thành, đúng nơi đúng lúc. NHÀ NƯỚC
+ Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
+ Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu,nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng;
+ Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia- dân tộc; đề cao
tinh thần dântộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi
người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng,
Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ
sở. Thực hiệntốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến
lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
+ Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn
kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân
bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số
VIỆT NAM THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Những thành công của đối ngoại Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm Đổi mới, là thực tiễn chứng minh
rõ ràng và đầy đủ nhất về tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ của con người vĩ đại Hồ Chí Minh. Thứ nhất, hợp
tác quốc tế luôn là nguyên tắc, chiến lược, có vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng trong quan điểm, chính
sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã và đang triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. lOMoAR cPSD| 61570513
Sau chiến thắng năm 1975, sau gần 10 năm rơi vào tình thế khó khăn trên trường quốc tế, tới năm
1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, một thời
kỳ “Đổi mới” toàn diện, tạo nên thế và lực mới cho dân tộc.
Từ quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước khác trong Hội đồng
tương trợ kinh tế… đến nay, Việt Nam đã xác lập mối quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới, là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với gần 30 quốc gia, trong đó có
tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, là đối tác toàn diện
với tất cả các nước trong cộng đồng ASEAN; lần đầu tiên được bầu vào Ủy ban Luật thương mại quốc
tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL); lần thứ hai được bầu, trở thành Ủy viên không thường trực Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và tới 2020, là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Là
thành viên của WTO, của nhiều thể chế đa phương, đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán
ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do FTA với 59 đối tác trên toàn thế giới.
Việt Nam ngày càng chủ động, sáng tạo hơn trong triển khai hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế, góp
phần phục vụ tốt lợi ích quốc gia, dân tộc. Tính đến nay, Việt Nam được 71 nước công nhận là quốc
gia có nền kinh tế thị trường và hiện trong top đầu của ASEAN về mức độ hội nhập và độ mở của nền
kinh tế. Mối quan hệ với các đối tác kinh tế khiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tương đương 200% GDP.
Cùng với kinh tế, hợp tác, hội nhập quốc tế đã góp phần không nhỏ trong ổn định chính trị, an ninh
trong nước, góp phần đan xen lợi ích với các đối tác, qua đó, tạo cục diện thuận lợi để Việt Nam giữ
nước từ xa. Tính đến nay, sau 5 năm bắt đầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,
Việt Nam đã cử 90 sĩ quan tham gia sứ mệnh quốc tế cao cả này. Có thể xem đây là sự thể hiện mức
độ tham gia ngày càng sâu hơn, đóng góp ngày càng tích cực hơn của Việt Nam với tư cách là thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, hoạt động đối ngoại của Việt Nam tập
trung vào các đối tác ưu tiên, chủ chốt, các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác.
Quan hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước ASEAN tiếp tục có những bước tiến mới,
quan trọng. Những nỗ lực lớn của Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là trong
lĩnh vực kinh tế ngày càng nhiều. Kết quả năm 2018, Việt Nam xuất khẩu đạt 243,5 tỷ USD và xuất
siêu 6,8 tỷ USD một phần quan trọng nhờ quan hệ tốt với các đối tác lớn.
Thứ ba, đoàn kết, hợp tác quốc tế, với Hồ Chí Minh, gắn với nguyên tắc bất di bất dịch và mục tiêu
quan trọng là góp phần đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ; hợp tác tìm giải pháp ổn định,
lâu dài, cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau.
Đây là một đóng góp lớn của đối ngoại Việt Nam thời gian qua.
Nguy cơ lớn nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam hiện nay, là vấn đề Biển
Đông. Tình hình Biển Đông trong vòng hơn 10 năm qua diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ là
vấn đề tranh chấp chủ quyền, mà còn là tâm điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã, đang và luôn sẵn sàng giải quyết những tranh
chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời coi
trọng việc giữ gìn mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Nhờ lập trường chính
nghĩa, nhờ những bằng chứng pháp lý và căn cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong 35 năm đổi mới và hội nhập, việc tích cực triển khai các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức thanh niên đến các cấp, các ngành và gia
đình đã giúp tuổi trẻ Việt Nam ngày càng có môi trường, điều kiện tốt hơn để học tập,
rèn luyện, trưởng thành, nâng cao trình độ, hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống văn hóa, từng bước hoàn thành nhân cách, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên lOMoAR cPSD| 61570513
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên
lực lượng kế cận đối với sự nghiệp của Đảng, tương lai, vận mệnh của dân tộc, tiền đồ của
Tổ quốc. Ra đi tìm đường cứu nước lúc còn trẻ, những năm tháng bôn ba ở nước ngoài đã
giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh có được cách nhìn nhận toàn diện về vai trò của thanh niên.
Người nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”(1). Người cũng khẳng định,
thanh niên đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, là lực
lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới.
Theo Người, thế hệ trẻ là một lực lượng hùng hậu bao gồm thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng, trong đó thanh niên, có vai trò quan trọng nhất. Đó là lứa tuổi ham hiểu biết, giàu niềm
tin, nhiệt tình, năng động, dám nghĩ, dám làm... Do vậy, nếu được giáo dục, định hướng,
động viên đúng thì thanh niên sẽ phát huy được vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của mình.
Người đã khẳng định: “Thanh niên ta rất hăng hái, ta biết hợp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt
đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ”(2). Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đặt niềm tin lớn vào thế hệ thanh niên đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng và
xây dựng nước nhà. Người đã cổ vũ, lôi cuốn thanh niên, đưa họ đến với cách mạng bằng
chính những năm tháng tuổi trẻ đầy nhiệt huyết cách mạng và khát khao đấu tranh giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào của mình.
Người chỉ rõ, đã là người cách mạng cần phải có sức mạnh, đó chính là sức mạnh của đạo
đức cách mạng, vì “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang"(3). Hồ Chí Minh đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, vì theo Người “có đạo đức
cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi
ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không
ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình"(4); giúp mỗi người cộng sản khi gặp
thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không lo kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá, v,v..
Trong công tác xây dựng Đảng, Người luôn coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng"(5) và nếu xét mối quan hệ giữa đức và tài
trong mỗi con người thì đạo đức chính là “gốc”. Do vậy, trong công tác giáo dục lý luận chính
trị, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói chung, sinh viên, thanh niên nói
riêng, thì giáo dục đạo đức cách mạng là nội dung quan trọng nhất, vì đó chính là yếu tố tạo
nên cái “chất”, cái “gốc”, cái “nền tảng” vững chắc của người cách mạng.
Quan điểm trên thể hiện chiến lược của Hồ Chí Minh đối với vận mệnh của cả dân tộc và trở
thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác giáo dục đạo đức thanh niên nhằm chăm lo bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của
thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hội nghị
lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa X) đã ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về
"Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa". Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh
nhiệm vụ tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần
trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động,
giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị
thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động, sáng
tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên,
nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước. lOMoAR cPSD| 61570513
Một số kết quả và vấn đề đặt ra
Trong thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cùng với sự tham
gia của các ngành, các cấp, gia đình, nhà trường, toàn xã hội, sự nỗ lực của Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam,
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên đã đạt được những thành tựu nhất định,
góp phần đào tạo ra một thế hệ thanh niên đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Tuổi trẻ Việt Nam ngày càng có môi trường, điều kiện tốt hơn để học tập, rèn luyện, trưởng
thành, góp phần nâng cao trình độ, hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn
hóa, từng bước hoàn thành nhân cách. Đa số sinh viên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng và con đường phát triển của đất nước; sống có trách nhiệm với Tổ quốc, gia đình và
bản thân; có ước mơ, hoài bão; có kiến thức, kỹ năng, sức khỏe tốt, tư duy năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Phần lớn sinh viên Việt Nam luôn tin tưởng và đồng thuận với đường lối chính trị của Đảng,
chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, ra sức học tập, rèn luyện và lao động sản
xuất. Nhiều sinh viên có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị cao, có ý chí vươn lên, phát
huy mạnh mẽ truyền thống xung kích của những thế hệ thanh niên lớp trước, trở thành tấm
gương sáng cho đông đảo thanh niên noi theo. Ở nhiều cuộc thi trí tuệ thế giới, học sinh,
sinh viên nước ta luôn đạt giải cao. Cùng với đó là những tấm gương điển hình tiên tiến,
xung kích đi đầu trong học tập và công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc
tế đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ; là kết quả và minh chứng
sinh động cho quá trình bồi dưỡng, đào tạo thế hệ cách mạng kế cận của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ở nước ta hiện
nay còn một số hạn chế: Nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo
đức, giáo dục văn hóa với giáo dục khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nội dung chưa phù hợp
với nhu cầu và xu thế thị trường lao động trong nước và quốc tế. Đặc biệt có một thời gian
dài, chúng ta xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh niên, nếu có thì chỉ mang tính hình
thức, kém hiệu quả. Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay
vẫn chỉ mới tập trung vào những vấn đề như giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục tri thức,
giáo dục nghề nghiệp, công ăn, việc làm... Trong khi đó có những nội dung cơ bản, quan
trọng và cấp bách vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong đó đặc biệt là những vấn đề
giáo dục đạo đức. Phương pháp giáo dục thanh niên thời gian qua vẫn chủ yếu sử dụng
phương pháp truyền thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời
sống xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo và năng lực
thực hành của thanh niên…
Vẫn còn một bộ phận sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ truyền
thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước, quốc tế.
Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức vươn lên trong
học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu niềm tin, bản lĩnh non kém,
thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp
luật. Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của
mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào việc đi học, sau đó,
đi làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham gia các phong trào, các hoạt
động xã hội. Một bộ phận sinh viên còn chịu tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên
truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn mơ hồ,
thiếu kiên định, thiếu hoài bão, không tích cực tham gia các phong trào và hoạt động xã hội.
Nhiệm vụ, giải pháp
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên, các cấp ủy, tổ chức đoàn thể trong các học viện, nhà trường cần thực hiện một số
nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau: